← Quay lại trang sách

Không Phải Ai Cũng Giúp Được Mình

Về đến khách sạn, chúng tôi gọi sandwich pho mát và khoai lang chiên lên phòng. Tôi bật ti vi. Một bộ phim tình cảm cũ đang chiếu trên kênh truyền hình cáp - bất chấp những hoàn cảnh bất lợi, Tom Hanks và Meg Ryan tìm mọi cách đến với nhau - những cảnh phim quen thuộc khiến lòng tôi dịu lại. Ru ngủ chúng tôi. Bailey thiếp đi trên giường.

Tôi vẫn thức xem nốt phim, chờ tới giây phút sắp đến, khi Tom Hanks hứa với Meg Ryan sẽ ở bên cô ấy và sẽ yêu thương cô ấy. Tới hơi thở cuối cùng của cả hai người. Rồi đến đoạn giới thiệu đoàn làm phim. Rồi trở lại căn phòng khách sạn tối om nơi thành phố xa lạ; tôi lại choáng váng đến điếng người khi chợt trở lại với thực tại: Owen biến mất. Không một lời giải thích. Biến mất.

Thảm kịch đáng sợ ở chỗ đó. Nó không hiện diện từng giây phút trong tâm trí ta. Ta quên, rồi chợt nhớ ra. Và thấy rõ sự thật trần trụi: rằng ta phải chấp nhận, phải sống cùng nó.

Vì quá bực bội nên không tài nào ngủ nổi, tôi lôi các ghi chép trong ngày ra xem lại, cố gắng nghĩ xem có cách nào khác dùng tiệc cưới cuối tuần kích hoạt trí nhớ lại cho Bailey hay không. Ngoài việc đến dự đám cưới, Owen và Bailey còn có thể làm gì khác ở Austin? Hay họ ở lại lâu hơn? Có lẽ Bailey không nhầm. Có lẽ đó là lý do vì sao nó thấy quen quen khi đến trường đại học. Liệu có phải vì nó không chỉ đến đó vào một dịp cuối tuần? Và tại sao?

Tôi nhẹ cả người khi điện thoại rung ngắt dòng suy nghĩ. Tôi chẳng nghĩ ra được câu trả lời nào khả dĩ cho các câu hỏi của mình.

Tôi vớ điện thoại, màn hình hiện tên người gọi JAKE.

“Suốt mấy tiếng đồng hồ anh cố gọi cho em,” Jake nói.

“Xin lỗi,” tôi thì thào. “Hôm nay em bận quá.”

“Em đang ở đâu?”

“Austin.”

“Texas?” Jake nói.

Tôi ra hành lang, nhẹ nhàng đóng cửa phòng, cẩn thận không đánh thức Bailey.

“Giải thích dài dòng lắm, nhưng chủ yếu là vì Bailey nhớ đã từng đến Austin hồi nhỏ. Em không biết, có lẽ vì bị em hối thúc mà nó tưởng đã từng đến đây. Nhưng vì nó nghĩ thế và vì Grady Bradford đến nhà... mà em quyết định bọn em nên đến Austin.”

“Nghĩa là... em đang lần theo các manh mối?”

“Không được thuận lợi cho lắm,” tôi nói. “Mai bọn em sẽ bay về.”

Tôi ghét phải nghe điều mình vừa nói. Ý nghĩ phải trở về ngôi nhà không có Owen cũng khủng khiếp nữa. Ít nhất thì ở đây, tôi có thể nuôi dưỡng ảo tưởng sẽ đưa được Owen về với mình, rằng tôi và Bailey sẽ cùng nhau làm được điều ấy.

“Nghe này, anh phải nói chuyện với em,” Jake nói. “Và em sẽ không thích những gì anh sắp nói đâu.”

“Trước hết, anh sẽ phải nói cái gì đấy em thích nghe đã, Jake,” tôi nói. “Không thì em sẽ cúp máy.”

“Anh bạn Grady Bradford của em hoàn toàn hợp pháp. Danh tiếng tốt trong ngành. Là một trong những tai to mặt lớn ở chi nhánh Texas. FBI thường mời anh ta vào các vụ có người bị tình nghi mất tích. Và nếu muốn tìm được Owen, anh đoán rồi anh ta sẽ thành công.”

“Anh gọi đó là tin vui được sao?”

“Anh không biết còn ai khác có thể tìm được chồng em nữa,” Jake nói.

“Anh nói thế là sao?”

“Owen Michaels không tồn tại,” Jake nói.

Tôi suýt phá lên cười. Nghe mới lố bịch làm sao - lố bịch và sai bét, đương nhiên rồi.

“Em không có ý rằng anh không biết mình đang nói gì, Jake, nhưng em xin đảm bảo anh ấy thực sự tồn tại trên đời. Con gái anh ấy đang nằm ngủ trong phòng cách em có chục mét.”

“Để anh nói lại,” Jake nói. “Owen Michaels của em không tồn tại. Ngoài giấy khai sinh và số an sinh xã hội khớp nhau cho cả Owen lẫn con gái, các chi tiết còn lại chỉ toàn mâu thuẫn.”

“Anh nói thế là sao?”

“Nhớ tay thám tử hôm trước anh nói không? Rất thạo việc. Anh ấy nói không có một Owen Michaels nào trên đời khớp với lý lịch của chồng em. Có vài Owen Michaels lớn lên ở Newton, Massachusetts, vài Owen Michaels khác học ở Đại học Princeton. Nhưng Owen Michaels duy nhất lớn lên ở quê nhà của Owen và học ở Princeton giờ đã bảy mươi tám tuổi và đang sống cùng bạn đời của ông ấy là Theo Silverstein ở Provincetown gần Cape Cod.”

Tôi không thở được. Tôi ngồi phệt xuống thảm hành lang, tựa lưng vào tường. Tôi cảm nhận rõ. Tiếng gõ trong đầu, tiếng gõ trong tim. Không có Owen Michaels nào là Owen Michaels của em. Mấy từ ấy cứ lảng vảng trong tôi, không tìm được bến đậu.

“Anh có nên nói tiếp không?” Jake nói.

“Không, cảm ơn.”

“Không có Owen Michaels nào mua nhà hoặc sở hữu nhà cửa ở Seattle, Washington vào năm 2006 hay cho con gái Bailey nhập học trường mẫu giáo năm ấy, hay từng đóng thuế thu nhập vào bất cứ thời diểm nào trước 2009...”

Tôi ngắt lời. “Đó là năm anh ấy và Bailey chuyển đến sống ở Sausalito.”

“Chính xác. Hồ sơ về Owen Michaels bắt đầu từ đó. Và từ đó trở đi, hầu như tất cả những gì em nói với anh đều khớp. Nhà ở, trường học của Bailey. Việc làm của Owen. Và tất nhiên rồi, Owen rất khôn khi mua nhà thuyền thay vì mua nhà ở bình thường. Ít hồ sơ giấy tờ hơn. Thậm chí còn không phải mua đất. Giống thuê nhà hơn. Khó lần hơn.”

Tôi đưa tay ôm mắt, cố dừng cảm giác quay cuồng trong đầu, cố ngồi vững hơn.

“Trước khi họ chuyển đến Sausalito, anh chưa tìm được bất cứ dữ liệu nào phù hợp với câu chuyện chồng em kể cho em nghe về cuộc đời anh ấy. Có thể anh ấy dùng tên khác, hay dùng tên này và nói dối em về mọi chi tiết khác. Anh ta đã nói dối em về con người thực của mình.”

Thoạt đầu tôi không nói gì. Rồi cố lắm mới thốt được nên lời. “Tại sao?” tôi nói.

“Vì sao Owen phải đổi tên? Cuộc đời anh ta thế nào?” Jake hỏi.

Tôi gật đầu, như thể Jake thấy mình.

“Anh đã hỏi thám tử đúng câu ấy,” Jake nói. “Anh ấy nói thường có hai lý do khiến người ta phải thay đổi nhân dạng. Em sẽ không thích cả hai lý do ấy đâu.”

“Anh đùa chắc?”

“Tin hay không tùy em nhưng lý do phổ biến nhất là vì họ có một gia đình khác ở đâu đó. Một cô vợ khác. Một đứa con khác. Hoặc nhiều đứa con khác. Và anh ta cố tách biệt hai cuộc đời.”

“Không thể có chuyện ấy, Jake,” tôi nói.

“Em thử nói thế với một khách hàng hiện tại của bọn anh xem. Trùm tư bản dầu khí, có một vợ ở North Dakota tại trang trại gia đình, một vợ khác ở San Francisco sống trong một dinh thự lớn nào đó ở Pacific Heights. Không xa nhà Danielle Steele là mấy. Ông ta sống cùng hai vợ suốt hai mươi chín năm trời. Có năm con với một người và năm con với người kia. Cả hai đều không biết gì. Họ cứ nghĩ ông ta suốt ngày phải đi công tác. Với họ, ông ta là một người chồng tuyệt vời. Bọn anh chỉ biết về hai gia đình của ông ta vì được thuê lập di chúc... bao giờ đọc di chúc thì hay lắm đấy.”

“Còn lý do thứ hai khiến Owen phải làm vậy là gì?” tôi nói.

“Giả sử như anh ta không có một cô vợ khác ở đâu đó?”

“Đúng. Giả sử thế.”

“Lý do thứ hai khiến một người phải tạo nhân dạng giả, là giả thuyết được cân nhắc trong vụ này, là vì anh ta có liên quan tới một hành vi phi pháp nào đó,” Jake nói. “Và anh ta phải bỏ trốn để tránh rắc rối, bắt đầu cuộc sống mới, bảo vệ gia đình. Nhưng hầu như trong mọi trường hợp, kẻ tội phạm sẽ lại dính vào một rắc rối khác nên mọi chuyện lại lộ tẩy hết.”

“Nếu vậy, có nghĩa là Owen đã từng gặp rắc rối pháp luật từ trước? Rằng anh ấy không chỉ có tội trong vụ The Shop mà còn có tội khác nữa?”

“Nó sẽ giải thích vì sao anh ta bỏ trốn,” Jake nói. “Anh ta biết mình sẽ lộ khi vụ The Shop vỡ lở. Anh ta lo lắng quá khứ sẽ lộ tẩy hơn mọi thứ khác trên đời.”

“Nhưng nếu theo logic ấy thì liệu có thể nghĩ anh ấy không phải là tội phạm được không?” tôi nói. “Rằng anh ấy đổi tên để trốn ai đó? Ai đó muốn làm hại anh ấy, thậm chí là làm hại Bailey?”

Bảo vệ nó.

“Được chứ, rất có thể,” Jake nói. “Nhưng nếu thế, tại sao anh ta không nói em biết ngay từ đầu?”

Tôi không có câu trả lời. Nhưng tôi cần một lựa chọn khác - một lý do khác để giải thích vì sao Owen không phải là Owen.

“Em không biết. Hay anh ấy đang trong chương trình bảo vệ nhân chứng,” tôi nói. “Điều đó giải thích vì sao Grady Bradford xuất hiện.”

“Anh đã nghĩ đến điều ấy. Nhưng em có nhớ Alex bạn anh không? Anh ấy có bạn giữ chức vụ khá cao trong Cảnh sát Tư pháp nên đã kiểm tra giùm anh. Owen không phải một nhân chứng được bảo vệ.”

“Anh ấy nói với anh thế à?”

“Ừ.”

“Chương trình bảo vệ nhân chứng kiểu gì vậy?”

“Anh có biết nó dở tệ. Nhưng dù sao đi chăng nữa. Owen cũng không phù hợp với đặc điểm của một người thuộc chương trình bảo vệ nhân chứng,” Jake nói. “Với công việc có thu nhập cao và sống ở Sausalito như thế. Nhân chứng được bảo vệ thường làm việc bán lốp xe ở Idaho chẳng hạn. Và may mắn mới được thế. Không giống những gì em xem trên phim ảnh đâu. Nhân chứng thường được thả xuống giữa đồng không mông quạnh với chút tiền mặt trong ví, thẻ nhân dạng mới và lời chúc may mắn là hết.”

“Nếu thế thì vì sao?”

“Theo ý anh ấy hả? Thì vì lý do thứ hai. Anh ta có tội gì đó và đang chạy trốn từ lâu rồi. Có thể dính vào The Shop vì thế. Mà cũng có thể không liên quan gì. Khó nói lắm. Nhưng nếu bị bắt thì chắc sẽ lộ tẩy, vì thế nên anh ta phải bỏ trốn để tự cứu mình. Hoặc, có thể như em nói, phải chạy trốn vì nghĩ đó là cách tốt nhất bảo vệ Bailey. Để nó không liên quan đến những gì anh ta đã làm.”

Đây là điều đầu tiên tôi đồng tình với những gì Jake nói. Lần nào suy nghĩ tôi cũng đi đến kết luận ấy. Nếu chỉ vì những sai lầm trước đây sẽ bại lộ, thì Owen sẽ không bỏ chúng tôi đi. Anh sẽ đối mặt với đội hành quyết ấy chứ. Nhưng nếu có bất cứ điều gì ảnh hưởng đến Bailey, anh sẽ chọn phương án khác.

“Jake, kể cả nếu anh nói đúng, kể cả nếu em không biết hết về người đàn ông em lấy làm chồng... thì em vẫn biết anh ấy chỉ bỏ Bailey vì buộc phải làm như thế,” tôi nói. “Thử không nghĩ đến em cái đã. Nếu anh ấy bỏ trốn và hoàn toàn không có ý định sẽ quay lại, anh ấy sẽ mang nó theo. Con bé là tất cả với anh ấy. Owen không bao giờ bỏ nó lại và cứ biến mất là xong.”

“Chỉ hai hôm trước thôi, em có nghĩ anh ta có bao giờ bịa đặt câu chuyện cuộc đời mình không? Bởi vì đúng là anh ta đã làm thế.”

Tôi nhìn thảm trải hành lang xấu hoắc in hình hoa hồng không chớp mắt, cố tìm niềm an ủi nào đó.

Thật không thể nào. Từng chi tiết đều là không thể. Làm sao một người có thể chấp nhận nổi việc chồng mình đang chạy trốn khỏi con người trước đây của anh ấy, người mà mình thậm chí còn không biết tên thật? Bạn sẽ muốn cãi rằng ai đó đã hiểu sai câu chuyện. Ai đó hiểu sai câu chuyện của bạn. Trong câu chuyện mà bạn nằm lòng, tất cả những điều này đều hoàn toàn vô lý. Từ khởi đầu đến mọi diễn tiến. Và đương nhiên là cả cái kết thúc đe dọa sẽ tới cũng vô lý nốt.

“Jake, làm sao em có thể quay lại phòng, nói với Bailey rằng cha nó không như những gì nó tưởng? Em không biết phải nói với nó thế nào.”

Jake im lặng khác hẳn ngày thường. “Hay nói gì đó khác đi,” anh nói.

“Nói gì bây giờ?”

“Bảo nó em có kế hoạch đưa nó tránh xa khỏi chuyện này,” Jake nói. “ít nhất cho tới khi mọi chuyện sáng tỏ.”

“Nhưng em có kế hoạch gì đâu.”

“Có được mà. Em hoàn toàn có thể đưa nó tránh xa chuyện này. Đến New York. Ở với anh, cả hai. Ít nhất cho tới khi mọi chuyện sáng tỏ. Anh có bạn trong ban quản trị trường Dalton. Bailey có thể học nốt năm nay ở đó.”

Tôi nhắm mắt. Sao tôi lại quay lại điểm này? Điện thoại với Jake. Sao Jake lại là người giúp tôi? Lúc chia tay, Jake nói tôi luôn thờ ơ với anh. Tôi không cãi lại - không thể cãi lại. Bởi đúng là tôi có chút thờ ơ. Tôi cảm giác thiếu gì đó khi ở bên Jake. Chính là điều tôi tưởng mình tìm được ở Owen. Nhưng nếu Jake nói đúng về Owen thì giữa tôi và Owen không có điều tôi tưởng là tồn tại đó. Có lẽ hóa ra hoàn toàn chẳng có gì.

“Em cảm ơn anh rất nhiều. Vào lúc này, gợi ý đó nghe không tệ chút nào.”

“Nhưng...” Jake nói.

“Theo những gì anh nói thì tình cảnh này là do Owen bỏ trốn,” tôi nói. “Em không thể cũng bỏ trốn như thế, cho đến khi làm rõ hết ngọn ngành.”

“Hannah, em thực sự cần nghĩ đến Bailey.” Tôi mở cửa phòng ngó vào trong. Bailey đang ngủ say trên giường. Nó cuộn tròn như bào thai trong bụng mẹ, tóc tím xõa trên gối như đèn xoay sàn nhảy. Tôi đóng cửa, quay trở lại hành lang.

“Đó là tất cả những gì em đang nghĩ đến, Jake,” tôi nói.

“Chưa hẳn là không phải đâu,” anh nói. “Hoặc là em không nên cố để tìm người mà theo ý anh thì em nên giữ cho tránh xa khỏi con bé.”

“Jake, anh ấy là cha nó mà,” tôi nói.

“Có lẽ ai đó nên nhắc anh ta nhớ điều ấy,” Jake nói.

Tôi không nói gì. Tôi nhìn qua tường kính, xuống sảnh bên dưới. Những người đồng nghiệp đi công tác (đeo thẻ tên ép nhựa của buổi hội thảo nào đó) thoải mái ngồi quầy bar, các cặp đôi nắm tay nhau ra khỏi khách sạn đi ăn nhà hàng, cặp vợ chồng mệt mỏi bế con đang ngủ cùng cả đống đồ LEGOLAND đủ mở cả một cửa hàng. Từ xa thế này, trông ai cũng hạnh phúc. Mặc dù tất nhiên là tôi không thực sự biết. Nhưng trong giây lát, tôi ước mình là họ chứ không phải là tôi hiện tại thế này. Trốn ra hành lang khách sạn tít trên tầng tám. Cố tiêu hóa thông tin rằng cuộc đời mình và hôn nhân của mình chỉ là một lời nói dối.

Tôi thấy giận sôi trong lòng. Kể từ khi mẹ bỏ tôi đi, tôi vẫn tự hào vì những chi tiết nhỏ, vì biết nhìn ra những điều nhỏ xíu trong mỗi người. Và nếu ba ngày trước có người hỏi, tôi sẽ trả lời mình biết tường tận mọi thứ về Owen. Nghĩa là mọi thứ cần biết. Nhưng có lẽ tôi không biết gì hết. Bởi tôi đang ở đây, vất vả đủ đường để cố hiểu ra những chi tiết cơ bản nhất về mọi chuyện.

“Xin lỗi,” Jake nói. “Nói thế hơi quá đáng.”

“ Nói thế hơi quá đáng?”

“Nghe này, anh chỉ muốn nói nếu muốn, em hoàn toàn có thể đến đây,” anh nói. “Cả hai. Không ràng buộc gì hết. Nhưng nếu em không muốn làm theo đề nghị của anh, ít nhất em nên có kế hoạch khác. Trước khi làm tan nát cuộc đời con bé, hãy thuyết phục nó tin rằng em biết em đang làm gì.”

“Ai biết phải làm gì trong hoàn cảnh thế này hả Jake?” tôi nói. “Ai lại rơi vào hoàn cảnh thế này?”

“Em còn gì,” Jake nói.

“Cảm ơn đã nhắc.”

“Đến New York đi,” anh nói. “Anh chỉ giúp được đến thế.”