CHƯƠNG XL
NHỮNG LÁ THƯ CỦA MẸ TÔI ngày càng ngắn gọn hơn, đó là những lá thư viết vội bằng bút chì, mỗi lần tôi nhận được tới bốn, năm lá. Mẹ tôi vẫn khỏe. Bà không thiếu insulin. “Con trai vinh quang của mẹ, mẹ rất tự hào về con… Nước Pháp muôn năm!” Tôi thường ngồi trên tầng thượng quán “Royal”, từ đây người ta có thể thấy dòng sông Nil cùng những ảo ảnh khiến cả thành phố như bồng bềnh giữa hàng nghìn hồ nước sáng rực, tôi ngồi đó, tập thư trên tay, giữa những cô gái phục vụ người Hungary, những phi công người Canada, Nam Phi, Úc, họ chen chúc nhau trên sàn nhảy và xung quanh quầy bar, cố thuyết phục một cô gái xinh đẹp nào đó chiều lòng mình đêm ấy - tất cả bọn họ đều trả tiền, chỉ có người Pháp là không trả, điều này chứng tỏ ngay cả sau khi bại trận, nước Pháp vẫn giữ được nguyên vẹn uy tín của mình. Tôi đọc đi đọc lại những dòng chữ âu yếm và đầy tin tưởng, trong khi con bé Ariana, bạn tâm giao của một trong những thượng sĩ nhất gan dạ nhất của chúng tôi, thỉnh thoảng lại tới ngồi bên bàn tôi giữa hai điệu nhảy và tò mò nhìn tôi.
– Cô ấy yêu anh à? cô ta hỏi tôi.
Tôi gật đầu thừa nhận không lưỡng lự, không khiêm nhường giả tạo.
– Thế còn anh?
Như thường lệ, tôi chơi trò ra vẻ ta đây.
– Ồ, em biết đấy, tôi trả lời, đối với anh, phụ nữ thì một mất mười còn…
– Anh không sợ cô ấy lừa dối anh khi anh đi vắng à?
– Ồ không, em thấy đấy, tôi trả lời.
– Ngay cả khi tình trạng đó kéo dài nhiều năm trời?
– Ngay cả khi tình trạng đó kéo dài nhiều năm trời.
– Nhưng suy cho cùng, chắc anh không nghĩ là một người phụ nữ bình thường có thể ở một mình nhiều năm trời mà không có đàn ông, chỉ vì muốn làm đẹp lòng anh thôi đấy chứ?
– Anh nghĩ là như thế, tôi nói, em cứ hình dung đi. Anh đã tận mắt chứng kiến. Anh từng biết một phụ nữ ở một mình nhiều năm trời mà không có đàn ông, chỉ để làm đẹp lòng một người nào đó.
Thế là chúng tôi lên Libye để tham gia chiến dịch chống Rommel lần thứ hai, và ngay những ngày đầu tiên, sáu lính Pháp cũng chín lính Anh đã chết trong tai nạn thảm thương nhất chúng tôi từng biết. Sáng hôm đó, gió khamsin thổi mạnh, dưới sự chỉ huy của Saint-Péreuse, khi đang cất cánh ngược chiều gió thì các phi công cùng ba chiếc Blenheim của chúng tôi bỗng thấy nhô ra từ trong lốc cát ba chiếc Blenheim của người Anh bị nhầm hướng theo chiều gió lao về phía mình. Trên mấy chiếc máy bay có chở ba nghìn ký bom và hai đội bay đã đạt tốc độ cất cánh, cái thời điểm không thể điều khiển được trong điều kiện sân bay và bão cát đó. Chỉ có Saint-Péreuse cùng Bimont ở đài quan sát thoát khỏi vụ va chạm. Tất cả những người còn lại đều tan thành tro bụi. Người ta thấy bầy chó chạy lăng quăng hàng giờ với những mẩu thịt ngậm trong mõm.
May mà hôm đó tôi không có mặt trên máy bay. Vào lúc vụ nổ xảy ra, tôi đang được làm lễ xức dầu cuối cùng ở Bệnh viện Quân y Damas.
Tôi bị thương hàn và chảy máu dạ dày, các bác sĩ chăm sóc tôi, đại úy Guyon và thiếu tá Vignes, cho rằng tôi chỉ có một phần nghìn cơ hội tai qua nạn khỏi. Tôi đã được truyền máu năm lần nhưng các cơn xuất huyết vẫn tiếp tục, thế nên các đồng đội của tôi thay nhau cho tôi máu. Xơ Felicienne, một tu sĩ trẻ người Arménie, dòng thánh Saint-Joseph Tiểu Hiện, giờ đang sống trong một tu viện gần Bethléem, đã chăm sóc tôi hết sức sự tận tụy, đúng theo giáo lý Cơ đốc. Tôi bị mê sảng mười lăm ngày nhưng mất hơn sáu tuần mới hoàn toàn hồi phục lý trí: tôi đã giữ rất lâu một lá thư thỉnh cầu mà trước đó tôi từng gửi cho tướng de Gaulle thông qua cấp chỉ đạo trực tiếp, trong thư tôi phản đối một sai lầm hành chính, tôi nói, khiến tôi không được xếp vào danh sách những người còn sống, hậu quả của việc này là, tôi nhấn mạnh, các anh em trong đơn vị và các hạ sĩ quan không chào tôi nữa, như thể tôi không tồn tại. Phải nói rằng tôi vừa được thăng cấp thiếu úy, và, sau cuộc phiêu lưu của tôi tại Avord, tôi rất thiết tha với cái lon thiếu úy của mình và với những biểu hiện tôn trọng mà người ngoài phải dành cho tôi.
Cuối cùng, các bác sĩ cho rằng tôi chỉ sống được vài giờ nữa và các đồng đội thuộc căn cứ không quân Damas được giao nhiệm vụ làm đội danh dự trước thi thể tôi tại nhà thờ riêng của bệnh viện, trong khi anh y tá người Senegal đưa quan tài vào phòng ở của tôi. Tỉnh lại trong chốc lát, điều thường xảy ra sau một cơn xuất huyết vốn hay kéo theo tình trạng giảm sốt bởi cơn xuất huyết ấy đã hút mất máu trong tôi, tôi nhận ra cái hòm dưới chân giường, vì cho rằng đó là một cái bẫy mới nào đây, tôi bỏ trốn ngay lập tức; tôi lấy sức đứng dậy và lê đôi chân gầy như hai que diêm vào vườn, nơi một thanh niên bị thương hàn đang lại sức ngồi sưởi nắng; khi thấy một bóng ma trần truồng loạng choạng đi về phía mình, đầu chỉ đội mỗi cái mũ cát két sĩ quan, anh chàng khốn khổ hét toáng lên rồi ba chân bốn cẳng chạy về phía trạm gác: ngay tối hôm đó, bệnh anh ta tái phát. Trong cơn mê sảng của mình, tôi đã đội chiếc mũ cát két thiếu úy với cái lon mới tinh vừa được nhận mà không chịu bỏ ra, điều này có lẽ chứng tỏ là cú sốc của tôi ba năm trước đó, khi bị làm nhục ở Avord, nghiêm trọng hơn tôi vẫn tưởng. Những tiếng rên hấp hối của tôi hoàn toàn giống với tiếng của một chiếc xifông rỗng bị nghẹt. Còn anh bạn Bimont thân yêu, chạy từ Libye đến thăm tôi, sau này đã nói với tôi rằng anh thấy cách bám riết của tôi hơi gây sốc, thậm chí là sỗ sàng. Tôi năn nỉ hơi nhiều. Tôi hoàn toàn thiếu lịch sự và thiện ý. Như người ta vẫn nói thì tôi làm đủ trò để đạt được điều mình muốn. Tôi khiến người ta chán ngấy, gần giống như một kẻ hà tiện khi nào cũng chỉ bấu víu vào tiền. Và với nụ cười mỉm châm chọc rất hợp với mình, nụ cười mà anh vẫn luôn giữ dù năm tháng trôi đi, ở miền châu Phi xích đạo này, anh bảo tôi:
– Mày có vẻ vẫn thiết tha với cuộc sống đấy.
Người ta làm lễ xức dầu cuối cùng cho tôi đã được một tuần rồi, công nhận là lẽ ra tôi không nên gây nhiều khó khăn đến thế. Nhưng tôi là một người chơi tồi. Tôi từ chối nhận mình là kẻ thất bại. Tôi không thuộc về tôi nữa. Tôi phải giữ lời hứa của mình, phải về nhà trong vinh quang sau một trăm lần chiến thắng, phải viết Chiến tranh và hòa bình, phải trở thành đại sứ nước Pháp, tóm lại là phải làm cho tài năng của mẹ tôi bộc lộ. Trên tất cả, tôi không chấp nhận nhường bước trước cái gì đó bất thập toàn. Một nghệ sĩ đích thực không được để thua trước chất liệu của mình, anh ta phải tìm cách áp đặt cảm hứng của mình cho nguyên liệu thô, cố mang lại cho khối nhão một hình dạng, một ý nghĩa, một nét biểu cảm. Tôi không chấp nhận để cuộc đời mẹ tôi kết thúc một cách ngớ ngẩn ở khoa lây bệnh viện Damas. Tất cả nhu cầu nghệ thuật của tôi, lòng yêu mến cái đẹp trong tôi, cũng có nghĩa là lòng yêu mến công lý, đã ngăn cấm tôi từ bỏ tác phẩm có thực của mình trước khi thấy nó thành khuôn thành hình, trước khi soi rọi thế giới xung quanh, dù chỉ trong phút chốc, bằng ý nghĩa thân tình và xúc động nào đó. Tôi sẽ không ký vào văn tự mà các vị thần đưa cho tôi, một văn tự vô nghĩa, phi tồn tại và phi lý. Tôi không thể không đạt đến mức độ tài năng ấy.
Mặc dù thế, cám dỗ từ bỏ tất cả vẫn thật kinh khủng. Người tôi đầy những vết thương mưng mủ, những cái kim truyền từng giọt từng giọt huyết thanh được chọc vào tĩnh mạch của tôi trong nhiều giờ liền và khiến tôi cứ tưởng mình đang cuộn tròn trong những sợi dây thép gai, lưỡi tôi bị một vết loét xẻ dọc, hàm trái của tôi, vốn đã rạn khi tôi gặp tai nạn tại Mérignac, nay bị nhiễm khuẩn và một miếng xương của nó đã long ra và xuyên qua lợi, không ai dám đụng vào vì sợ chảy máu, máu vẫn chảy từ người tôi ra và tôi bị sốt cao đến nỗi người ta lấy ga ướp lạnh đắp cho tôi, thân nhiệt tôi bằng nhiệt độ của tấm ga đó sau vài phút - hơn nữa, các bác sĩ để ý thấy tôi bị sán dây nặng trong quãng thời gian này, từng mét sán từ ruột tôi bắt đầu chui ra. Nhiều năm sau khi tôi khỏi bệnh, mỗi lần tôi gặp lại một thầy thuốc nào đó từng chữa bệnh cho tôi, họ lại vừa nói vừa nhìn tôi vẫn với vẻ hoài nghi như hồi ấy:
– Anh sẽ không bao giờ biết anh từ chỗ nào trở về đâu.
Có thể như vậy lắm, nhưng các vị thần đã quên cắt dây rốn. Ghen tị với bất cứ bàn tay người nào tìm cách mang lại cho số phận một hình thức và một ý nghĩa, họ ra sức hành hạ tôi đến nỗi mà cơ thể tôi chỉ còn là một vết thương rớm máu, nhưng họ không hiểu gì về mối tình của tôi cả. Họ đã quên cắt dây rốn và thế là tôi sống sót. Ý chí, sức sống và lòng dũng cảm của mẹ vẫn tiếp tục được truyền qua người tôi và nuôi dưỡng tôi.
Tia lửa cuộc sống đang cháy bỗng bùng lên thành ngọn lửa thiêng của sự tức giận khi tôi thấy cha xứ vào phòng để làm lễ xức dầu cuối cùng cho tôi.
Khi tôi thấy vị cha xứ râu ria rậm rịt, mặc bộ đồ màu trắng tím, tiến về phía mình với bước chân vững chãi, cây thánh giá giơ ra phía trước, khi tôi hiểu ông ta đang định làm gì tôi, tôi cứ ngỡ mình thấy quỷ Satan hiện hình. Trước sự kinh ngạc của bà xơ tốt bụng đang đỡ người tôi, tôi nói bằng một giọng to, rõ ràng dù lúc ấy tôi chỉ như một con gà nước:
– Chẳng làm được gì đâu - không gì đâu.
Sau đó, tôi biến mất vài phút và khi trở lại được, tất cả đã đâu vào đấy rồi. Nhưng tôi không bị khuất phục. Tôi tuyệt đối quyết tâm trở về Nice, đến chợ Buffa trong bộ quân phục sĩ quan, ngực đính đầy huy chương và tay ôm lấy mẹ. Sau đó, hai mẹ con tôi có thể đi dạo một vòng ở đại lộ Promenade des Anglais trong tiếng vỗ tay tán thưởng. “Hãy đón chào người phụ nữ Pháp vĩ đại của Khách sạn Nhà nghỉ Mermonts, bà từ chiến trường trở về, mười lăm lần được nêu gương, đã lập rất nhiều vinh quang trong các chiến dịch không quân, con trai bà có thể tự hào về bà!” Những ông già ngả mũ vẻ kính cẩn, họ hát La Marseillaise, có ai đó thì thầm: “Hai mẹ con họ vẫn dính với nhau qua dây rốn” và quả là tôi thấy rõ cái ống cao su dài từ tĩnh mạch của mình chui ra còn tôi thì mỉm cười đắc thắng. Đây đúng là nghệ thuật! Đây đúng là lời hứa đã được thực hiện! Thế mà người ta muốn tôi khước từ sứ mạng của mình với cái cớ là các bác sĩ đã cho rằng bệnh tôi vô phương cứu chữa, rằng lễ xức dầu cuối cùng đã hoàn tất, rằng các đồng đội đeo găng tay trắng đã chuẩn bị làm lễ cho tôi tại nơi cất giữ quan tài? Ồ, việc này thì không bao giờ nhé! Sống vẫn hơn - như các bạn biết, tôi không bao giờ lùi bước trước bất cứ sự cùng cực nào.
Tôi không chết. Tôi bình phục. Bình phục không nhanh đâu. Sốt giảm rồi hết nhưng tôi vẫn tiếp tục mê sảng. Vả lại, sự mê sảng của tôi chỉ được thể hiện qua việc tôi nói lắp: lưỡi tôi gần như bị vết loét cắt đứt. Sau đó, tôi bị viêm tĩnh mạch và người ta lo ngại cho cái chân của tôi. Phía dưới bên trái mặt tôi bị liệt vĩnh viễn, đúng chỗ hàm bị nhiễm khuẩn, cho nên bây giờ mặt tôi có vẻ không cân xứng rất thú vị. Tôi bị mụn nước và bị viêm cơ tim dai dẳng, tôi không còn nhận ra ai, không thể nói chuyện, nhưng dây rốn vẫn hoạt động bình thường. Và về cơ bản, tôi chưa thực sự bị lãnh quả: khi lý trí hồi phục hoàn toàn và tôi đã có thể nói, nói đớt dễ sợ, tôi tìm cách hỏi người ta xem lúc nào mình có thể trở lại chiến trường.
Mấy ông bác sĩ cười. Với tôi, chiến tranh đã kết thúc. Không ai dám chắc rằng tôi sẽ đi lại được bình thường, tim tôi có thể bị thương tổn suốt đời, còn về giấc mơ lên máy bay chiến đấu của tôi - họ chỉ nhún vai và cười hiền.
Ba tháng sau, tôi lại lên chiếc Blenheim của mình, vây đánh tàu ngầm của địch trên bầu trời phía Đông Địa Trung Hải, cùng với de Thuisy, anh hy sinh vài tháng sau tại Anh, trên chiếc Mosquito.
Ở đây tôi phải bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với Ahmed, một tài xế taxi vô danh tiểu tốt người Ai Cập, người đã chấp nhận một khoản tiền nhỏ mọn là năm bảng Anh để khoác bộ quân phục thay tôi đi khám sức khỏe ở Bệnh viện Không lực Hoàng gia Anh tại Cairo. Anh không được đẹp trai, không có vẻ nóng bỏng cho lắm, nhưng anh qua được lần khám đó và thế là chúng tôi đi ăn kem ở ngoài thềm quán Gropi để chúc mừng nhau.
Tôi chỉ còn mỗi việc là đối mặt với các bác sĩ thuộc căn cứ Damas, thiếu tá Fitucci và đại úy Bercault. Ở những nơi này thì không có chuyện gian lận. Họ biết rõ tôi là ai. Người ta đã thấy tôi làm việc trên giường bệnh viện, có thể nói như thế. Người ta cũng thừa biết là tôi thỉnh thoảng vẫn rơi vào tình trạng thiểu não và đôi khi chẳng bị khiêu khích chút nào cũng ngất xỉu. Tóm lại, người ta yêu cầu tôi chấp nhận đi nghỉ một tháng ở Thung Lũng Các Vua, tại Louksor trước khi nghĩ đến chuyện trở lại phi đoàn. Thế là tôi đi thăm lăng tẩm của các vị vua Ai Cập và thật sự đắm đuối với quang cảnh sông Nil, tôi đi ngược về xuôi trên dòng sông này hai lần. Đến tận bây giờ, trong mắt tôi đó hãy còn là quang cảnh đẹp nhất thế giới. Đó là nơi mà tâm hồn được thảnh thơi. Tâm hồn tôi thực sự cần điều ấy. Tôi đứng hàng giờ trên ban công của Winter Palace để ngắm những con thuyền felukkas đi qua. Tôi lại tiếp tục viết sách. Tôi viết cho mẹ vài lá thư để bù lại ba tháng im hơi lặng tiếng. Tuy nhiên, trong những bức thư mà tôi nhận được không hề có dấu hiệu của sự lo lắng. Mẹ không ngạc nhiên trước sự im lặng kéo dài của tôi. Thậm chí tôi thấy thái độ đó hơi lạ. Lá thư mới nhất đã rời thành phố Nice, trong khi mà, ít nhất từ ba tháng nay, có lẽ mẹ không nhận được tin tức của tôi. Nhưng mẹ có vẻ không nhận ra điều gì. Hẳn bà nghĩ sở dĩ có chuyện ấy là do thư từ liên lạc giữa hai mẹ con tôi đã phải đi qua những con đường vòng vèo. Vả lại, mẹ biết rõ là tôi sẽ luôn chiến thắng tất cả mọi khó khăn. Tuy vậy, trong những lá thư của mẹ lúc này có len lỏi một nỗi buồn nào đấy. Lần đầu tiên, tôi nhận ra trong đó tồn tại một giọng điệu khang khác, một điều gì đấy không cất thành lời, khiến ta mủi lòng và bối rối kỳ lạ. “Con trai bé bỏng của mẹ. Mẹ xin con đừng suy nghĩ gì về mẹ, đừng lo lắng gì cho mẹ, mẹ xin con hãy là một người dũng cảm. Con hãy nhớ rằng con không cần mẹ nữa, rằng bây giờ con đã là một người đàn ông, không còn là con trẻ, rằng bây giờ con có thể tự đứng vững trên đôi chân mình. Con yêu của mẹ, con hãy nhanh chóng lấy vợ, bởi con sẽ luôn cần một người phụ nữ bên cạnh. Có lẽ đó là cái dở mà mẹ đã gây ra cho con. Nhưng đặc biệt con phải cố viết cho nhanh một cuốn sách thật hay, bởi vì nhờ cuốn sách này con sẽ nguôi ngoai tất cả một cách dễ dàng hơn. Con đã luôn là một nghệ sĩ. Đừng suy nghĩ quá nhiều về mẹ. Mẹ vẫn khỏe. Cụ bác sĩ Rosanoff rất hài lòng về mẹ. Cụ gửi đến con những tình cảm thân thiết. Con trai bé bỏng của mẹ, phải dũng cảm lên. Mẹ của con.” Tôi đọc đi đọc lại lá thư này hàng trăm lần, trên ban công, phía trên dòng sông Nil lững lờ trôi. Giọng điệu lá thư gần như mang vẻ tuyệt vọng, trong đó có một sự trịnh trọng và một sự ý tứ hoàn toàn mới lạ, và lần đầu tiên, mẹ tôi không nói về nước Pháp. Tim tôi thắt lại. Có cái gì đó không ổn, có cái gì đó không được nói ra trong lá thư này. Và cũng có một sự khích lệ lòng dũng cảm hơi lạ, sự khích lệ ngày càng trở đi trở lại nhiều hơn. Thậm chí chúng còn khiến tôi hơi nổi cáu nữa: dù sao thì mẹ cũng phải biết rõ là tôi không bao giờ sợ gì chứ. Cuối cùng, điều quan trọng là mẹ vẫn còn sống, và mỗi ngày mới bắt đầu, hy vọng của tôi, hy vọng thành đạt đúng lúc, lại càng tràn trề hơn.