Những Nhà Thờ Nhỏ Màu Trắng
Elenor H. McGovern ngó nhìn Bailey sau cặp kính hai tròng.
“Để tôi hỏi lại cho rõ nhé,” bà nói. “Hai người muốn biết gì?”
Chúng tôi đang ngồi trong văn phòng của Elenor tại nhà thờ Tân giáo. Là một trong các nhà thờ cổ nhất ở Austin, đây là một nhà thờ lớn đã hơn một trăm năm tuổi. Và chỉ cách sân vận động hơn nửa dặm một chút. Nhưng điều quan trọng nhất nằm ở chỗ đây là nhà thờ duy nhất - cũng là nơi cuối cùng trong số sáu địa điểm tình nghi - khiến Bailey có cảm giác quen thuộc.
“Chúng cháu chỉ muốn tìm danh sách các đám cưới diễn ra ở đây vào mùa bóng chày 2008 thôi,” Bailey nói.
Elenor, khoảng ngoài bảy mươi và cao tới gần một mét tám, bối rối nhìn chúng tôi.
“Không phức tạp lắm đâu ạ,” tôi nói. “Thực rà, chúng cháu chỉ cần danh sách các đám cưới do mục sư của nhà thờ chủ trì cùng ngày với các trận bóng trên sân nhà của mùa bóng 2008. Chúng cháu cũng không cần các đám cưới diễn ra vào các ngày khác trong các dịp cuối tuần đó. Chỉ cần các đám cưới diễn ra vào đúng ngày có các trận đấu trên sân nhà của đội Longhorns thôi. Chỉ vậy thôi.”
“Vậy đấy, cùng thời điểm với các trận đấu trên sân nhà từ mười hai năm trước. Chỉ thế thôi hả?”
Tôi lờ tịt giọng điệu của bà đi và tiếp tục như không có gì xảy ra, hy vọng bà đổi ý. “Thực ra, cháu đã nghiên cứu và có chuẩn bị trước rồi ạ,” tôi nói.
Tôi đẩy danh sách qua mặt bàn về phía bà. Tôi đã lập biểu đồ lịch thi đấu của Longhorns hồi mười hai năm trước. Tôi nhờ Jules dùng công cụ nghiên cứu của tòa soạn, kiểm tra chéo với dữ liệu của tờ Nhật báo San Francisco chỉ để biết chắc chúng tôi không bỏ sót trận nào và để yên tâm mình đã kiểm tra mọi cách.
Chỉ có tám ngày trong diện nghi ngờ. Chỉ có tám ngày có thể bé Bailey đã cùng Owen tới sân vận động và có mặt ở nhà thờ này.
Elenor đưa mắt nhìn danh sách nhưng hoàn toàn không có ý định cầm lên.
Tôi nhìn quanh văn phòng, tìm manh mối về bà - các manh mối biết đâu sẽ giúp tôi thuyết phục được bà. Các bưu thiếp Giáng sinh và các nhãn dính trên thanh chắn xe phủ đầy mặt bàn làm việc; nhiều bức ảnh gia đình đặt trên mặt lò sưởi; một chiếc bảng trắng lớn đính đầy ắp ảnh và tin nhắn của các giáo dân. Chính văn phòng này, chính nhà thờ này là nơi gây dựng mối quan hệ tôn giáo bốn mươi năm của Elenor. Bà biết tất cả về nơi này. Chúng tôi chỉ cần một mẩu thông tin nhỏ xíu từ bà.
“Cháu biết, nghe có vẻ quá nhiều việc,” tôi nói.
“Nhưng nếu bác thử nhìn, bác sẽ thấy bọn cháu đã thu thập lịch các trận đấu trên sân nhà của mùa bóng 2008. Ta chỉ phải kiểm tra chưa đến mười cuối tuần thôi. Chúng cháu đã ghi lại hết ở đây, đã sẵn sàng cả. Kể cả nếu mục sư của nhà thờ cử hành hai hôn lễ vào cùng một cuối tuần, thì cũng chỉ chưa đầy hai mươi đám cưới.”
“Nghe này,” Elenor nói. “Rất tiếc nhưng đơn giản là tôi không có quyền cho cô biết các thông tin này.”
“Cháu hiểu các quy định và hiểu vì sao phải quy định thế,” tôi nói. “Nhưng chắc bác cũng nhất trí nhiều khi có các trường hợp ngoại lệ.”
“Tất nhiên rồi. Thật khủng khiếp khi biết chồng cô mất tích. Có vẻ cô đang phải đối mặt với rất nhiều chuyện vì sự mất tích của chồng. Nhưng điều đó không thay đổi chính sách của chúng tôi.”
“Bà thông cảm một lần được không?” Bailey nói, giọng hơi quá gay gắt. “Chúng cháu có phải lũ giết người hàng loạt hay tội phạm gì đâu. Chúng cháu có quan tâm các cặp vợ chồng ấy là ai đâu.”
Tôi đặt tay lên đùi Bailey, cố làm nó bình tĩnh lại.
“Bọn cháu sẽ ngồi đây khi bác đọc tên,” tôi nói. “Sế không mang ra khỏi văn phòng của bác danh sách tên tuổi hay địa chỉ của bất cứ ai.”
Elenor hết nhìn tôi lại chuyển sang nhìn Bailey như đang băn khoăn không biết nên giúp đỡ hay nên tống cổ chúng tôi khỏi phòng. Nhưng hình như bà muốn tống cổ chúng tôi thì phải. Tôi không thể để chuyện ấy xảy ra, nhất là khi có lẽ chúng tôi đã bắt đầu có triển vọng tìm được gì đó. Nếu biết được Owen và Bailey đã dự đám cưới ai, chúng tôi sẽ hiểu được mối liên hệ của hai bố con với Austin. Và có lẽ mối liên hệ ấy sẽ giúp giải thích vì sao Grady đến gõ cửa nhà tôi và Owen làm gì mà phải tránh xa khỏi mối liên hệ ấy.
“Cháu thực sự nghĩ Bailey đã đến nhà thờ của bác,” tôi nói. “Nếu khẳng định được chắc chắn điều ấy thì thực sự giúp ích cho nó và cho cả hai chúng cháu. Và nếu bác biết những gì chúng cháu phải trải qua trong tuần này, khi không có cha con bé... thôi, cháu chỉ biết nói rằng nếu được vậy thì quả là một hành động tử tế đối với bọn cháu.”
Tôi thấy rõ sự cảm thông trong mắt Elenor nên đột nhiên tràn đầy hy vọng lời khẩn cầu của mình đã khiến bà thay đổi và đồng ý giúp đỡ.
“Tôi muốn giúp cô lắm chứ. Tôi cũng muốn chứ. Nhưng tôi không có khả năng làm việc ấy. Nếu cô để lại số điện thoại, tôi sẽ hỏi thử mục sư. Nhưng tôi không nghĩ ông ấy muốn cung cấp thông tin cá nhân của giáo dân đâu.”
“Chúa ơi là Chúa, bà ơi, bà không cho chúng cháu dễ thở một chút được sao?” Bailey nói.
Phải thừa nhận là nói năng thế không hay chút nào.
Elenor đứng dậy, đầu suýt va vào trần nhà. “Tôi phải đi thôi, xin lỗi hai người,” bà nói. “Chiều nay có lớp học Kinh Thánh và tôi phải sang chuẩn bị phòng họp. Hy vọng hai người tự tìm được lối ra.”
“Bác ạ, Bailey không có ý dám xẳng giọng với bác, nhưng cha nó đang mất tích và chúng cháu chỉ muốn tìm hiểu lý do vì sao thôi. Việc này khiến gia đình cháu căng thẳng vô cùng. Gia đình là tất cả với chúng cháu, cháu tin bác hiểu điều ấy.”
Tôi chỉ các bức ảnh bày thành hàng trên bệ lò sưởi - ảnh Giáng sinh của con cháu, những tấm ảnh đời thường của chồng bà, những chú chó và trang trại gia đình. Vài bức ảnh chụp Elenor cùng cậu cháu chắc bà yêu quý nhất, tóc nhuộm kiểu highlight kỳ cục. Cậu ta nhuộm màu xanh lá.
“Cháu biết bác là người sẵn sàng làm mọi thứ cho gia đình,” tôi nói. “Cháu thấy điều đó ở bác. Xin bác nghĩ giùm chúng cháu một chút. Cháu chỉ muốn hỏi bác, nếu cháu ngồi chỗ bác và bác ngồi chỗ cháu, thì bác mong cháu sẽ làm gì? Bởi nếu là cháu, cháu sẽ làm giúp bác.”
Elenor ngừng bước rồi chỉnh váy. Kỳ diệu thay, bà ngồi xuống, ẩy kính hai tròng lên sống mũi.
“Để xem tôi làm được gì,” bà nói.
Bailey mỉm cười nhẹ nhõm.
“Sẽ không ai mang danh sách tên ra khỏi phòng này!”
“Sẽ không rời khỏi bàn làm việc của bác,” tôi nói. “Chúng cháu muốn biết liệu có ai đó sẽ giúp được gia đình cháu không thôi. Tất cả chỉ có vậy.”
Elenor gật đầu và kéo danh sách của tôi lại gần. Rồi bà cầm lên. Bà cúi xuống nhìn tờ giấy còn nằm nguyên trên tay, như không thể tin việc mình đồng ý làm. Bà thở dài, nên chúng tôi biết bà không thể tin mình đang làm việc ấy.
Rồi bà quay sang máy tính gõ bàn phím.
“Cảm ơn bà,” Bailey nói. “Cháu cảm ơn bà.”
“Cảm ơn mẹ kế của cháu ấy,” bà nói.
Và điều tuyệt vời xảy ra chính vào lúc ấy. Bailey không nhăn mặt khi nghe Elenor gọi tôi như thế. Nó không cảm ơn tôi. Nó cũng không nhìn tôi. Nhưng nó không nhăn mặt, điều đó cũng giá trị không kém.
Nhưng không có thời gian nhấm nháp vị ngọt ngào, bởi điện thoại bắt đầu rung. Tôi nhìn xuống, thấy tin nhắn của CARL.
Tôi đang đứng trước cửa nhà, cho tôi vào được không? Tôi gõ cửa mãi...
Tôi nhìn Bailey và khẽ chạm vào tay nó. “Tin nhắn của Carl,” tôi nói. “Cô sẽ hỏi xem chú ấy muốn gì.”
Bailey gật đầu nhưng hầu như không để ý gì đến tôi mà chỉ tập trung vào Elenor. Tôi ra hành lang, nhắn tin cho Carl rằng tôi sẽ gọi điện ngay.
“Này,” Carl nói khi trả lời. “Tôi vào được không? Sarah đi cùng tôi. Hai bố con đang đi dạo.”
Tôi hình dung cảnh Carl đứng trước cửa ra vào, Sarah mặc bộ Baby-Björn, đeo một trong mấy chiếc nơ khổng lồ mà Patty luôn thích cài lên tóc con bé. Carl lấy cớ đi dạo cùng con gái để đến gặp và nói chuyện với tôi mà Patty không hay biết.
“Tôi không có nhà, Carl,” tôi nói. “Có chuyện gì không?”
“Nói qua điện thoại không hay lắm,” Carl nói. “Tôi muốn nói chuyện trực tiếp. Tôi sẽ quay lại sau, nếu cô muốn thế. Tôi sẽ đưa Sarah đi dạo lúc năm giờ mười lăm, cho nó hít thở chút không khí trong lành trước bữa tối.”
“Tôi thà nghe luôn bây giờ còn hơn,” tôi nói.
Anh ta dừng lời vì không biết nên thế nào. Tôi biết anh ta đang tính sẽ đòi nói chuyện trực tiếp bằng được, bởi làm vậy sẽ giúp anh ta dễ dàng lấp liếm những điều anh ta muốn. Bởi tôi biết chắc - tôi biết chắc từ khi thấy nét mặt anh ta hôm qua - rằng anh ta biết gì đó và sợ không dám nói ra điều ấy.
“Nghe này, tôi chỉ thực sự thấy rất tệ trước chuyện xảy ra lúc cô đến nhà tôi hôm qua, “ anh ta nói. “Tôi bị bất ngờ, còn Patty thì vốn đã rất bực bội. Nhưng tôi nợ cô lời xin lỗi. Làm thế là sai, đặc biệt khi...”
Anh ta dừng lời như đang quyết định có nên nói hết ra hay không.
“Có lẽ tôi nên quay lại một chút, ý tôi là... Tôi không biết Owen nói gì với cô, nhưng cậu ấy thực sự gặp nhiều khó khăn ở chỗ làm. Cậu ấy thực sự gặp trục trặc với Avett.”
“Anh ấy nói với anh vậy sao?” tôi nói.
“Đúng, cậu ấy không kể rõ chi tiết lắm, nhưng nói phải chịu đựng rất nhiều áp lực để phần mềm đi vào hoạt động,” anh ta nói. “Cậu ấy chỉ nói vậy với tôi. Cậu ấy nói công việc không suôn sẻ như Avett tỏ ra thế. Nhưng cậu ấy đã lâm vào thế cùng...”
Tôi chú ý. “Anh nói ‘lâm vào thế cùng’ là sao?”
“Cậu ấy nói không thể bỏ ngang. Không thể kiếm việc mới. Cậu ấy phải sửa chữa mọi chuyện.”
“Anh ấy có nói vì sao không?” tôi nói.
“Không nói gì. Tôi thề với cô. Tôi đã cố thuyết phục Owen. Căng thẳng thế thì không công việc nào xứng đáng...”
Tôi nhìn vào văn phòng Elenor. Bà vẫn đang kiểm tra máy tính, còn Bailey thì đang đi đi lại lại.
“Cảm ơn anh đã cho tôi biết.”
“Chờ đã... còn một chuyện nữa.”
Nghe là biết Carl đang đấu tranh tư tưởng dữ dội. Tôi biết anh ta đang chật vật không biết nên nói thế nào cho phải.
“Còn chuyện này tôi muốn nói cô nghe.”
“Cứ nói thẳng ra đi, Carl.”
“Chúng tôi không đầu tư vào The Shop, tôi và Patty không đầu tư,” anh ta nói.
Tôi nghĩ đến những gì Patty nói với mình - cô ta gọi Owen là thằng lừa đảo, buộc tội anh đã ăn cắp tiền bạc của họ.
“Tôi không hiểu.”
“Tôi phải dùng khoản tiền ấy vào một việc nhưng không thể cho Patty biết, một việc liên quan đến Cara,” anh ta nói.
Cara. Cô đồng nghiệp có quan hệ với Carl lúc này lúc nọ suốt từ trước khi Sarah ra đời.
“Chính xác là việc gì?” tôi nói.
“Tôi không muốn kể chi tiết, nhưng tôi nghĩ cô nên biết...” anh ta nói.
Tôi hình dung vô số chuyện có thể ngốn hàng chục ngàn đô la của anh ta - chuyện lớn nhất thì là dính tới một em bé khác, mặc một bộ Baby-Björn khác, cũng là con của Carl. Con của hai người bọn họ.
Nhưng chỉ là đoán mò và tôi không có thời gian để đoán. Tôi cũng không thực sự quan tâm. Điều tôi quan tâm là Owen không làm điều Patty buộc tội anh. Có cảm giác đây gần như là bằng chứng - là thông tin giúp tôi tự khẳng định với chính mình - rằng Owen vẫn là Owen.
“Nghĩa là kể cả trong tình hình thế này, anh vẫn mặc cho vợ anh tin rằng Owen lấy tiền của gia đình anh? Rằng anh ấy thuyết phục anh đầu tư tiền tiết kiệm vào một công ty lừa đảo?”
“Giờ tôi đã hiểu mọi chuyện quả là rất tệ,” Carl nói.
“Anh nghĩ thế sao?”
“Ít nhất cũng cho tôi ghi điểm vì đã nói thật được không?” Carl nói. “Đây sẽ là lần cuối cùng tôi nói đến chuyện này.”
Tôi nghĩ đến Patty, người luôn tự coi mình là đúng, kể với câu lạc bộ đọc sách, câu lạc bộ rượu vang và câu lạc bộ tennis của mình - kể với từng người ở trung tâm phụ nữ sẵn lòng nghe chuyện, rằng Owen là một tên tội phạm. Nói cho hết thảy mọi người những thông tin sai lạc cô ta nghe được từ chồng.
“Không đúng Carl, lần cuối cùng anh nói đến chuyện này sẽ là ngay sau cuộc nói chuyện này. Với vợ anh. Vì nếu anh không chịu nói thực với cô ấy thì tôi sẽ nói.”
Nói đến đây, tôi cúp máy, tim đập hối hả. Tôi không có thời gian nghĩ xem những điều Carl nói có liên quan gì, bởi Bailey đang vẫy tay gọi.
Tôi trấn tĩnh lại và quay vào phòng Elenor. “Cháu xin lỗi,” tôi nói.
“Không sao,” Elenor nói. “Tôi cũng vừa kịp tập hợp thông tin...”
Bailey đứng dậy định đi vòng qua bàn tới chỗ Elenor nhưng bị bà giơ tay ngăn lại.
“Để tôi in danh sách ra,” bà nói. “Rồi cho hai người đọc. Nhưng tôi thực sự phải đi họp, nên hai người phải nhanh tay lên.”
“Vâng,” tôi nói.
Nhưng rồi Elenor dừng tay đánh máy. Bà bối rối nhìn màn hình. “Cô chỉ cần thông tin về mùa bóng 2008 thôi đúng không?”
Tôi gật đầu. “Đúng, trận đầu tiên trên sân nhà vào cuối tuần đầu tiên của tháng Chín.”
“Trên sổ sách đây thì tôi cũng thấy thế,” bà nói. “Nhưng ý tôi muốn hỏi cô có chắc chắn là năm ấy không?”
“Khá chắc,” tôi nói. “Sao ạ?”
“2008?”
Bailey cố không tỏ ra khó chịu. “2008, đúng rồi!”
“Nhà thờ đóng cửa mùa thu năm ấy để sửa chữa,” bà nói. “Sửa chữa quy mô lớn. Bị cháy. Chúng tôi đóng cửa vào ngày một tháng Chín. Không có lễ nhà thờ, cũng không tổ chức bất cứ loại lễ nào cho tới tận tháng Ba năm sau. Không đám cưới nào hết!”
Elenor xoay máy tính cho chúng tôi xem lịch - ô nào cũng trống. Tim tôi trùng xuống.
“Hay cháu nhớ nhầm năm?” Elenor quay sang nhìn Bailey. “Để bà xem năm 2009.”
Tôi chìa tay ra ngăn bà lại. Xem 2009 là vô nghĩa. Owen và Bailey chuyển đến Sausalito năm 2009. Tôi có giấy tờ chứng minh điều ấy, trong khi Bailey lại quá nhỏ để có thể nhớ được gì nếu là năm 2007. Nó không nhớ gì về Seattle vào thời điểm ấy, nói chi đến chuyến đi ngắn ngủi hai ngày cuối tuần tới Austin. Nếu thành thực với chính mình thì phải công nhận 2008 cũng đã là cố lắm rồi. Nhưng nếu mẹ con bé có mặt ở đám cưới - và Bailey nghĩ rất có thể như thế - thì 2008 là thời điểm có thể duy nhất.
“Chỉ có thể là 2008,” tôi nói.
Giọng Bailey bắt đầu run rẩy khi nhìn vào màn hình trống trơn.
“Cháu đã đến đây mà. Chỉ có thể là năm 2008 thôi. Cháu với cô đã nghĩ kỹ rồi. Phải là mùa thu năm ấy. Nếu mẹ cháu đi cùng thì chỉ có thể là năm ấy.”
“Hay là 2007?” Elenor nói.
“2007 thì cháu nhỏ quá không thể nhớ được gì hết.”
“Thế thì không phải ở đây,” Elenor nói.
“Nhưng thế thì vô lý lắm,” Bailey nói. “Vì cháu nhận ra khu tụng niệm mà. Cháu nhớ mà.”
Tôi lại gần nhưng Bailey lùi xa hơn. Nó không thích nghe dỗ dành. Nó muốn giải quyết đến cùng chuyện này.
“Bác Elenor,” tôi nói. “Còn nhà thờ nào khác trông giống nhà thờ của bác trong khoảng cách đi bộ được không? Có thể cháu với Bailey đã bỏ lỡ gì đó trước khi thấy nhà thờ của bác?”
Elenor lắc đầu. “Không, không nhà thờ nào có thánh đường giống nhà thờ này,” bà nói.
“Hay một nhà thờ nào đó đã đóng cửa chăng?”
“Bác không nghĩ thế. Nhưng cho bác số điện thoại của cháu. Bác sẽ hỏi linh mục và vài giáo dân. Bác sẽ gọi nếu nhớ được gì. Cháu cứ tin bác.”
“Nhớ được gì mới được chứ?” Bailey nói. “Bà cứ nói thẳng không giúp được chúng cháu cho xong.”
“Bailey, thôi ngay...” tôi nói.
“Thôi ngay? Chính cô đã nói nếu cháu nhớ được gì thì sẽ lần theo đến cùng, thế mà giờ lại bảo cháu thôi ngay?” nó nói. “Kệ cô, cháu không làm trò vớ vẩn này nữa.”
Nó đứng bật dậy, lao ra khỏi phòng Elenor.
Elenor và tôi im lặng nhìn theo, rồi bác đưa mắt nhìn tôi khi nó đã đi khuất.
“Không sao,” bác nói. “Bác biết không phải nó giận mình.”
“Nhưng thực ra lại đúng thế bác ạ,” tôi nói. “Nhưng nó giận nhầm người. Nó giận cha lắm, nhưng anh ấy lại không có mặt ở đây nghe nó nói. Vì thế, nó trút cơn giận vào người khác.”
“Bác hiểu,” Elenor nói.
“Cảm ơn bác đã dành thời gian cho chúng cháu,” tôi nói. “Nếu bác nghĩ thêm được gì, kể cả khi bác nghĩ là điều không quan trọng, làm ơn gọi điện cho cháu biết.”
Tôi viết số điện thoại lên giấy.
“Tất nhiên rồi.”
Bà gật đầu, cho mảnh giấy vào túi áo. Tôi đứng dậy ra cửa.
“Người thế nào mà lại gây ra chuyện này với gia đình mình chứ?” bà hỏi.
Tôi quay lại nhìn bà. “Bác nói gì cơ?” tôi nói.
“Ai lại gây ra chuyện này với gia đình mình chứ?” bà lặp lại.
Người cha tuyệt vời nhất cháu từng biết trên đời, tôi muốn nói vậy.
“Người không có lựa chọn nào khác,” tôi nói. “Là người đó. Là người gây ra chuyện này với gia đình mình.”
“Chúng ta luôn có lựa chọn,” Elenor nói.
Chúng ta luôn có lựa chọn. Grady cũng nói thế. Mà nói vậy có nghĩa gì? Rằng có việc nên làm và có việc không nên làm. Đơn giản. Suy xét. Và nếu bạn là đối tượng của câu hỏi kia - có nghĩa bạn đã lựa chọn sai lầm - như thể thế giới này được chia làm hai nửa, một nửa là những người chưa bao giờ vấp phải sai lầm to lớn nào. Và nửa kia là những người còn lại.
Tôi nghĩ đến Carl trên điện thoại lúc nói Owen đang gặp khó khăn. Tôi thầm nghĩ có lẽ lúc này anh cũng đang gặp rất nhiều khó khăn.
Tôi thấy cơn giận bắt đầu dâng lên trong lòng.
“Cháu sẽ ghi nhớ điều ấy,” tôi nói, giọng điệu như Bailey.
Rồi tôi ra khỏi phòng tìm con bé.