Xin Lỗi, Chúng Tôi Mở Cửa
Đầu óc tôi quay cuồng trước những gì Jake nói. Owen Michaels không tồn tại. Owen không phải là Owen. Anh lừa dối tôi về những chi tiết quan trọng nhất đời anh. Anh lừa dối con gái về những chi tiết quan trọng nhất đời nó. Sao có thể như thế? Nghĩ đến người đàn ông mà tôi tưởng mình hiểu, tôi có cảm giác không đời nào có thể như thế. Tôi thực sự hiểu anh. Tôi vẫn tin điều ấy, bất chấp bằng chứng ngược lại. Và niềm tin vào anh (vào chúng tôi) sẽ chứng tỏ tôi là người đồng hành trước sau như một hoặc chỉ là một con ngốc tuyệt đối. Hy vọng hai khả năng ấy hóa ra không chỉ là một.
Gì thì gì, đây là những gì tôi tưởng mình biết. Hai mươi tám tháng trước, một anh chàng bước chân vào cửa hàng của tôi ở New York, anh mặc áo vét thể thao và đi giày Converse. Trước khi tới nhà hát tối hôm ấy, anh đưa tôi đi ăn tại một nhà hàng Tây Ban Nha nhỏ trên đại lộ Số Mười rồi bắt đầu kể tôi nghe về đời anh. Cuộc đời ấy bắt đầu ở Newton, Massachusetts, bao gồm bốn năm ở trường trung học Newton, tiếp theo là bốn năm ở Đại học Princeton, rồi chuyển đến Seattle, Washington cùng người yêu học cùng đại học, rồi sau đó chuyển đến Sausalito, California với con gái. Trước khi gặp tôi, anh đã có ba việc làm, hai bằng đại học và một người vợ đã qua đời sau vụ tai nạn xe hơi. Một vụ tai nạn mà anh gần như không thể nhắc đến trong suốt hơn chục năm tiếp sau đấy, nét mặt anh buồn bã đầy u ám. Rồi sau đó đến con gái anh. Điểm sáng trong câu chuyện của anh - điểm sáng trong đời anh - đứa con gái bướng bỉnh không giống ai của anh. Anh đưa con gái chuyển đến sống ở một thị trấn nhỏ ở Bắc California chỉ vì nó chỉ tay vào đó trên bản đồ. Rồi nói, thử ở đây xem sao. Điều đó thì anh làm được cho con bé.
Còn đây là những gì con gái anh tưởng rằng nó biết. Nó chủ yếu sống trong ngôi nhà nổi ở Sausalito, California, cùng người bố chưa bao giờ bỏ lỡ một trận bóng đá hay một vở kịch ở trường. Nhiều bữa tối Chủ nhật ở nhà hàng nó chọn và tuần nào cũng đi xem phim. Rất nhiều chuyến đi tới các viện bảo tàng ở San Francisco, các cuộc tụ tập ăn uống trong khu dân cư. Nó không nhớ cuộc sống trước Sausalito, trừ thỉnh thoảng vài ký ức chớp nhoáng: bữa tiệc sinh nhật có ảo thuật gia siêu hạng; lần đi xem xiếc nó khóc toáng khi thấy chú hề; một đám cưới nào đó ở Austin, Texas. Bailey lấp đầy các khoảng trống ký ức bằng những gì Owen kể. Sao không chứ? Chúng ta lấp đầy khoảng trống như thế - bằng các câu chuyện và ký ức từ những người yêu thương ta.
Nhưng nếu họ nói dối, như Owen đã làm, vậy thì bạn là ai? Anh ấy là ai? Con người bạn tưởng mình hiểu rõ nhất, người bạn yêu quý nhất, bắt đầu biến mất, như một ảo ảnh, trừ phi bạn tự thuyết phục mình rằng những gì quan trọng nhất vẫn nguyên giá trị thực. Tình yêu là thực. Tình yêu của anh là thực. Bởi nếu không phải thế thì đáp án duy nhất là mọi thứ đều dối trá và bạn phải làm gì nếu thế? Bạn phải làm gì với từng điều ấy? Bạn phải kết nối từng mảnh ghép thế nào để anh ấy không biến mất hoàn toàn?
Để con gái anh không thấy nó cũng sẽ biến mất hoàn toàn?
o
Bailey tỉnh giấc chỉ sau nửa đêm một chút.
Nó dụi mắt. Rồi đưa mắt nhìn tôi vẫn đang ngồi trên chiếc ghế xấu mù bên bàn nhìn nó.
“Cháu thiếp đi à?” nó nói.
“Ừ.”
“Mấy giờ rồi?” nó nói.
“Muộn rồi. Cháu ngủ tiếp đi.”
Nó ngồi dậy. “Cô cứ nhìn thế thì cháu ngủ làm sao được,” nó nói.
“Bailey, cháu đã bao giờ về thăm nhà cũ của bố cháu ở Boston chưa?” tôi nói. “Bố có bao giờ đưa cháu về không?”
Nó bối rối nhìn tôi. “Nhà hồi bố cháu còn nhỏ á?”
Tôi gật đầu.
“Chưa. Bố chưa bao giờ đưa cháu đến Boston. Bố cũng rất hiếm khi về đó.”
“Và cháu chưa bao giờ gặp ông bà?” tôi nói. “Cháu chưa bao giờ ở với ông bà à?”
“Họ qua đời trước khi cháu ra đời cơ mà,” nó nói. “Cô biết rồi còn gì. Có chuyện gì không?”
Ai sẽ lấp đầy khoảng trống này giúp nó? Một lỗ hổng như thế? Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu.
“Cháu đói không?” tôi nói. “Chắc cháu đói lắm. Cháu có động đến bữa tối đâu. Cô đang đói muốn chết đây.”
“Sao thế được chứ? Cô đã ăn cả bữa tối của cô lẫn của cháu rồi mà.”
“Thay đồ đi nhé?” tôi nói. “Cháu thay đồ được không?”
Nó đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ kiêm radio có màn dạ quang của khách sạn. “Nửa đêm rồi mà,” nó nói.
Tôi mặc áo len, ném áo nỉ cho nó. Nó cúi xuống nhìn chiếc áo nằm ngang chân, đôi giày Converse thò ra dưới mũ áo.
Nó chui áo qua đầu, kéo mũ xuống cho tới khi để lộ tóc tím.
“Cháu uống một ly bia thôi được không?” nó nói.
“Tuyệt đối không.”
“Căn cước giả của cháu lại bảo được,” nó nói.
“Cháu mặc đồ cho xong đi,” tôi nói.
o
Quán cà phê Magnolia là một nơi quen thuộc ở Austin, nổi tiếng vì mở cửa suốt đêm. Có lẽ đó là lý do vì sao giờ này quán vẫn đông khách - 12 giờ 45 phút: nhạc vẫn chơi, bàn nào cũng có khách.
Chúng tôi gọi hai cốc cà phê lớn cùng bánh kếp gừng. Hình như Bailey thích loại bánh ngọt lịm thơm lừng vị gừng chấm bơ và đường dừa ấy. Kèm theo chuối. Nhìn nó ngồi ăn hết khiến tôi có cảm giác ít nhiều mình cũng làm được điều gì đó tốt đẹp cho nó.
Chúng tôi ngồi gần cửa ra vào, tấm biển báo bằng đèn XIN LỖI, CHÚNG TÔI MỞ CỬA sáng đỏ trên đầu. Tôi hấp háy mắt nhìn, cố tìm từ ngữ để kể cho Bailey nghe chuyện Jake nói với tôi.
“Hình như không phải bố cháu lúc nào cũng có tên là Owen Michaels,” tôi nói.
Nó ngẩng lên nhìn tôi. “Cô nói thế là sao?” nó nói.
Tôi dịu dàng nhưng không tỏ vẻ thương hại gì, kể hết cho Bailey nghe. Tôi cho nó biết cha nó không chỉ đổi họ tên. Các chi tiết trong cuộc sống của cha nó - câu chuyện cuộc đời cha nó - hiển nhiên cũng đã bị thay đổi. Cha nó không lớn lên ở Massachusetts, không tốt nghiệp Đại học Princeton và cũng không chuyển tới Seattle hồi hai mươi hai tuổi. Ít nhất thì anh không làm những điều này theo cách mà người ta có thể chứng thực được.
“Ai bảo cô thế?”
“Một người bạn ở New York. Chú ấy làm việc cùng một thám tử chuyên về các vấn đề tương tự. Tay thám tử tin rằng cha cháu thay đổi nhân dạng ngay sau khi chuyển đến Sausalito. Anh ta tin chắc thế.”
Nó bối rối nhìn xuống đĩa đồ ăn, như thể vừa nghe nhầm - những gì tôi nói quá khó hiểu.
“Sao bố cháu phải làm vậy?” nó nói mà không nhìn tôi.
“Cô đoán là vì bố muốn cháu an toàn trước một điều gì đó, Bailey.”
“Điều gì chứ? Một việc gì đó bố cháu làm? Bởi bố luôn là người đầu tiên nói rằng nếu ta trốn chạy khỏi điều gì đó thì thường là trốn chạy khỏi chính mình.”
“Điều đó thì chúng ta không biết chắc.”
“Phải. Điều duy nhất chúng ta biết chắc là bố nói dối cháu,” nó nói.
Và tôi thấy nó bắt đầu nổi giận. Cơn giận chính đáng vì không được biết những chi tiết cơ bản nhất của đời mình. Kể cả khi cha nó làm vậy để tốt cho nó. Kể cả khi cha nó làm vậy vì không còn lựa chọn nào khác. Dù thế nào chăng nữa, nó sẽ phải quyết định có nên tha thứ cho chuyện đó hay không. Cả hai chúng tôi sẽ phải quyết định.
“Bố cháu cũng nói dối cô nữa,” tôi nói.
Nó ngẩng lên.
“Cô chỉ đang nói là, bố cháu cũng nói dối cả cô nữa.”
Nó nghiêng đầu như không biết có nên tin hay chấp nhận điều tôi vừa nói là đúng hay không. Tại sao nó phải tin chứ? Sao nó phải tin ai vào chính thời điểm này chứ? Nhưng quan trọng là phải tìm cách thuyết phục nó - rằng nó có thể tin tôi - rằng tôi không nói dối nó. Tôi có cảm giác mọi thứ lúc này đều xoay vần quanh niềm tin hệ trọng ấy.
Nó nhìn tôi đầy vẻ tổn thương, khiến tôi không thể thốt nên lời. Thật khó giữ được nỗi lòng khi nhìn nó.
Và trong thoáng chốc ấy, tôi hiểu ra mình đã sai ở chỗ nào - đã sai thế nào khi tìm cách kết nối với Bailey. Tôi tưởng chỉ cần đủ tử tế và đủ dịu dàng là nó sẽ hiểu có thể để tôi lo mọi việc. Nhưng làm thế không khiến ai tin tưởng mình. Người ta tin ai đó vào những thời khắc khi ai cũng đã quá mệt mỏi không dịu dàng được nữa, quá mệt mỏi không cố gắng hết mình được nữa. Người ta tin ai đó khi chứng kiến những gì họ làm cho mình vào những thời khắc ấy.
Và điều tôi sắp làm cho Bailey đây chính là điều ông tôi từng làm cho tôi. Tôi sẽ làm bất cứ việc gì để giúp Bailey thấy nó được an toàn.
“Nghĩa là... không chỉ riêng bố cháu đúng không?” nó nói. “Nếu bố cháu làm thế thì nghĩa là cháu cũng không phải là cháu đúng không? Họ tên và mọi thứ... bố cháu đã thay đổi hết vào một thời điểm nào đó.”
“Đúng,” tôi nói. “Nếu Jake nói đúng, thì đúng vậy đấy, cháu từng mang tên khác.”
“Mọi chi tiết cũng khác, đúng không?” Nó ngừng lời. “Như... ngày sinh của cháu chẳng hạn?”
Câu hỏi khiến tôi sững lại. Trước nỗi buồn xé ruột gan trong giọng con bé khi nó hỏi tôi.
“Kiểu như ngày sinh nhật của cháu không phải ngày sinh thật của cháu?” nó nói.
“Không, chắc là không.”
Nó nhìn xuống. Nó không chịu nhìn tôi nữa. “Người ta nên biết ngày sinh của mình,” nó nói.
Tôi cố kìm nước mắt, nắm chặt cạnh bàn. Chiếc bàn nhỏ bé trong nhà hàng tươi vui tại Austin - tranh treo trên tường, màu sắc rực rỡ, tất cả sao đối lập hoàn toàn với cảm xúc trong lòng tôi. Tôi buộc mình phải dừng lại, chớp chớp ngăn dòng nước mắt. Bailey mười sáu tuổi không có ai bên mình ngoài tôi kia cần tôi không khóc. Nó cần tôi ở bên nó. Vậy nên tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh, giành quyền được đau khổ cho nó. Cho nó làm người ấy.
Bailey đan tay đặt trên bàn, nước mắt chan chứa. Cảm giác trong lòng tôi cũng không khác gì khi phải nhìn nỗi thống khổ ấy.
“Bailey, cô biết chuyện này có không thật cho lắm,” tôi nói. “Nhưng cháu là cháu. Cho dù các chi tiết có sao nữa, cho dù bố cháu không nói cháu biết điều gì đi nữa, thì điều đó cũng không làm thay đổi con người cháu. Bản chất của cháu.”
“Nhưng tại sao cháu không hề nhớ gì về việc từng được gọi bằng tên khác? Hay sống ở nơi nào khác? Lẽ ra cháu phải nhớ chứ, đúng không?”
“Cháu vừa nói rồi mà, hồi ấy cháu còn nhỏ xíu. Hai ba tuổi gì đó. Cháu chỉ bắt đầu nhận thức được khi đã trở thành Bailey Michaels. Cháu đừng tự trách mình.”
“Chỉ trách bố cháu thôi?” nó nói.
Tôi lại nghĩ đến người đàn ông ở chợ trời Berkeley gọi Owen là vua dạ hội. Phản ứng bình tĩnh của Owen. Hoàn toàn không bối rối. Chẳng lẽ anh giả vờ giỏi đến mức ấy? Và điều đó nói lên điều gì về anh, nếu đúng là anh giả vờ?
“Cháu không nhớ có ai từng gọi bố cháu bằng cái tên nào khác đúng không? Trước khi tới Sausalito?”
“Ý cô là biệt danh?” nó nói.
“Không, nghĩa là... bằng một cái tên hoàn toàn khác ấy!”
“Cháu không nghĩ thế. Cháu không biết...” Nó đẩy ly cà phê sang bên kia bàn. “Cháu không thể tin nổi chuyện đang xảy ra.”
“Cô biết.”
Bailey đưa cả hai tay lên vê tóc, màu tím hòa vào sơn móng tay sẫm màu, mắt chớp liên tục khi tập trung suy nghĩ.
“Cháu không biết mọi người gọi bố cháu thế nào,” nó nói. “Cháu có để ý bao giờ đâu, để ý làm gì chứ?”
Nó lại ngồi xuống, ngừng đoán già đoán non về bố, ngừng đoán già đoán non về quá khứ, hoàn toàn kiệt quệ bởi cảm giác cho rằng mình sẽ phải tiếp tục đoán nữa. Làm sao trách được nó đây? Ai muốn ngồi ở một nhà hàng lạ hoắc tại Austin cố hiểu xem người quan trọng nhất với mình trên đời này đang giả vờ làm ai? Và vì sao mình lại không nhận ra điều đó. Nhận ra con người thật của người ấy.
“Cháu biết không? Về thôi,” tôi nói. “Muộn rồi. Quay về khách sạn cố ngủ một chút.”
Tôi đứng dậy nhưng bị Bailey ngăn lại. “Chờ đã...” nó nói.
Tôi ngồi xuống.
“Mấy tháng trước Bobby nói với cháu một chuyện,” nó nói. “Anh ấy đang nộp hồ sơ học đại học và muốn có lời giới thiệu từ bố cháu với tư cách cựu sinh viên Princeton. Nhưng khi tìm tên bố cháu trong danh sách cựu sinh viên, anh ấy nói không hề thấy tên Owen Michaels ở bất cứ đâu. Không có trong danh sách sinh viên tốt nghiệp trường Kỹ thuật, cũng không có trong danh sách sinh viên ở trường thông thường nào khác. Cháu nói hẳn anh ấy đã tìm nhầm chỗ và rồi anh ấy được nhận vào Đại học Chicago và bọn cháu cũng quên luôn. Cháu thậm chí còn không nhớ hỏi lại bố cháu mà chỉ đinh ninh rằng Bobby không biết cách dùng cơ sở dữ liệu về các cựu sinh viên thì có.” Nó ngừng lời. “Lẽ ra cháu phải hỏi bố mới phải.”
“Bailey, cháu hỏi làm gì mới được chứ? Cháu có nghĩ bố nói dối mình đâu?”
“Cô có nghĩ rồi có ngày bố sẽ nói cho cháu biết không?” nó nói. “Bố có định một ngày nào đó sẽ rủ cháu đi dạo rồi cho cháu biết mình thực sự là ai? Thật lòng mà nói, có phải bố sẽ nói với cháu, rằng mọi thứ cháu biết về cuộc đời mình cơ bản chỉ toàn là dối trá?”
Tôi nhìn Bailey trong ánh đèn mờ. Tôi nghĩ đến cuộc nói chuyện với Owen, cái lần bàn chuyện đi nghỉ ở New Mexico. Có phải hồi ấy anh cũng định kể tôi nghe? Nếu tôi cương quyết hơn nữa, liệu anh có kể cho tôi nghe?
“Cô không biết,” tôi nói.
Tôi tưởng Bailey sẽ nói thật bất công. Tôi tưởng nó sẽ lại bực bội. Nhưng nó vẫn bình tĩnh.
“Bố cháu sợ gì đến mức ấy?” nó nói.
Tôi sững lại. Bởi lý do là vậy. Đó chính là điểm mấu chốt của mọi thứ. Owen đang trốn chạy khỏi điều gì đó anh vô cùng sợ hãi. Cả cuộc đời anh toàn trốn chạy. Và quan trọng hơn nữa, anh dành cả cuộc đời cố gắng không để Bailey vướng vào đó.
“Cô nghĩ khi chúng ta tìm hiểu được thì chúng ta cũng sẽ biết bố cháu đang ở đâu,” tôi nói.
“Nghe dễ đấy,” nó nói.
Rồi nó cười lớn. Nhưng loáng cái đã biến thành nước mắt. Đúng lúc tôi nghĩ nó sẽ đòi ra khỏi nhà hàng - đòi về khách sạn, quay lại Sausalito - thì hình như lại là lúc nó tìm được trọng tâm. Hình như nó tìm được tiếng nói quyết định trong mình.
“Thế giờ mình làm gì?” nó nói.
Mình. Mình làm gì bây giờ. Cô cháu mình cùng nhau chiến đấu, hình như ý nó là như thế. Tôi thấy ấm lòng, kể cả khi phải tới tận nhà hàng thâu đêm tại Nam Austin xa tít thế này mới có được cảm giác này. Kể cả khi phải bước chân vào lãnh địa chúng tôi không bao giờ muốn phải thấy mình ở đó. Nơi tôi sẵn lòng trả mọi giá miễn để Bailey không phải ở đó. Chúng tôi đang cùng nhau ở đây và cả hai cùng muốn tiếp tục. Cả hai đều muốn tìm Owen và điều anh đang giấu kín cùng nơi anh đang ở.
“Giờ hả,” tôi nói. “Mình sẽ xử lý vụ này.”