Đường GreeneTrước Khi Là Đường Greene
Tôi gặp Owen hơn hai năm trước.
Lúc ấy tôi vẫn đang sống ở New York, cách Sausalito, thị trấn nhỏ miền Bắc California nơi giờ tôi gọi là nhà tới ba ngàn dặm. Chỉ nằm bên kia Cổng Vàng từ San Francisco nhưng Sausalito là một thế giới tách biệt với cuộc sống thành phố. Yên tĩnh, quyến rũ. Ngái ngủ. Đây là nơi Owen và Bailey gọi là nhà hơn một thập kỷ qua. Cũng là nơi hoàn toàn trái ngược với cuộc sống trước đây vốn giữ gọn chân tôi ở Manhattan, trong một cửa hàng có gác xép trên đường Greene ở SoHo - một khoảng không gian nhỏ xíu với khoản tiền thuê khổng lồ chưa bao giờ tôi tin mình đủ khả năng chi trả. Tôi dùng nơi ấy vừa làm xưởng làm việc vừa làm phòng trưng bày.
Tôi là thợ tiện gỗ. Công việc của tôi đấy. Mọi người hay tỏ thái độ khi biết nghề nghiệp của tôi (dù tôi có cố diễn tả thế nào), những hình ảnh lớp học mộc ở trường trung học luôn hiện lên trong óc họ. Một thợ tiện gỗ hơi giống thế mà cũng chẳng giống chút nào. Tôi thích mô tả nghề này giống như nghề điêu khắc, nhưng thay vì chạm trổ trên đất sét, tôi chạm trổ trên gỗ.
Tôi đến với nghề một cách tự nhiên. Ông tôi là thợ tiện - và rất giỏi - cuộc đời tôi xoay quanh công việc của ông từ khi tôi biết nhớ. Ông là trung tâm đời tôi từ khi tôi biết nhớ, bởi ông là người nuôi tôi khôn lớn.
Cha tôi Jack và mẹ tôi Carole (người thích tôi gọi là Carole hơn là mẹ) không quan tâm mấy tới việc nuôi dạy con cái. Họ không quan tâm đến bất cứ gì khác ngoài sự nghiệp nhiếp ảnh của cha tôi. Ông tôi động viên mẹ cố gắng ở bên tôi khi tôi còn nhỏ, nhưng tôi hầu như không biết gì về cha, người vì công việc mà vắng nhà tới 280 ngày mỗi năm. Khi được nghỉ thì cha lại trốn riết trong trang trại gia đình ở Sewanee, Tennessee thay vì lái xe hai tiếng đến nhà ông ở Franklin chơi với tôi. Và ngay sau sinh nhật lần thứ sáu của tôi, khi cha bỏ mẹ theo cô trợ lý - một phụ nữ vừa tròn hai mốt tuổi tên là Gwendolyn - mẹ cũng thôi không về nhà nữa. Mẹ lần theo cho đến khi cha quay lại với mình mới thôi. Rồi mẹ bỏ mặc tôi cho ông nuôi hoàn toàn.
Nghe thương tâm quá phải không. Tất nhiên rồi, bị mẹ bỏ rơi thì không lý tưởng chút nào. Đương nhiên là không thú vị gì khi là người gánh chịu hậu quả của lựa chọn ấy. Nhưng khi nhìn lại, tôi thấy mẹ đã làm ơn cho mình khi bỏ đi như thế - không một lời xin lỗi, không một chút lăn tăn. Ít nhất bà cũng cho tôi thấy rõ: Tôi đã chẳng thể làm gì khiến bà muốn ở lại.
Hơn nữa, tôi lại thấy hạnh phúc hơn sau khi mẹ bỏ đi. Ông tôi thực đáng tin và tốt bụng, tối nào cùng nấu cho tôi ăn, chờ tôi ăn xong mới nói đã đến lúc đọc truyện trước khi đi ngủ. Ông lại luôn cho phép tôi xem ông làm việc.
Tôi thích xem ông làm việc. Ông luôn bắt đầu với một khối gỗ lớn đến mức không tưởng, đưa lên bàn tiện rồi biến thành một thứ gì đó nhiệm mầu. Hoặc nếu không đủ nhiệm mầu, ông sẽ tìm cách bắt đầu lại từ đầu.
Có lẽ điều tôi thích nhất khi xem ông làm việc là lúc ông vung tay lên mà rằng, “Thôi, ta phải tìm cách khác cháu nhỉ?” Rồi ông mày mò tìm phương pháp mới để đạt kết quả mong muốn. Tôi đoán bất cứ nhà tâm lý học nào đáng đồng tiền sẽ nói điều đó đã mang lại hy vọng trong tôi - rằng hẳn tôi tin ông sẽ giúp tôi cũng làm được việc ấy cho bản thân mình. Bắt đầu lại từ đầu.
Nhưng tôi nghĩ, điều tôi học được chính là tìm được niềm an ủi trong nghịch cảnh. Xem ông làm việc dạy tôi rằng không phải việc gì cũng trơn tru. Có những thứ ta phải tiếp cận từ nhiều hướng, nhưng ta không bao giờ được bỏ cuộc. Ta hoàn thành việc cần làm, bất chấp phải đi tới tận đâu.
Tôi không bao giờ nghĩ mình sẽ thành công trong nghề tiện gỗ - hay trong việc tôi nhảy cóc sang lĩnh vực làm đồ nội thất. Tôi ngờ rằng mình sẽ không thể kiếm sống từ công việc ấy. Ông tôi phải thường xuyên kiếm thêm thu nhập bằng việc nhận thầu xây dựng. Nhưng từ rất sớm, khi một trong những chiếc bàn ăn khá ấn tượng của tôi được giới thiệu là sản phẩm nổi bật trong tạp chí Architectual Digest thì tôi đã tạo dựng được một chỗ đứng trong một nhóm nhỏ dân cư ở trung tâm thành phố New York. Như một trong các nhà thiết kế nội thất tôi ưa thích đã giải thích, khách hàng của tôi muốn tiêu nhiều tiền vào việc trang trí nhà cửa sao cho nhìn lại tưởng họ chẳng tiêu tốn chút nào. Các sản phẩm đồ gỗ phong cách mộc của tôi giúp họ đạt được mục tiêu ấy.
Thời gian trôi đi, nhóm khách hàng trung thành ấy đã phát triển thành mạng lưới khách hàng lớn hơn ở các thành phố ven biển khác và các thị trấn nghỉ dưỡng: Los Angeles, Aspen, East Hampton, Park City, San Francisco.
Đó là cách mà tôi gặp Owen. Avett Thompson - CEO của công ty công nghệ nơi Owen làm việc - là một khách hàng. Avett và cô vợ xinh đẹp đến ngạt thở Belle là một trong các khách hàng trung thành nhất của tôi.
Belle thích gọi đùa mình là vợ kiểng của Avett, một trò đùa có lẽ buồn cười hơn nếu sự thực không quả đúng như thế. Cô ấy từng là người mẫu, sinh ra và lớn lên ở Úc và trẻ hơn đám con cái đã trưởng thành của ông ta đến mười tuổi. Các sản phẩm của tôi có mặt ở mọi căn phòng trong ngôi nhà trên phố của cô ấy tại San Francisco (nơi cô ấy sống cùng Avett) và ở ngôi nhà ngoại ô mới xây tại St. Helena, một thị trấn nhỏ nằm ở cực bắc Napa Valey, nơi Belle thường lui đến một mình.
Tôi mới gặp Avett vài lần trước khi ông ta cùng Owen xuất hiện ở xưởng của tôi. Họ đến New York tham dự cuộc họp các nhà đầu tư và Belle muốn chồng ghé qua kiểm tra chiếc bàn đầu giường gờ cuốn cô ấy đặt tôi làm cho phòng ngủ của họ. Avett không thực sự biết ông ta phải kiểm tra cái gì, hình như phải xem liệu cái bàn có hợp với khung giường hay không - chiếc khung giường đỡ tấm nệm hữu cơ mười ngàn đô la của họ.
Thực lòng mà nói, Avett không quan tâm chút nào. Khi cùng Owen bước chân qua cửa, ông ta mặc một bộ com lê xanh da trời chải chuốt, mái tóc muối tiêu cứng đờ lớp gel, điện thoại dính chặt vào tai. Ông ta đang dở một cuộc điện thoại. Ông ta chỉ nhìn cái bàn một lần duy nhất và che nhanh ống nói điện thoại.
“Nhìn ổn,” ông ta nói. “Được rồi nhỉ?”
Chẳng đợi tôi trả lời, ông ta tiến thẳng ra ngoài.
Ngược lại, Owen như bị hút hồn. Anh chậm rãi lướt khắp xưởng, dừng lại xem xét từng món đồ.
Tôi nhìn anh đi quanh. Anh quả là một bức tranh khó hiểu: một anh chàng chân dài, tóc vàng luộm thuộm, da rám nắng, đi giày Converse đã sờn. Tất cả những điều đó dường như đối nghịch hoàn toàn với chiếc áo vét thể thao cao cấp trên người. Như thể anh rơi thẳng từ ván lước sóng vào chiếc áo vét và áo sơ mi hồ cứng bên trong vậy.
Tôi chợt nhận ra mình đang nhìn anh chằm chằm nên vội quay đi đúng lúc Owen dừng bước trước sản phẩm yêu thích nhất của tôi - chiếc bàn kiểu nông trại tôi dùng làm bàn làm việc.
Máy tính, báo chí và các dụng cụ nhỏ phủ gần kín mặt bàn. Ta chỉ phát hiện chiếc bàn bên dưới nếu thực sự để ý. Anh thực sự để ý. Anh nhận ra loại gỗ đỏ tôi đục đẽo, các góc bàn nhuộm phớt vàng, các mảnh kim loại thô ốp vào mỗi gờ bàn.
Có phải Owen là khách hàng đầu tiên để ý đến chiếc bàn? Không, tất nhiên là không. Nhưng anh là người đầu tiên cúi xuống như tôi vẫn thường làm, lần ngón tay theo cạnh kim loại sắc rồi giữ nguyên ở đó.
Anh quay đầu ngẩng lên nhìn tôi. “Oái,” anh nói.
“Cứ thử va vào đó giữa đêm mà xem,” tôi nói.
Owen lùi lại đứng dậy, gõ nhẹ vào bàn thay lời tạm biệt. Rồi anh lại gần tôi. Anh lại gần đến lúc không hiểu sao chúng tôi đã đứng cạnh nhau - quá gần nên tôi không thể không tự hỏi thế nào mà đã thành ra vậy. Có lẽ tôi nên thấy ngại ngùng vì mặc áo ba lỗ và quần bò lem nhem sơn cùng búi tóc luộm thuộm trên đầu với các lọn tóc xoăn chưa gội lòa xòa rơi. Nhưng tôi lại có cảm giác khác khi nhìn anh nhìn tôi.
“Vậy đấy,” anh nói, “giá bao nhiêu nhỉ?”
“Thực ra, chiếc bàn là món đồ duy nhất không bán trong phòng trưng bày,” tôi nói.
“Vì có khả năng gây thương tích?” anh nói.
“Chính xác,” tôi nói.
Đó là lúc anh mỉm cười. Khi Owen mỉm cười. Giống tên một bài hát nhạc pop dở tệ. Nói cho rõ thì không phải nụ cười khiến khuôn mặt anh rạng rỡ. Không phải cái kiểu đa sầu đa cảm hay bùng nổ cảm xúc như thế. Nói đúng hơn thì nụ cười của anh - nụ cười hào phóng, trẻ thơ ấy - khiến anh có vẻ tử tế. Nó khiến anh có vẻ tử tế theo cái kiểu mà tôi không nghĩ mình sẽ gặp được ở đường Greene giữa trung tâm Manhattan. Nói rộng ra thì tôi bắt đầu nghĩ không đời nào mình gặp được nó ở đường Greene giữa trung tâm Manhattan.
“Nghĩa là không thể thương lượng về chiếc bàn nhỉ?” anh nói.
“E là không, nhưng tôi có thể giới thiệu cho anh vài sản phẩm khác?”
“Hay một buổi học vậy? Cô dạy tôi cách làm một chiếc bàn tương tự thế, nhưng gờ tròn hơn chẳng hạn...” anh nói. “Tôi sẽ ký giấy miễn trách nhiệm. Tôi sẽ tự chịu trách nhiệm nếu có thương tích.”
Tôi vẫn đang mỉm cười nhưng trong lòng thấy lúng túng. Bởi đột nhiên, tôi thấy bọn tôi không phải đang nói về chiếc bàn. Tôi khá chắc là như thế. Chắc như một phụ nữ đã đính hôn với một người suốt hai năm nhận ra mình không thể kết hôn với người ấy. Hai tuần trước lễ cưới.
“Nghe này, Ethan...” tôi nói.
“Owen,” anh chỉnh lại.
“Owen. Anh hỏi thế tôi vui lắm,” tôi nói, “nhưng tôi có chính sách không hẹn hò với khách hàng.”
“Vậy đấy, may quá, tôi không đủ khả năng mua các sản phẩm của cô đâu mà lo,” anh nói.
Nhưng anh dừng ở đó. Anh nhún vai như muốn nói lần khác vậy , rồi tiến về phía cửa ra vào, trong khi Avett đi qua đi lại trên vỉa hè, điện thoại vẫn bên tai, quát lớn với người ở đầu dây bên kia.
Anh đã ra gần đến cửa. Anh đã sắp đi khỏi đó. Lòng tôi lập tức dâng lên cảm giác mãnh liệt rằng phải ngăn anh lại, để nói với anh tôi không có ý đó. Tôi có ý khác. Ý tôi muốn nói anh hãy ở lại.
Tôi không muốn nói đó là tình yêu từ cái nhìn đầu tiên. Tôi chỉ muốn nói một phần trong tôi muốn làm gì đó ngăn anh bỏ đi. Tôi muốn được ở bên nụ cười cởi mở ấy thêm một lát nữa.
“Chờ chút,” tôi nói rồi nhìn quanh, tìm kiếm thứ gì đó giữ chân anh lại. Phát hiện ra một mảnh vải của một khách hàng khác, tôi liền vớ lấy giơ lên. “Cái này đưa cho Belle.” Không phải khoảnh khắc đẹp nhất của tôi. Vị hôn phu cũ của tôi hẳn sẽ nói, việc chạy theo người khác chứ không phải ngoảnh mặt bỏ đi như thế chẳng hợp với tính cách tôi chút nào.
“Tôi đảm bảo cô ấy sẽ nhận được nó,” anh nói.
Anh đón mảnh vải, tránh ánh mắt của tôi.
“Tôi muốn cô biết một điều, tôi cũng có chính sách của mình. Chính sách không hẹn hò. Tôi là bố đơn thân nên phải thế cho phù hợp với hoàn cảnh...” Anh dừng lời. “Nhưng con gái tôi mê sân khấu lắm. Đến New York mà không đi xem kịch thì thế nào cũng mất điểm với nó.”
Anh chỉ tay về phía Avett đang giận dữ quát lác ngoài vỉa hè.
“Nghe có vẻ lạ, nhưng Avett không khoái kịch kẽo chút nào...”
“Quả rất lạ,” tôi nói.
“Vậy thì... cô nghĩ sao? Cô muốn đi cùng tôi không?”
Anh không tiến lại gần hơn nhưng đưa mắt nhìn tôi. Anh nhìn lên và bắt gặp ánh mắt tôi.
“Đừng coi đó là một cuộc hẹn hò,” anh nói. “Sẽ chỉ một lần thôi. Ta nhất trí như thế. Chỉ ăn tối rồi xem kịch. Rất vui gặp cô.”
“Vì chính sách của chúng ta?” tôi nói.
Nụ cười đã trở lại, hào phóng và cởi mở. “Đúng,” anh nói. “Vì vậy đấy.”
o
“Mùi gì vậy?” Bailey hỏi.
Tôi dứt khỏi dòng ký ức và thấy Bailey đang đứng trước cửa bếp. Nó mặc áo len lụng thụng, túi đeo chéo quàng trên vai, lọn tóc điểm những sợi tím mắc dưới quai túi, vẻ khó chịu ra mặt.
Tôi mỉm cười nhìn nó, điện thoại vẫn kẹp dưới cằm. Tôi cố gọi cho Owen nhưng không được, lúc nào cũng chạy thẳng vào hộp thư thoại. Mãi vẫn thế. Mãi cứ thế.
“Xin lỗi cháu, cô không thấy cháu,” tôi nói.
Nó không trả lời, miệng mím chặt. Tôi bỏ điện thoại, lờ tịt vẻ cau có thường trực của nó. Dù thế nhưng con bé rất xinh. Nó xinh kiểu khiến người ta sững sờ mỗi khi nó bước vào phòng, tôi đã để ý thấy vậy. Trông nó không giống Owen là mấy - mái tóc tím vốn dĩ có màu nâu hạt dẻ, đôi mắt sẫm màu và dữ dội. Đôi mắt ấy mới dữ dội làm sao. Chúng hút ta vào đó. Owen nói chúng giống hệt mắt ông ngoại con bé và đó là lý do vì sao họ đặt tên con bé theo tên ông. Con gái lại tên là Bailey. Chỉ độc có Bailey.
“Bố cháu đâu?” nó hỏi. “Bố phải đưa cháu đến buổi tập kịch.”
Người tôi căng lên khi nghĩ đến mẩu tin nhắn của Owen trong túi, cảm giác như quả cân trĩu nặng.
Bảo vệ nó.
“Chắc bố cháu đang trên đường về,” tôi nói. “Ăn chút gì đã.”
“Mùi thức ăn đấy à?” nó nói.
Nó chun mũi để khẳng định mình không ưa gì thứ mùi đang được nhắc đến.
“Đấy là món mì cháu ăn ở Poggio mà,” tôi nói.
Nó nhìn tôi với ánh mắt trống rỗng, như thể Poggio không phải là nhà hàng nó ưa thích, như thể không phải vài tuần trước chúng tôi vừa đến đó ăn tối kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười sáu cho nó. Baily gọi món đặc biệt hôm đó - mì sợi ngũ cốc nhà hàng tự làm trộn xốt bơ nâu cháy. Owen cho Bailey nếm chút vang Malbec trong ly của anh. Tôi tưởng nó thích món mì. Nhưng có lẽ nó thích được uống rượu vang với bố thì đúng hơn.
Tôi xúc một đĩa lớn đặt lên bếp.
“Thử một chút đi,” tôi nói. “Thế nào cháu cũng thích cho mà xem.”
Bailey không rời mắt nhìn tôi, ngẫm nghĩ không biết có nên mở màn trận chiến quyết định với tôi - liệu nó có tâm trạng đối mặt với thái độ thất vọng của cha nếu tôi hớt lẻo với Owen về việc nó lao vội khỏi nhà không thèm ăn tối hay không. Quyết định thế là không hay, nó đành nuốt cảm giác bực tức mà nhảy lên ngồi trên ghế quầy bar.
“Được,” nó nói. “Cháu sẽ thử một chút.”
Bailey cũng đã cố cải thiện quan hệ với tôi. Đó là điều tệ hại nhất. Nó vốn dĩ không phải đứa hư hỏng hay xấu tính gì. Nó là đứa trẻ ngoan rơi vào hoàn cảnh nó căm ghét. Tôi chỉ không may là một nhân tố trong hoàn cảnh đó.
Có những lý do hiển nhiên để một cô bé mới lớn tỏ thái độ chống đối với vợ mới của cha mình, đặc biệt là Bailey, bởi mọi thứ vốn dĩ tốt đẹp khi chỉ có hai cha con như đôi bạn thân và Owen là người hâm mộ lớn nhất của nó. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất khiến Bailey ghét tôi. Cũng không phải vì tôi nhầm tuổi nó lần đầu gặp mặt. Chuyện là khi tôi vừa chuyển đến Sausalito, tôi phải đến đón Bailey ở trường một buổi chiều nọ, nhưng vì vướng điện thoại với khách hàng nên tôi đến muộn năm phút. Không phải mười phút. Năm phút. 5 giờ 5 phút chiều. Đồng hồ chỉ vậy khi tôi đỗ xe trước cửa nhà bạn nó. Nhưng nếu muộn một giờ thì cũng thế. Bailey là một cô bé chuẩn giờ. Owen sẽ nói rằng đó là điểm chung của hai chúng tôi. Cả vợ và con gái anh đều có thể giải mã được mọi điều về ai đó chỉ trong năm phút. Chỉ cần có vậy. Và năm phút là đủ để Bailey đưa ra kết luận rằng tôi đã nghe cú điện thoại mà lẽ ra không nên nghe ấy.
Bailey cuốn vài sợi mì vào dĩa, săm soi. “Trông không giống Poggio.”
“Thì không phải Poggio mà. Cô thuyết phục tay bếp phó cho mình công thức. Anh ta còn bảo cô đến Ferry Building mua đúng loại bánh mì tỏi đi kèm món cháu ăn hôm ấy.”
“Cô lái xe vào tận San Francisco chỉ để mua một ổ bánh mì á?” nó nói.
Có lẽ tôi đã cố gắng quá. Cả thế nữa.
Nó cúi xuống bỏ cả miếng vào miệng. Tôi cắn môi chờ sự tán thành của nó - một tiếng ực ngon lành dù nó không muốn.
Đúng lúc ấy nó ọe. Nó thực sự oẹ, với tay lấy cốc nước.
“Cô bỏ gì vào thế?” nó nói. “Như... than ấy.”
“Nhưng cô nếm rồi mà,” tôi nói. “Ngon tuyệt.”
Tôi thử thêm một miếng. Nó nói đúng. Trong lúc bối rối vì vị khách mười hai tuổi và tin nhắn của Owe, xốt bơ đã kịp chuyển từ sánh và xốp mềm sang trạng thái cháy sém. Còn đắng nữa. Chẳng khác gì ăn củi lửa trại.
“Đằng nào cũng đến giờ phải đi rồi,” nó nói. “Nhất là nếu muốn đi nhờ xe Suz.”
Bailey đứng dậy. Tôi tưởng tượng Owen sau lưng mình, cúi xuống ghé tai tôi, Cố chờ đi em . Anh hay nói vậy khi Bailey cư xử tệ với tôi. Cố chờ đi em. Nghĩa là - rồi nó sẽ thay đổi. Cũng có nghĩa - chỉ hai năm rưỡi nữa thôi là nó vào đại học. Nhưng Owen không hiểu rằng điều đó không làm tôi thấy dễ chịu chút nào. Với tôi, điều đó chỉ có nghĩa tôi đang chạy đua với thời gian để tìm cách khiến con bé muốn gần gũi với mình.
Và tôi thực sự muốn nó gần gũi với mình. Tôi muốn chúng tôi có tình cảm với nhau và không chỉ vì Owen. Hơn cả thế - có một thứ khiến tôi muốn ở bên Bailey, dù con bé cứ cố đẩy xa tôi. Một phần bởi tôi thấy ở nó những gì xảy ra khi ta không còn mẹ. Mặc dù mẹ tôi lựa chọn bỏ lại tôi, còn mẹ Bailey ra đi sau một thảm kịch, nhưng cả hai đều để lại vết thương lòng giống nhau. Khiến ta như bị bỏ lại nơi xa lạ và phải cố chèo lái giữa cuộc đời mà không có người quan trọng nhất đời mình bên cạnh.
“Cháu sẽ đi bộ sang nhà Suz,” nó nói. “Bạn ấy sẽ cho cháu đi nhờ xe.”
Suz, bạn Suz của nó cũng tham gia diễn kịch. Suz cũng sống ở bến tàu. Nói đến Suz là nói đến an toàn, đúng không?
Bảo vệ nó.
“Để cô đưa cháu đi,” tôi nói.
“Không.” Nó vén mái tóc tím ra sau tai, chỉnh lại tông giọng của mình. “Không sao. Đằng nào Suz cũng đi...”
“Nếu bố cháu chưa về,” tôi nói, “thì cô sẽ đến đón cháu. Hoặc cô, hoặc bố cháu sẽ chờ cháu trước cổng.”
Nó nhìn chòng chọc vào tôi. “Sao lại nếu bố cháu chưa về?” nó nói.
“Bố cháu sẽ về. Cô biết bố cháu sẽ về, ý cô chỉ là... nếu cô đến đón thì cô sẽ để cháu lái xe về nhà.”
Bailey vừa lấy bằng tập lái. Nó sẽ phải lái xe với người lớn một năm trước khi được phép tự lái một mình. Owen không thích để nó lái xe buổi tối, kể cả khi đi cùng anh. Tôi đang tranh thủ điều này.
“Cũng được,” Bailey nói. “Cảm ơn cô.”
Nó bước về phía cửa. Nó muốn nhanh nhanh chấm dứt cuộc trò chuyện và ra hưởng không khí ngoài trời ở Sausalito. Nó sẵn sàng nói bất cứ điều gì để được làm vậy, nhưng tôi chốt luôn.
“Vậy là cô sẽ gặp lại cháu sau vài giờ nữa?”
“Chào cô,” nó nói.
Tôi cảm thấy vui, chỉ trong tích tắc. Rồi cửa ra vào đóng sầm lại sau lưng nó. Để lại tôi một mình với tin nhắn của Owen, trong sự im lặng đáng sợ của căn bếp và đống mì cháy đủ cho cả một gia đình mười người.