Austin Vẫn Kỳ Quặc
Chúng tôi lên chuyến bay rời khỏi San Jose vào 6:55 sáng.
Đã bốn mươi sáu giờ kể từ khi Owen rời khỏi nhà đi làm, bốn mươi sáu giờ kể từ lần cuối cùng tôi nghe được gì đó từ anh.
Tôi cho Bailey ngồi ghế cạnh cửa sổ. Tôi ngồi ghế lối đi, thường xuyên bị huých vào người khi các hành khách vào nhà vệ sinh duy nhất ở cuối máy bay.
Bailey cố tựa sát vào cửa sổ để càng xa tôi càng tốt, hai tay khoanh chặt trước ngực. Nó mặc áo ba lỗ Fleetwood Mac, không có áo nỉ, hai cánh tay nổi da gà.
Tôi không biết nó lạnh hay khó chịu. Hay cả hai. Chúng tôi chưa bay cùng nhau bao giờ nên tôi không nghĩ đến việc nhắc nó nhét áo nỉ vào hành lý xách tay. Nhưng có nhắc thì chắc nó cũng chẳng thèm nghe.
Nhưng tôi bỗng cảm thấy đây là tội ác ghê gớm nhất của Owen. Tại sao anh không để lại cho tôi một điểm tham chiếu trước khi mất tích? Tại sao anh không để lại một bộ tiêu chuẩn hướng dẫn cách chăm sóc Bailey thế nào? Tiêu chuẩn đầu tiên: Bảo nó mang theo áo nỉ khi lên máy bay. Bảo nó đừng để hở tay kẻo lạnh.
Bailey quyết không rời mắt khỏi cửa sổ, tránh không nhìn tôi. Việc nó không muốn nói chuyện hóa ra lại tốt. Tôi chép các ghi chú vào sổ tay. Tôi đang lập kế hoạch. Chúng tôi sẽ hạ cánh vào mười hai giờ trưa giờ địa phương, có nghĩa đến khi vào được trung tâm Austin cũng đã gần hai giờ, vừa kịp nhận phòng khách sạn.
Ước gì tôi biết nhiều hơn về thành phố này, nhưng tôi mới đến đây đúng một lần vào năm cuối đại học, khi Jules được giao công việc đầu tiên (cô ấy được trả 85 đô la và một phòng khách sạn). Jules rủ tôi đi cùng. Cô ấy có nhiệm vụ chụp ảnh Hội chợ Xốt cay Thường niên do tờ Austin Chronicle tổ chức cho một blog về thực phẩm ở Boston. Chúng tôi ở hội chợ trong phần lớn thời gian ở Austin, bỏng miệng vì hàng trăm loại sườn ướp, khoai tây chiên, rau củ hun khói và tương ớt. Jules chụp sáu trăm bức ảnh.
Phải đến trước khi rời khỏi thành phố chúng tôi mới bước chân ra khỏi nơi tổ chức hội chợ là một công viên ở Đông Austin. Chúng tôi tìm được một ngọn đồi tuyệt vời, từ đó có thể ngắm toàn cảnh trung tâm Austin. Cây cối cũng nhiều không kém các tòa nhà chọc trời, bầu trời trong xanh rải rác chút mây. Hồ nước mang lại cảm giác dễ chịu, khiến Austin có dáng dấp một thị trấn hơn một thành phố.
Lúc ấy, tôi với Jules đã quyết sau khi học xong đại học sẽ chuyển đến Austin. Sống ở đó rẻ hơn nhiều so với New York và dễ dàng gấp bội so với Los Angeles. Đến khi tốt nghiệp, cả hai cùng không đả động gì đến khả năng ấy. Nhưng vào lúc đưa mắt nhìn xuống thành phố dưới đồi lúc ấy, chúng tôi cảm thấy sẽ là như thế, bởi cảm giác như đang nhìn vào tương lai cuộc sống của chính mình.
Đây nhất định không phải tương lai tôi từng hình dung.
Tôi nhắm mắt, cố không để những câu hỏi cứ xoay mòng trong đầu tôi bấy lâu nay nhấn chìm mình. Những câu hỏi tôi phải tìm ra câu trả lời: Owen đang ở đâu? Tại sao anh phải trốn? Điều gì anh lo sợ không kể tôi nghe và chính tôi cũng bỏ sót không phát hiện ra?
Đó là một trong những nguyên cớ vì sao tôi đang ngồi trên máy bay lúc này. Tôi có ý tưởng điên rồ rằng việc tôi rời khỏi nhà sẽ khởi động một điều gì đó trong vũ trụ và Owen sẽ trở về mang theo câu trả lời cho tôi. Chẳng phải mọi sự vẫn vận hành như thế đó sao? Ấm nước thường sôi ngay khi ta rời mắt? Khi máy bay vừa hạ cánh xuống Austin, thế nào cũng có tin nhắn của Owen hỏi xem chúng tôi đang ở đâu, nói với tôi rằng anh đang ngồi một mình trong bếp chờ chúng tôi về chứ không phải hoàn toàn ngược lại như thực tế.
“Tôi có thể phục vụ gì cho quý khách?”
Tôi ngẩng lên nhìn cô tiếp viên đứng bên ghế, trước mặt là xe nhôm đẩy đồ uống.
Bailey đang nhìn ra ngoài cửa sổ và không buồn quay lại, đuôi tóc tím là thứ duy nhất xoay về phía chúng tôi.
“Coca thường,” nó nói. “Nhiều đá.”
Tôi nhún vai, dàn hòa trước sự cụt lủn của Bailey. “Cho tôi Coca ăn kiêng,” tôi nói.
Cô tiếp viên không lấy làm phật ý, chỉ cười lớn. “Mười sáu hả?” cô khẽ hỏi.
Tôi gật đầu.
“Con gái tôi cũng mười sáu,” cô nói. “Sinh đôi hẳn hoi. Tin tôi đi, tôi hiểu mà.”
Đến lúc ấy thì Bailey quay lại.
“Cháu không phải con cô ấy,” nó nói.
Sự thực là thế. Lúc nào Bailey cũng sẵn lòng hăm hở chỉnh lại cho đúng. Nhưng hôm nay sao lạ quá, lời nói của nó khiến tôi nhói đau, phải nhăn mặt dù đã cố giấu. Không chỉ vì cảm giác trong lòng tôi, mà còn vì tôi hiểu rõ nó nghĩ gì sau khi đưa ra lời phủ nhận ấy - dù không muốn tin nhưng nó bỗng hiểu việc ghét bỏ tôi hay chối từ tôi giờ chẳng hay ho gì nữa khi vào đúng giây phút ấy, tôi là người duy nhất trên đời mà nó có.
Nét mặt Bailey căng lên khi nhận ra điều ấy. Tôi ngồi im, không rời mắt khỏi màn hình gắn trên lưng ghế trước mặt, một tập Friends đang chiếu trong câm lặng, Rachel và Joey đang cãi nhau trên thuyền buồm.
Tôi giả vờ không biết nỗi tuyệt vọng của Bailey, nhưng tôi cũng không đeo tai nghe. Tôi chỉ biết làm thế để vừa không can thiệp quá sâu lại vừa cho nó thấy tôi sẵn sàng lắng nghe nếu nó cần.
Bailey xoa cánh tay nổi đầy da gà vì lạnh nhưng không nói gì suốt một lúc lâu. Cuối cùng, nó nhấm một ngụm nước ngọt. Rồi nó nhăn mặt.
“Cháu nghĩ cô ấy nhầm cốc rồi,” nó nói.
Tôi quay sang nhìn nó. “Là sao?”
Nó chìa cốc đầy đá, nước ngọt sủi lên gần miệng cốc. “Đây là Coca ăn kiêng,” nó nói. “Tiếp viên chắc đã đưa nhầm của cô cho cháu...”
Tôi cố không tỏ ra quá ngạc nhiên khi nó đưa cốc cho tôi. Tôi cũng không cự cãi. Tôi đưa Bailey cốc của mình, chờ đến lúc nó nhấm một ngụm.
Bailey gật đầu như nhẹ cả người vì đã được cầm trong tay đồ uống của mình. Trừ một điều, cả hai chúng tôi đều biết cô tiếp viên không đưa nhầm. Chỉ đến lúc này - chỉ sau khi Bailey đổi cốc để làm dịu căng thẳng - thì chúng tôi mới thực sự uống nhầm cốc của nhau.
Nếu Bailey chọn cách này để chìa tay với tôi thì tôi cũng sẽ đón nhận hệt như thế.
Tôi nhấp một ngụm Coca. “Cảm ơn cháu,” tôi nói. “Nãy giờ cô thấy vị cứ sao ấy.”
“Không có gì...” nó nói. Rồi nó quay ra nhìn ra ngoài cửa sổ. “Chuyện nhỏ.”
o
Chúng tôi bắt xe Uber ở sân bay, và tôi lướt điện thoại cập nhật tin tức.
Đầy các bài báo về The Shop trên trang chủ CNN, tờ New York Times , tờ Wall Street Journal . Rất nhiều tiêu đề nhấn mạnh cuộc họp báo của chủ tịch SEC, giật tít câu khách kiểu THE SHOP SẼ ĐÓNG CỬA VĨNH VIỄN.
Tôi nhấp vào bài báo mới nhất trên New York Times nhắc tới thông báo của SEC sẽ kiện Avett Thompson vì các hành vi gian lận. Bài báo cũng trích dẫn nguồn tin từ FBI về việc các nhân viên cao cấp cùng bộ máy điều hành chóp bu của công ty chắc chắn sẽ được coi là các đối tượng cần xem xét.
Owen không bị gọi đích danh. Ít nhất là cho tới lúc này.
Chiếc xe Uber rẽ vào đại lộ Presidential và tiến về hướng khách sạn bên bờ hồ Lady Bird gần cầu Congress Avenue. Qua cầu đi xa khỏi trung tâm Austin, khách sạn này ở xa những ồn ào huyên náo của khu vực đông đúc nhất trong thành phố.
Tôi thò tay vào túi lấy bản in tờ đặt phòng khách sạn, mắt lướt qua các thông tin. Họ tên đầy đủ của Jules là Julia Alexandra Nichols nhìn lại tôi chằm chằm. Jules đề xuất dùng thẻ tín dụng của cô ấy đặt phòng cho an toàn. Để cho chắc ăn, tôi mang theo thẻ tín dụng và thẻ căn cước của cô trong túi phòng khi có người theo dõi.
Tất nhiên, hãng máy bay có thông tin về chuyến bay của chúng tôi tới Austin. Jules trả tiền vé bằng thẻ tín dụng của cô ấy, nhưng vé máy bay mang tên hai chúng tôi. Nếu muốn, việc lần theo dấu vết chúng tôi tới đây khá dễ dàng. Nhưng kể cả nếu họ phát hiện ra Austin, không việc gì phải cho họ biết chúng tôi ở đâu trong thành phố. Tôi sẽ không giúp một Grady hay một Naomi nào khác đến gõ cửa mà không báo trước.
Lái xe là một thanh niên đầu buộc khăn vuông liếc Bailey qua kính chiếu hậu. Cậu ta không lớn hơn Bailey là mấy và cứ tìm cách để đánh mắt với Bailey. Cố thu hút sự chú ý của con bé.
“Đây là lần đầu em đến Austin à?” cậu ta hỏi nó.
“Ừa,” nó nói.
“Cảm tưởng của em thế nào?” cậu nói.
“Cảm tưởng sau mười bốn phút từ lúc rời khỏi phi trường ấy hả?” nó nói.
Cậu lái xe cười lớn, chắc nghĩ Bailey đang nói đùa và đang khuyến khích mình tiếp tục trò chuyện.
“Anh lớn lên ở đây,” cậu nói. “Em muốn hỏi gì về thành phố này thì hỏi, anh sẽ cho em biết nhiều hơn những gì em muốn biết.”
“Hay lắm,” nó nói.
Tôi thấy rõ Bailey tuyệt đối không quan tâm nên cố động viên cậu ta nói tiếp vì biết đâu sẽ có ích.
“Cháu lớn lên ở đây à?” tôi nói.
“Sinh ra và lớn lên ở đây. Cháu sống ở đây hồi Austin còn là một thị trấn nhỏ,” cậu nói. “Giờ vẫn là một thị trấn nhỏ ở nhiều mặt, nhưng có thêm cơ man là người và các tòa nhà cao tầng.”
Cậu rẽ ra khỏi đường cao tốc. Ngực tôi thắt lại khi thấy trung tâm Austin trước mắt. Tôi biết đây là kế hoạch đã định, nhưng toàn bộ chuyện này có cảm giác điên khùng hơn rất nhiều khi tôi dưa mắt qua cửa sổ xe nhìn thành phố xa lạ.
Cậu lái xe chỉ tay ra ngoài cửa sổ về phía một tòa nhà chọc trời.
“Là tòa nhà ngân hàng Frost,” cậu nói. “Từng là tòa nhà cao nhất Austin. Giờ thì cháu không biết có còn nằm trong top 5 hay không nữa. Cô đã bao giờ nghe tên tòa nhà ấy chưa?”
“Chắc chưa,” tôi nói.
“Điên khùng lắm,” cậu nói. “Từ một số góc nhìn đặc biệt, tòa nhà trông giống một con cú. Thực sự giống một con cú. Từ đây chắc khó thấy, nhưng nếu nhìn được thì cô sẽ rất khoái...”
Tôi mở cửa sổ nhìn tòa nhà Frost - hai cấu trúc trên cùng như hai tai, hai cửa sổ như hai mắt. Đúng là rất giống cú.
“Đây là thành phố của Đại học Texas, nhưng các kiến trúc sư toàn tốt nghiệp từ Đại học Rice, và cú là linh vật của trường Rice. Không khác gì một cú tát vào mặt linh vật của thành phố và đội bóng Longhorns,” cậu nói. “Nhiều người nói chỉ là thuyết âm mưu, nhưng cô nhìn thử xem. Giống hệt một con cú! Thế thì sao gọi là vô tình được?”
Cậu ta rẽ lên cầu South Congress. Khách sạn của chúng tôi hiện ra phía xa.
“Cô với em đến đây thăm Đại học Texas phải không?” cậu hỏi, nhằm trực tiếp vào Bailey, cố thu hút ánh mắt của con bé qua gương chiếu hậu.
“Không hẳn,” nó nói.
“Thế thì... em đến đây làm gì?”
Bailey không trả lời. Nó mở cửa sổ như muốn nói không muốn phải nghe thêm câu hỏi nào nữa. Tôi không trách nó. Tôi không trách khi nó không háo hức giải thích cho người lạ vì sao nó có mặt ở đây - nơi nó đang cố nhớ xem trước đây đã từng đến hay chưa, để tìm kiếm thông tin về người cha đang mất tích.
“Chỉ vì thích Austin,” tôi nói.
“Chuẩn rồi,” cậu ta nói. “Kỳ nghỉ ngắn. Cháu hiểu.”
Cậu ta tạt xe trước khách sạn, Bailey mở cửa trước cả khi xe dừng hẳn.
“Chờ đã, chờ đã! Để anh cho em số điện thoại, phòng khi muốn anh đưa đi thăm thú thành phố.”
“Không có lúc ấy đâu,” Bailey nói.
Rồi nó chuyển túi sang vai kia, rảo chân bước về phía cửa vào khách sạn.
Tôi vội lấy va li khỏi thùng xe, đuổi kịp Bailey ở chỗ cửa xoay.
“Người đâu mà khó chịu thế,” Bailey nói.
Tôi định nói cậu ta chỉ muốn tỏ ra thân thiện, nhưng Bailey không quan tâm tới thân thiện. Và vì tôi phải chọn xem trận nào đánh trận nào không, nên tôi quyết định không dàn trận vào lúc này.
Chúng tôi vào khách sạn và tôi đưa mắt nhìn quanh sảnh chính: cửa cao, quầy rượu, quầy Starbucks nằm một góc. Hàng trăm phòng. Đúng loại khách sạn không có đặc trưng gì rõ rệt như tôi mong muốn, một địa điểm cho ta lọt thỏm mất dạng giữa muôn người. Nhưng hình như tôi nhìn quanh hơi quá lâu nên bị một nhân viên phát hiện ra.
Bảng tên trên ngực cô đề AMY, tóc búi cao gọn ghẽ.
Chúng tôi vội đứng vào hàng chờ lễ tân, nhưng muộn rồi. Cô đã rảo bước lại gần, miệng nở một nụ cười.
“Xin chào,” cô nói. “Tôi là Amy, nhân viên tiền sảnh. Chào mừng tới Austin! Tôi có thể giúp gì các bạn trong lúc đợi nhận phòng?”
“Chúng tôi không cần gì, nhưng cô có bản đồ khu giảng đường không?” tôi nói.
“Của Đại học Texas - Austin?” cô nói. “Có chứ. Tôi cũng đặt được lịch thăm trường giúp cô, nếu muốn. Khi tới khu ấy, đừng quên uống cà phê ngon tuyệt hảo ở đó. Cô có uống cà phê không?”
Bailey nhìn tôi như muốn nói vì tôi mà Amy cứ lảng vảng nói liến thoắng không ngừng - có thể nó đúng. Thay vì bảo Amy hay chuyện đi chỗ khác, đúng là tôi đã hỏi xin bản đồ. Được cầm gì đó trong tay giúp tôi có cảm giác biết rõ mình đang làm gì.
“Tôi đặt lịch xe đưa đón đến trường cho hai người nhé?”
Chúng tôi đã lên đến đầu hàng. Nhân viên trực sảnh là Steve đang chìa tay mời chúng tôi hai ly nước chanh.
“Chào Amy.”
“Steve! Tôi đang chuẩn bị mang bản đồ và cà phê sữa nóng cho hai quý cô.”
“Tuyệt vời,” Steve nói. “Tôi sẽ giúp hai người ổn định phòng ốc. Điều gì đưa chân hai người tới góc nhỏ trên thế giới này của chúng tôi vậy? Tôi có thể làm gì để biến góc nhỏ này thành nơi yêu thích cho hai người?”
Quá đủ cho Bailey. Steve là chiếc đinh cuối cùng trên cỗ quan tài tình bạn quá trớn - Bailey không chịu nổi nữa, nó đùng đùng bỏ đi về phía thang máy, không quên nhìn xoáy tôi lần cuối. Cái nhìn đầy trách móc trước những cuộc trò chuyện khó ưa, trước việc nó đang phải ở xa nhà và nói chung là đang phải ở Austin này. Mọi thiện chí tôi gây dựng được trên máy bay đã hoàn toàn tan biến.
“Cô Nichols, phòng cô trên tầng tám, nhìn ra hồ Lady Bird xinh đẹp,” Steve nói. “Có rất nhiều dịch vụ spa tuyệt vời trong khách sạn, nếu cô muốn thư giãn sau chuyến bay và trước khi lên phòng. Hay cô có muốn tôi đặt bữa trưa muộn giúp không?”
Tôi giơ hai tay đầu hàng.
“Chỉ cần chìa khóa phòng thôi, Steve,” tôi nói. “Chìa khóa phòng thôi là đủ. Càng nhanh càng tốt.”
o
Chúng tôi cất va li trên phòng. Không có thời gian ăn uống gì.
Chúng tôi rời khỏi khách sạn lúc hai giờ ba mươi, quay lại cầu Congress Avenue. Tôi quyết định đi bộ, đoán rằng một quãng cuốc bộ dài sẽ nhắc Bailey nhớ lại, nếu đúng là có gì đó để nhớ. Quãng đường này cũng sẽ đưa chân chúng tôi qua trung tâm Austin, tiếp nữa sẽ là khu giảng đường và sân vận động Darrell K Royal, sân bóng bầu dục duy nhất trong thành phố.
Vừa qua cầu là trung tâm thành phố lập tức trải rộng trước mắt chúng tôi - sống động trong hối hả quay cuồng ngay cả lúc đầu giờ chiều. Cảm giác có phần như vào buổi tối vậy: âm nhạc, quán cà phê, nhà hàng sân vườn đông kín người.
Bailey cúi đầu, cắm mặt vào điện thoại. Làm sao nó nhận ra gì đó nếu không chịu để ý như thế? Nhưng khi chúng tôi dừng chân chờ đèn xanh trên đường Số Năm, biển báo KHÔNG SANG ĐƯỜNG nhấp nháy trước mặt thì nó ngẩng lên.
Nó ngẩng lên, tôi thấy nó nhìn thêm lần nữa.
“Cái gì?” tôi hỏi.
“Không có gì.”
Nó lắc đầu, nhưng tiếp tục nhìn.
Tôi nhìn theo tới tấm biển câu lạc bộ antone chữ xanh da trời, bên dưới đề NGÔI NHÀ CỦA NHẠC BLUES. Một cặp đôi đang ôm nhau chụp selfie trước cửa ra vào.
Bailey chỉ tay về phía câu lạc bộ. “Cháu khá chắc là bố cháu có đĩa nhạc của John Lee Hooker mua ở đấy,” nó nói.
Nó vừa nói xong là tôi nhớ ra ngay. Tôi còn hình dung ra được cả bìa album: cái logo antone ở mặt trước - chữ a viết thường, dòng chữ in nổi bật. Hooker đội mũ đeo kính râm tay cầm đàn guitar hát trước micro. Tôi nhớ một tối tuần trước - sao lại mới chỉ tuần trước như thế? - khi Bailey đi tập kịch và chỉ hai chúng tôi ở nhà. Owen bập bùng cây guitar. Giờ tôi không nhớ nổi lời bài hát, nhưng nét mặt anh khi hát thì tôi nhớ.
“Đúng thế,” tôi nói. “Cháu nói đúng.”
“Chẳng nghĩa lý gì,” nó nói.
“Cô nghĩ chúng ta chưa biết điều gì có nghĩa gì hay không,” tôi nói.
“Cô nói thế là để động viên cháu hay gì?” nó nói.
Động viên ư? Cả ba chúng tôi mới cùng nhau ngồi trong bếp ba hôm trước, cách xa hiện thực lúc này tới cả triệu dặm đường. Bailey lúc ấy vừa ăn ngũ cốc vừa bàn chuyện cuối tuần với bố. Nó muốn Owen cho nó theo Bobby đến Peninsula. Bobby muốn tham gia đạp xe đường dài quanh Monterey nên sẽ lái xe đến đó. Hay cả nhà mình cùng đi , Owen nói. Bailey đảo tròn mắt, nhưng tôi biết nó đang cân nhắc, đặc biệt khi Owen nói lúc về sẽ ghé vào Carmel. Anh muốn dừng lại mua món xúp nghêu ở nhà hàng nhỏ ưa thích của Bailey bên bờ biến, nơi anh từng đưa nó đến ăn ngay khi vừa chuyển đến Sausalito.
Mới chỉ ba hôm trước. Giờ thì hai chúng tôi đang sống trong hiện thực mới, Owen thì mất tích, còn chúng tôi thì cố tìm hiểu xem anh đang ở đâu. Và tại sao. Ở hiện thực mới này, tôi liên tục tự chất vấn mình liệu có sai lầm không khi cứ bám lấy niềm tin rằng câu trả lời cho những câu hỏi này sẽ không làm đảo lộn những gì tôi biết và hiểu về Owen.
Tôi không định động viên ai. Tôi chỉ cố nói gì đó thực trung lập để nó không biết tôi cũng giận đến mức nào.
Đèn tín hiệu đổi màu, tôi nhanh chân sang đường, rẽ vào đường Congress, càng ngày càng tăng tốc.
“Cố theo cô đi,” tôi nói.
“Đi đâu ạ?” Bailey nói.
“Chỗ nào đỡ hơn chỗ này,” tôi nói.
o
Khoảng một giờ sau, chúng tôi đã đi một vòng quanh trung tâm rồi tạt vào đại lộ San Jacinto. Sân vận động hiện ra trước mắt. Khổng lồ, khe khắt - từ cách xa vài tòa nhà đã thế.
Để tới được sân vận động, chúng tôi phải đi qua Trung tâm Thể thao Caven-Clark. Hình như trung tâm được dùng cho hoạt động thể dục thể thao của sinh viên, với dãy nhà màu cam, sân thể thao Clark và đường chạy lớn. Sinh viên đang chơi bóng bầu dục giật cờ hoặc chạy nước rút lên các bậc thang, hoặc ườn ra trên các ghế dài. Mọi thứ ở đây khiến khu vực này của trường học vừa hoàn toàn tách biệt vừa vẫn như một phần của thành phố. Sự hòa trộn nhịp nhàng.
Tôi nhìn xuống bản đồ trường học rồi bắt đầu rảo bước về phía lối vào sân vận động.
Nhưng Bailey đột ngột dừng lại. “Cháu không muốn đi nữa,” nó nói.
Tôi nhìn con bé.
“Kể cả nếu cháu đã từng đến sân vận động rồi thì sao? Chuyện đó cho chúng ta biết gì chứ?”
“Bailey...” tôi nói.
“Cháu hỏi thật đấy, chúng ta đang làm gì ở đây thế này?”
Nó sẽ phản ứng không hay nếu tôi nói đêm qua mình đã thức khuya đọc về việc ký ức thời thơ ấu bị lãng quên thế nào và phải làm sao để khơi gợi lại. Chúng thường sống lại khi chúng ta quay lại đâu đó rồi được trải nghiệm nơi ấy đúng cách đã trải nghiệm lần đầu. Chúng tôi đang làm điều đó ở đây. Chúng tôi đang lần theo bản năng của Bailey. Chúng tôi gõ vào phần ký ức nơi Bailey biết nó đã từng đến đây. Ngay giây phút biết Grady Bradford từ đâu tới, bản năng đã bảo tôi đây là việc nên làm.
“Bên cạnh những chuyện xảy ra ở công ty, còn nhiều điều khác bố cháu chưa nói cho cháu với cô biết,” tôi nói. “Cô đang cố gắng tìm hiểu xem chúng là gì.”
“Nghe chung chung quá,” nó nói.
“Cháu càng nhớ được nhiều thì mọi thứ sẽ càng bớt chung chung,” tôi nói.
“Nghĩa là... trách nhiệm thuộc về cháu hả?”
“Không, thuộc về cô. Nếu việc cô đưa cháu đến đây là sai lầm thì cô sẽ là người đầu tiên thừa nhận điều đó.”
Bailey im lặng.
“Nghe này, cháu vào trong với cô được không? Được chứ?” tôi nói. “Chúng ta đã bỏ công đến tận đây rồi.”
“Cháu có được chọn không?” nó nói.
“Có chứ,” tôi nói. “Cháu luôn có lựa chọn khác. Với cô thì luôn là thế.”
Tôi thấy vẻ ngạc nhiên thoáng qua trên nét mặt Bailey khi biết tôi nói thực. Và tôi hoàn toàn thành thực. Chúng tôi chỉ còn cách cửa vào sân vận động gần nhất cỡ trăm mét, CỔNG SỐ 2, nhưng việc này hoàn toàn do Bailey quyết định. Tôi sẽ không cản bước nếu nó muốn quay lại. Biết đâu, nhờ thế nó sẽ thấy không bị ràng buộc và sẽ đồng ý. Và đúng là nó làm như thế.
Bailey tiến về phía cổng vào. Tôi thấy mình thắng lớn. Chiến thắng thứ hai: một nhóm khách tham quan sân vận động hình như đang dồn ứ lại, chúng tôi liền bám theo, qua mặt nhân viên an ninh dễ dàng không kém gì qua mặt một sinh viên trực bàn lơ đãng.
“Chào mừng bạn đến với DKR,” hướng dẫn viên nói. “Tôi là Elliot, tôi sẽ là người đưa các bạn đi tham quan. Theo tôi!”
Anh ta dẫn cả nhóm vào khu cấm địa rồi đứng chờ mọi người đưa mắt nhìn quanh thán phục sân vận động khủng. Có đủ chỗ ngồi cho hơn một trăm ngàn người hâm mộ, một đầu sân có tên TEXAS in cỡ lớn, đầu kia là AUSTIN, không hiểu sao lại nhỏ hơn. Sân vận động quá lớn, quá hùng vĩ, khiến tôi có cảm giác nếu đã đến đây thì ắt ta sẽ nhớ, đặc biệt khi còn nhỏ.
Elliot bắt đầu giải thích cho nhóm khách nghe các sự kiện diễn ra trong một đêm bóng - súng đại bác bắn mỗi khi ghi bàn ra sao và linh vật Bevo là một chú bò đực non chính hiệu được một nhóm cao bồi Texas dẫn đi quanh sân thế nào.
Sau khi kết thúc bài diễn văn, anh ta dẫn mọi người lên khu phóng viên. Tôi ra hiệu cho Bailey tụt lại sau, nhằm hướng khán đài không mái che.
Tôi ngồi xuống ghế hàng đầu, Bailey làm theo. Tôi nhìn quanh sân, không quên để ý đến Bailey đang lục đục chọn chỗ ngồi. Rồi nó lại đứng hẳn dậy.
“Cháu không thể chắc chắn đúng là ở đây,” nó nói. “Cháu không biết. Nhưng cháu nhớ bố nói rồi một ngày cháu sẽ yêu môn bóng bầu dục như bố. Cháu nhớ bố bảo đừng sợ Bevo.”
Nghe lạ tai quá - không phải đoạn về con Bevo, bởi Owen đúng là hay nói kiểu ấy, mà là đoạn về tình yêu bóng bầu dục ấy. Owen hoàn toàn không quan tâm đến bóng bầu dục. Ít nhất từ khi ở cùng nhau, hiếm khi tôi thấy anh xem hết một trận đấu. Chưa bao giờ các trận bóng kéo dài hết chiều Chủ nhật làm gián đoạn hai ngày cuối tuần của chúng tôi. Cũng không có chuyện xem bình luận tóm tắt vào tối thứ Hai. Một trong nhiều thay đổi dễ chịu so với hồi tôi còn yêu Jake.
“Nhưng chắc cháu nhớ nhầm,” nó nói. “Bố cháu có thích bóng bầu dục đâu, cô công nhận không? Ý cháu là... ở nhà chúng ta chẳng bao giờ xem cả.”
“Cô cũng thấy thế. Nhưng có thể hồi ấy bố cháu thích và hy vọng cháu cũng sẽ thành người hâm mộ.”
“Từ hồi cháu mới tập đi ấy à?”
Tôi nhún vai. “Hay bố cháu nghĩ sẽ biến cháu trở thành fan hâm mộ đội Longhorns?”
Bailey quay ra phía sân bóng. Nhìn là biết nó không nhớ thêm được gì nữa. “Cháu tin là cô nói đúng. Không phải chuyện bóng bầu dục, mà vì bố cháu yêu đội bóng này.” Nó dừng lại. “Hay là đội bóng nào đi nữa cháu không biết chắc, chỉ biết mặc đồng phục màu cam...”
“Cứ coi như đây đúng là nơi cháu đến đi, kể cô nghe những gì cháu biết,” tôi nói. “Cháu đến đây sau lễ cưới đúng không? Có phải vào buổi tối?”
“Không, là buổi chiều. Cháu mặc váy. Váy bé gái cầm hoa. Điều đó thì cháu nhớ. Chắc hai bố con đã đến từ chỗ đám cưới. Sau lễ thành hôn ấy.”
Bailey ngừng lời.
“Trừ phi mọi chuyện do cháu tưởng tượng ra. Khả năng cũng ngang ngửa.”
Tôi biết nó bắt đầu thấy bứt rứt. Có vẻ như Bailey nhớ lại nó có thể làm gì đó ở Sausalito, nơi mà lẽ ra chúng tôi nên có mặt. Ở trong căn nhà nổi, vắng Owen. Hai chúng tôi tồn tại trong không gian đáng sợ anh bỏ lại sau lưng.
“Cháu không biết nói gì nữa,” nó nói. “Chắc đi sân vận động nào cháu cũng thấy hệt thế này.”
“Nhưng trông có quen không?”
“Có, có vẻ quen.”
Rồi tôi chợt nhận ra một điều. Nó đến rất nhanh, và tôi có thể thấy được phần còn lại, tùy thuộc vào câu trả lời của Bailey.
“Nghĩa là cháu đi bộ đến đây?”
Nó dành cho tôi ánh mắt lạ lùng. “Vâng, đi cùng cô mà.”
“Không, ý cô muốn hỏi có phải cháu đi bộ đến đây từ đám cưới? Hôm đi cùng bố cháu ấy? Giả sử là đến đây...”
Nó lắc đầu như muốn nói câu hỏi của tôi thật điên khùng, nhưng rồi mắt nó mở rõ to. “Phải rồi, cháu tin là như vậy. Nếu cháu mặc váy thì hẳn do đến thẳng từ nhà thờ. Vì vậy có lẽ là bố con cháu đã đi bộ...”
Tôi không biết có phải cuộc trò chuyện này sáng tạo ra ký ức hay không nữa, chỉ biết rằng Bailey bỗng nhiên trở nên dứt khoát hơn trước.
“Chắc chắn thế,” nó nói. “Ý cháu là bố chỉ đưa cháu đến xem trận đấu một lát ngay sau lễ cưới. Bố dắt cháu đi bộ. Cháu tin chắc là thế...”
“Thế thì phải từ đâu đó gần đây.”
“Cái gì gần?” nó nói.
Tôi nhìn xuống bản đồ, thấy các khả năng đã được đánh dấu sẵn: một nhà thờ Thiên Chúa giáo không xa là mấy; hai nhà nguyện Tân giáo và một giáo đường Do Thái thậm chí còn gần hơn nữa. Tất cả đều nằm trong khoảng đi bộ được. Tất cả đều có thể là nơi Owen đưa Bailey đến trước khi đến sân vận động.
“Cháu không tình cờ nhớ hôn lễ ấy là kiểu như thế nào đúng không? Kiểu theo tôn giáo nào ấy?”
“Cô đùa đấy à?”
Tôi có đùa đâu. “Tất nhiên rồi,” tôi nói.