CHƯƠNG XXXV
TẠI GLASGOW, CHÚNG TÔI ĐƯỢC TIẾP ĐÓN trong tiếng kèn túi của một trung đoàn Xcôtlen diễu hành trước mặt chúng tôi trong bộ lễ phục màu hồng điều. Mẹ tôi rất thích duyệt binh, nhưng chúng tôi vẫn chưa hết ghê sợ Mers-el-Kébir, và quay lưng lại với bè kèn trống đang thao diễn trên những lối đi trong công viên nơi chúng tôi trú quân, tất cả các phi công Pháp lặng lẽ trở về trại, trong khi những người Xcôtlen tử tế, tự ái và mặt đỏ tía tai hơn bao giờ hết, tiếp tục thổi lên những âm điệu lôi cuốn vang vọng khắp các lối đi vắng người với vẻ bướng bỉnh kiểu Anh. Trong số năm mươi phi công có mặt lúc ấy, chỉ có ba người còn sống sót sau chiến tranh. Suốt những tháng ngày ác liệt tiếp đó, phân tán trên bầu trời nước Anh, nước Pháp, nước Nga, châu Phi, họ bắn hạ hơn một trăm năm mươi máy bay kẻ thù trước khi đến lượt mình gục ngã. Mouchotte, năm chiến công, Castelain, chín chiến công, Marquis, mười hai chiến công, Léon, mười chiến công, Poznanski, năm chiến công, Daligot… cần gì phải thì thầm những cái tên không có nghĩa với ai này chứ? Cũng đâu cần, bởi họ chưa bao giờ thực sự rời xa tôi. Tất cả những gì còn sống trong tôi đều thuộc về họ. Dường như đôi khi, bản thân tôi vẫn tiếp tục sống chỉ vì phép lịch sự, và sở dĩ tôi còn để trái tim mình đập, thì chỉ là vì tôi luôn yêu thú vật.
Ít lâu sau khi tôi đến Glasgow, mẹ đã ngăn tôi làm một việc ngớ ngẩn khó lòng cứu vãn, một việc mà nếu làm thì tôi sẽ phải mang vết nhơ và hối hận suốt đời. Các bạn hẳn còn nhớ khi tốt nghiệp Trường Không quân Avord, tôi đã bị tước lon thiếu úy trong hoàn cảnh nào. Vết thương mà sự bất công ấy gây ra vẫn còn rớm máu và khiến tôi đau lòng. Thế nhưng giờ đây không có gì dễ dàng hơn việc tôi tự chữa chạy vết thương ấy cho mình. Tôi chỉ việc may cho mình một cái lon thiếu úy trên tay áo và thế là xong. Suy cho cùng, tôi có quyền làm điều đó, lon thiếu úy của tôi chỉ bị những tên đểu cáng ngụy tín cưỡng đoạt mà thôi. Sao tôi lại không tự trả công bằng cho mình được chứ?
Nhưng dĩ nhiên, mẹ tôi xen vào ngay. Không phải vì tôi đã hỏi ý kiến bà, còn lâu mới là thế. Thậm chí tôi còn làm tất cả những gì có thể để mẹ không hay biết dự định nho nhỏ của tôi, để đẩy mẹ ra xa khỏi đầu óc tôi. Vô ích: trong nháy mắt, mẹ đến bên tôi, tay cầm cây gậy, nói với tôi những lời lẽ xúc phạm cực độ. Đó không phải cách mẹ nuôi dạy tôi, đó không phải điều mẹ mong chờ nơi tôi. Không bao giờ, sẽ không bao giờ mẹ để tôi về nhà nếu tôi hành động như vậy. Mẹ sẽ chết vì xấu hổ và sầu muộn mất. Tôi cố len lén trốn mẹ trong những đường phố ở Glasgow cũng bằng thừa, bà đuổi theo tôi khắp nơi, giơ gậy dọa tôi, và tôi thấy rõ gương mặt bà khi thì van xin, khi thì phẫn nộ, khi thì nhăn nhó vẻ không hiểu, cái vẻ tôi biết rất rõ. Mẹ vẫn luôn mặc chiếc áo khoác màu xám, đội chiếc mũ màu xám tím và đeo vòng ngọc ở cổ. Ở phụ nữ, cổ là nơi già nhanh nhất.
Tôi vẫn là trung sĩ.
Ở Olympia Hall, tại London, nơi tập trung của những người lính tình nguyện Pháp đầu tiên, các cô gái trẻ và các quý bà thuộc giới thượng lưu Anh đến chuyện phiếm đôi ba lời với chúng tôi. Trong số đó, có một cô gái tóc vàng quyến rũ mặc quân phục đã chơi với tôi không biết bao nhiêu ván cờ. Cô ấy có vẻ quyết tâm động viên tinh thần những người lính tình nguyện Pháp nhỏ bé tội nghiệp và thế là chúng tôi dành hết thời gian để chơi cờ. Cô chơi rất tuyệt, lần nào cũng cho tôi thua liểng xiểng và sau đó mời tôi chơi ván khác ngay. Sau mười bảy ngày đi tàu, thì việc dành hết thời gian để chơi cờ với một cô gái rất xinh đẹp, trong khi đang khao khát chiến đấu, là một trong những mối bận tâm khiến người ta bực tức nhất mà tôi được biết. Cuối cùng, tôi đành né tránh cô gái ấy, đứng từ xa mà ngắm cô so tài với một trung sĩ bộ binh, anh này rốt cuộc cũng trở nên buồn bã và chán nản như tôi. Cô gái ngồi đó, tóc vàng và dễ thương, và, với vẻ mặt hơi quái, cô dàn những quân cờ trên bàn. Một cô gái kỳ quặc. Tôi chưa bao giờ thấy cô gái nào xuất thân từ một gia đình gia giáo lại làm nhiều hơn thế để khiến tinh thần quân đội suy sụp như vậy.
Thời ấy tôi không hề biết tiếng Anh nên gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp xúc với người bản xứ; may mà thỉnh thoảng tôi biết cách ra hiệu. Người Anh rất ít khi ra hiệu, nhưng chúng ta có thể làm cho họ hiểu được khá rõ chúng ta cần gì ở họ. Ở khía cạnh này, việc không biết ngoại ngữ thậm chí còn có thể đơn giản hóa các mối quan hệ, chỉ giữ lại những gì cơ bản và tránh những lời mào đầu vô bổ cùng những thể thức phiền toái.
Tại Olympia Hall, tôi kết bạn với một người mà ở đây tôi sẽ gọi là Lucien, người, sau nhiều ngày đêm tân hôn đầy sóng gió, đã bất ngờ nã đạn vào tim mình. Trong vòng ba ngày bốn đêm, anh đã kịp yêu si mê một cô gái chào khách ở quán Wellington, hộp đêm nơi dân Không lực Hoàng gia Anh thường lui tới, kịp bị cô gái ấy lừa để đổi sang cặp với một khách hàng khác và do vậy mà anh cũng kịp sầu muộn đến nỗi chỉ còn cái chết là giải pháp duy nhất với anh. Trên thực tế, phần lớn chúng tôi đã rời nước Pháp, rời gia đình mình trong những tình huống lạ thường và vội vã tới mức phản ứng thần kinh thường chỉ bột phát sau nhiều tuần và đôi khi theo cách hoàn toàn bất ngờ. Thế là một số người tìm cách bấu víu vào cái phao đầu tiên mà họ thấy, và trong trường hợp của bạn tôi, vì cái phao đã ngay lập tức tuột khỏi tầm tay, hay nói đúng hơn là đã qua tay người khác, nên anh hoàn toàn đổ sụp dưới sức nặng của nhiều thất vọng cộng lại. Còn tôi, tôi bám riết lấy một cái phao để vượt qua mọi thử thách, đúng ra là một cái phao từ xa, nhưng với cảm giác hoàn toàn an tâm bởi suy cho cùng, một người mẹ không mấy khi chịu buông rời con mình. Tuy nhiên hồi ấy, có khi tôi vẫn uống hết một chai whisky mỗi đêm, ở những nơi chúng tôi phải sống trong nôn nóng và bất mãn. Chúng tôi phẫn nộ vì người ta chậm chạp trong việc giao máy bay cho chúng tôi và cho chúng tôi đi chiến đấu. Tôi thường đi với Lignon, de Mézillis, Béguin, Perrier, Barberon, Roquère, Melville Lynch. Lignon bị mất một chân ở châu Phi, vẫn tiếp tục bay với cái chân giả rồi bị bắn hạ trong chiếc Mosquito, tại Anh. Béguin hy sinh tại Anh sau khi lập tám chiến công trên chiến trường Nga. De Mezillis để lại cánh tay trái ở Tibesti, Không lực Hoàng gia Anh làm cho anh một cánh tay giả và sau đó anh bị giết trong chiếc Spitfire tại Anh. Pigeaud bị hạ ở Libye; bị bỏng nặng, anh đi bộ năm mươi cây số băng qua sa mạc và chết khi tới phòng tuyến của chúng tôi. Roquère bị trúng ngư lôi ở ngoài khơi Freetown và bị cá mập ngấu nghiến trước mặt vợ mình. Astier de Villatte, Saint Péreuse, Barberon, Perrier, Langer, Ezanno Kẻ Tuyệt Vời, một gã liều lĩnh điển hình, Melville Lynch vẫn còn sống. Thỉnh thoảng chúng tôi có gặp nhau. Hiếm khi thôi: tất cả những gì chúng tôi cần nói với nhau đã bị tiêu diệt.
Không lực Hoàng gia Anh mượn tôi đi vài chuyến đêm trên vùng trời Wellington và Blenheim, vì thế nên đài B.B.C mới trịnh trọng thông báo từ tháng Bảy năm 1940 rằng “không quân Pháp đã xuất phát từ căn cứ Anh đi đánh bom nước Đức”. “Không quân Pháp” là một đồng đội tên Morel và chính tôi. Thông cáo của đài B.B.C đã khiến mẹ tôi phấn khởi không gì tả xiết. Bởi vì, trong tâm trí, bà không bao giờ mảy may nghi ngờ ý nghĩa của câu “không quân Pháp xuất phát từ căn cứ Anh”. Đó là tôi. Sau đấy, tôi được biết là suốt nhiều ngày liền, mẹ tôi đi khắp chợ Buffa với gương mặt rạng rỡ để loan báo tin vui: cuối cùng tôi cũng làm chủ được tình hình.
Tiếp đó tôi được phái đi Saint Athan và chính trong thời gian nghỉ phép tại London cùng Lucien, Lucien bỗng gọi điện thoại đến khách sạn gặp tôi, nói cho tôi biết là tất cả mọi việc đều ổn và tinh thần rất cao, rồi anh gác máy và đi tự sát. Khi đó, tôi giận anh rất nhiều, nhưng tôi không bao giờ giận lâu, và khi được giao nhiệm vụ cùng hai hạ sĩ đưa quan tài anh ra nghĩa địa quân sự chật hẹp ở P., tôi không còn nghĩ đến điều ấy nữa.
Tại Reading, đường sắt vừa bị bom địch phá hỏng và chúng tôi phải chờ nhiều giờ liền. Tôi gửi quan tài lại theo hướng dẫn, sau khi lấy giấy biên nhận, chúng tôi đi dạo một vòng trong thành phố.” Thành phố Reading chẳng có gì hay ho cả, và để chống lại bầu không khí khiến tinh thần suy sút ấy, chúng tôi buộc phải uống rượu nhiều hơn thường lệ một chút, đến nỗi mà khi quay lại nhà ga, chúng tôi không khiêng được quan tài. Tôi phải gọi hai phu khuân vác, giao cho họ giấy biên nhận và thuê họ đưa quan tài lên toa hành lý. Đến nơi, trong cảnh tối om và chỉ có ba phút để thu hồi thi thể bạn mình, chúng tôi lao lên toa hành lý và vừa kịp giằng lấy cái quan tài trong khi tàu đã bắt đầu khởi hành. Sau cuộc hành trình kéo dài một giờ nữa trên xe tải, rốt cuộc chúng tôi mới có thể đặt được gánh nặng của mình xuống trạm gác nghĩa trang, bỏ nó ở đấy qua đêm, với lá quốc kỳ dành cho nghi lễ. Sáng hôm sau, khi đến trạm gác, chúng tôi thấy một trung sĩ người Anh ngơ ngác tròn mắt nhìn chúng tôi. Khi trải lá cờ tam tài lên quan tài, anh ta nhận ra trên lá cờ ấy có khẩu hiệu quảng cáo một loại bia cực kỳ nổi tiếng bằng chữ đen: Guiness is good for you. Tôi không biết liệu tác giả của việc này có phải là mấy gã phu khuân vác bị vụ ném bom làm cho căng thẳng thần kinh hay là chính chúng tôi, trong bóng đêm mù mịt, nhưng ít nhất có một điều đã rõ: có ai đó, ở đâu đó, đã nhầm hòm. Tất nhiên chúng tôi rất chán nản, càng chán nản hơn khi cha tuyên úy đang đợi, cũng như sáu người lính xếp hàng bên huyệt đang chờ bắn loạt súng danh dự. Cuối cùng, để tránh nguy cơ phải đối diện với lời kết tội hời hợt mà các đồng minh Anh chỉ chăm chăm dành cho những người Pháp vùng Tự do, chúng tôi bèn quyết định rằng đã quá muộn để lùi bước và rằng vấn đề này liên quan đến uy tín của bộ quân phục. Tôi nhìn chằm chằm vào mặt viên trung sĩ người Anh, anh này gật đầu ra ý hoàn toàn hiểu, rồi nhanh tay trải lá cờ lên hòm, chúng tôi khiêng hòm ra nghĩa địa và tiến hành hạ huyệt. Cha tuyên úy nói vài câu, chúng tôi đứng nghiêm chào, loạt đạn danh dự được bắn lên bầu trời xanh, tôi giận điên tiết cái kẻ hèn nhát này, kẻ đã nhượng bộ trước kẻ thù, kẻ đã thiếu tình bằng hữu và đã trốn tránh con đường gian nan vất vả mà chúng tôi đang đi, đến nỗi hai bàn tay tôi siết lại thành nắm đấm, tôi buột miệng chửi thề trong khi cổ họng thắt lại.
Chúng tôi không bao giờ biết cái hòm kia, cái hòm đúng, đã ra sao. Đôi khi, đủ loại giả thiết thú vị lại nảy sinh trong tâm trí tôi.