Là Khoa Học Còn Gì?
Lần này chúng tôi vẫy taxi.
Bailey không rời mắt nhìn xuống hai bàn tay. Mắt không chớp, gọi là sững sờ thôi là chưa đủ. Tôi cũng quay cuồng đầu óc, cố giữ bình tĩnh. Việc một thám tử tư tin rằng chồng bạn mang tên khác, rằng cuộc đời thực của anh hoàn toàn khác không thấm tháp gì so với phát hiện này. Nếu đúng thế - nếu đúng là Owen học lớp toán của giáo sư Cookman này - thì đây sẽ là bằng chứng đầu tiên, bằng chứng thực sự, cho thấy Owen nói dối về cuộc đời anh. Đây là bằng chứng đầu tiên cho thấy trực giác của tôi đã đúng, rằng có thể cuộc đời Owen, cuộc đời thực của Owen, bắt đầu và kết thúc ở Austin. Cảm giác như đó là một thắng lợi khi chúng tôi tiến gần hơn tới sự thực. Nhưng khi sự thực đem tới điều mình không muốn thừa nhận thì chúng ta lại không chắc lắm. Không chắc ta có muốn chiến thắng ấy không.
Xe taxi tấp vào trường Khoa học Tự nhiên - tập hợp các tòa nhà lớn hơn và chiếm diện tích lớn hơn hẳn cả khu trường sở và khu ký túc xá ngôi trường nghệ thuật của tôi gộp lại.
Tôi quay sang nhìn Bailey. Nó đang đưa mắt nhìn các tòa nhà cùng đám cây cối xanh tươi khắp trường.
Kể cả trong hoàn cảnh này cũng không thể không thán phục, đặc biệt sau khi ra khỏi xe đi dưới hàng cây rợp bóng, qua cây cầu nhỏ dẫn tới khoa toán.
Tòa nhà Robert Lee Moore là trụ sở của khoa toán, lý và thiên văn học của Đại học Texas. Bức tường thành tích tự hào khoe tòa nhà là nơi hàng trăm sinh viên toán và khoa học xuất sắc nhất nước Mỹ tốt nghiệp hằng năm. Đây cũng là ngôi nhà của những người đoạt giải Nobel, Wolf, Abel, giải thưởng Turing và huy chương Fields.
Giáo sư Cookman của chúng tôi cũng từng giành huy chương Fields.
Theo thang cuốn lên văn phòng, chúng tôi thấy tấm poster chân dung giáo sư Cookman. Vẫn nhíu trán như thế, vẫn nhăn mày như thế.
Tấm poster đề: CÁC NHÀ KHOA HỌC TEXAS THAY ĐỔI THẾ GIỚI. Bên dưới liệt kê vài nghiên cứu và vài giải thưởng của giáo sư Cookman. Huy chương Fields. Vào chung kết giải thưởng Wolf.
Chúng tôi đã đứng trước văn phòng ông. Bailey mở một tấm ảnh của Owen trên điện thoại. Chúng tôi chọn tấm ảnh cũ nhất mang theo đến Texas - hy vọng giáo sư Cookman sẽ đồng ý xem thử.
Bức ảnh chụp từ mười năm trước. Owen đang ôm hôn Bailey sau buổi diễn kịch đầu tiên ở trường. Bailey vẫn đang mặc nguyên đồ diễn, Owen tự hào vòng tay ôm vai con gái. Mặt Bailey gần như bị che khuất hoàn toàn bởi bó hoa lớn tướng anh tặng con - cúc đồng tiền, cẩm chướng và hoa loa kèn, bó hoa lớn hơn cả con bé. Bailey cố thò mặt ra nhìn, miệng cười tươi rói. Owen đang nhìn vào máy ảnh. Hạnh phúc. Vui tươi.
Thật khó khăn khi phải nhìn vào tấm ảnh, đặc biệt khi tôi phóng to gương mặt Owen. Ánh mắt tươi sáng, hoạt bát của anh. Như thể anh đang có mặt nơi này. Như thể anh có thể hiện diện nơi đây.
Tôi cố mỉm cười khích lệ Bailey khi cùng bước vào phòng và thấy một nghiên cứu sinh ngồi sau bàn làm việc ở căn phòng bên ngoài. Cô đeo kính gọng đen và đang tập trung chấm điểm một tập bài sinh viên dày cộp.
Cô không ngẩng lên, không bỏ bút mực đỏ xuống. Nhưng hắng giọng.
“Tôi giúp được gì?” cô nói, giọng không muốn giúp chút nào.
“Chúng tôi hy vọng được gặp và nói chuyện với giáo sư Cookman,” tôi nói.
“Rõ rồi,” cô nói. “Để làm gì?”
“Bố cháu là sinh viên cũ của giáo sư,” Bailey nói.
“Giáo sư đang lên lớp,” cô nói. “Hơn nữa, phải đặt hẹn.”
“Tất nhiên rồi, nhưng Bailey có ý muốn nói nó cũng muốn làm sinh viên ở đây. Ở Đại học Texas. Giống bố con bé. Và Nielson Simonson bên bộ phận tuyển sinh gợi ý hôm nay nên tham dự lớp học của giáo sư Cookman.” Cô ngẩng lên nhìn. “Ai bên tuyển sinh cơ?” cô hỏi.
“Nielson?” tôi nói, cố tỏ vẻ tự tin với cái tên mình vừa bịa ra. “Anh ấy nói nếu giáo sư Cook không thuyết phục được Bailey nhập học ở đây thì không ai khác làm được việc ấy. Anh ấy nói Bailey nên dự lớp giáo sư hôm nay.”
Cô gái nhướng mày. Việc tôi dùng biệt danh Cook khiến cô bớt thắc mắc hơn, tin tôi hơn.
“Lớp đã quá nửa thời gian rồi, nhưng nếu muốn dự nốt nửa còn lại, tôi sẽ đưa cháu xuống...”
“Thế thì tuyệt vời,” Bailey nói. “Cảm ơn cô.”
Cô không tỏ vẻ quan tâm, chỉ nhướng mắt. “Thế thì đi thôi,” cô nói.
Chúng tôi theo cô ra khỏi văn phòng, xuống vài tầng cầu thang cho tới khi đứng trước giảng đường lớn.
“Cửa vào nằm ở phía đầu giảng đường,” cô nói. “Đừng dừng chân. Đừng nhìn giáo sư Cookman. Nhằm thẳng cầu thang, lên tới cuối giảng đường. Hiểu chưa?”
Tôi gật đầu. “Rồi.”
“Nếu hai người làm gián đoạn bài giảng, giáo sư sẽ đề nghị hai người ra ngoài,” cô nói. “Chắc chắn đấy.”
Cô mở cửa, tôi định cảm ơn nhưng cô đưa ngón tay lên miệng suỵt.
“Không nhớ tôi vừa nói gì à?”
Rồi cô bỏ đi, đóng cửa sau lưng khi chúng tôi đã đặt chân vào trong.
Chúng tôi nhìn cánh cửa khép kín rồi làm theo lời cô dặn. Mắt tôi nhìn thẳng phía trước khi lên bậc thang về phía cuối giảng đường, đi qua khoảng tám mươi sinh viên ngồi kín chỗ.
Tôi chỉ chỗ trống sát tường để cả hai cùng nhằm tới, cố làm sao để không ai thấy. Chỉ đến lúc ấy, chúng tôi mới quay lại quan sát căn phòng.
Giáo sư Cookman đứng chính giữa phía đầu giảng đường, sau một bục giảng nhỏ. Nhìn ở ngoài thế này, ông tầm sáu mươi, đi bốt cao bồi đỏ hình như giúp ông cao thêm được năm bảy phân nhưng vẫn không quá mét sáu.
Ai cũng đang chăm chú nhìn giáo sư. Ai cũng tập trung. Không ai thì thào với người ngồi cạnh. Không ai kiểm tra email. Không ai nhắn tin.
Khi giáo sư Cookman xoay người để viết lên bảng lớn, Bailey ghé lại gần tôi.
“Nielson Simonson?” nó thì thào. “Cô bịa đấy à?”
“Thì mình đang ở đây còn gì?” tôi nói.
“Đúng thế.”
“Thế thì bịa hay không bịa có sao?”
Tôi tưởng chúng tôi nói đủ nhỏ, nhưng hóa ra lại đủ to khiến ai đó ngồi ở hàng ghế cuối cùng quay lại nhìn.
Tệ hơn thế, giáo sư Cookman cũng dừng tay viết bảng và quay lại nhìn. Ông chằm chằm nhìn chúng tôi, cả lớp làm theo.
Cả người tôi nóng bừng, tôi cụp mắt nhìn xuống đất. Giáo sư không nói gì nhưng cũng không ngừng nhìn chúng tôi. Phải đến gần một phút. Một phút mà cảm giác như cả thế kỷ.
Ơn trời, cuối cùng ông cũng quay lại bảng đen tiếp tục giảng bài.
Chúng tôi im lặng dự nốt giờ học. Thật dễ hiểu vì sao ai cũng tập trung lắng nghe giáo sư Cookman. Dù dáng người thấp bé nhưng ông thực sự gây ấn tượng. Giờ học của ông giống một buổi biểu diễn hấp dẫn với sinh viên. Và có lẽ cũng khiến họ sợ hãi nữa. Ông chỉ gọi sinh viên nào không giơ tay. Khi một người trả lời đúng, ông chỉ đưa mắt nhìn ra chỗ khác, không bày tỏ cảm xúc gì. Khi ai đó không có câu trả lời, ông không rời mắt nhìn kẻ phạm tội. Ông nhìn đến mức ta phải lúng túng, gần như lúc ông nhìn chúng tôi. Chỉ đến lúc ấy ông mới gọi người khác.
Sau khi viết phương trình cuối cùng lên bảng, ông tuyên bố giờ học đã hết và giải tán lớp học. Cả lớp kéo nhau ra khỏi giảng đường. Chúng tôi xuống các bậc thang, tới chỗ ông đang đứng sau bàn cất giáo án và giấy tờ vào cặp đeo.
Hình như không thấy chúng tôi, ông tiếp tục thu dọn. Nhưng rồi ông lên tiếng.
“Hai người có thói quen cắt ngang bài giảng hảp?” ông nói. “Hay tôi là trường hợp đặc biệt?”
“Giáo sư Cookman,” tôi nói. “Tôi xin lỗi. Chúng tôi không định thế.”
“Cô nghĩ nói vậy làm mọi việc tốt hơn hay tệ đi?” ông nói. “Mà cô là ai mới được chứ? Tại sao lại vào lớp học của tôi?”
“Tôi là Hannah Hall. Còn đây là Bailey Michaels,” tôi nói.
Ông hết nhìn tôi lại nhìn Bailey, nghĩ ngợi. “Rồi.”
“Chúng tôi đang tìm kiếm thông tin về một sinh viên cũ của giáo sư,” tôi nói. “Hy vọng giáo sư sẽ giúp đỡ.”
“Tại sao tôi lại muốn giúp?” ông nói. “Đặc biệt khi hai người làm gián đoạn bài giảng của tôi?”
“Vì có lẽ giáo sư là người duy nhất làm được việc đó,” tôi nói.
Ông không rời mắt nhìn tôi, như thể đến giờ mới để ý xem tôi là người thế nào. Tôi ra hiệu cho Bailey đưa ông điện thoại, màn hình đã mở sẵn bức ảnh chụp nó với Owen.
Giáo sư thò tay vào túi áo lấy kính rồi nhìn xuống màn hình điện thoại.
“Người đứng cùng cháu trong ảnh?” ông nói. “Là sinh viên cũ đó hả?”
Con bé chỉ gật đầu mà không nói gì.
Giáo sư nghiêng đầu ngắm ảnh như thực sự cố nhớ. Tôi giúp ông vài thông tin khơi dậy ký ức.
“Nếu năm tốt nghiệp chúng tôi biết là đúng thì anh ấy học lớp của giáo sư hai mươi sáu năm trước,” tôi nói. “Chúng tôi hy vọng ông biết tên anh ấy?”
“Cô biết cậu ấy học lớp của tôi hai mươi sáu năm trước, nhưng lại không biết tên cậu ấy?” ông nói.
“Chúng tôi biết tên hiện tại của anh ấy, nhưng không biết tên thật,” tôi nói. “Chuyện dài lắm.”
“Tôi có đủ thời giờ nghe tóm tắt,” ông nói.
“Là bố cháu,” Bailey nói.
Câu đầu tiên Bailey thốt ra, khiến giáo sư khựng lại. Ông ngẩng lên nhìn Bailey đang nhìn mình.
“Vậy thì có liên quan gì tới tôi?” ông nói.
Tôi nhìn Bailey xem nó có muốn trả lời không, nhưng nó vẫn giữ im lặng. Trông nó mệt mỏi quá. Quá mệt mỏi cho một cô bé mới lên mười sáu. Nó nhìn tôi ra hiệu. Nó ra hiệu muốn tôi giúp.
“Hóa ra chồng tôi bịa ra rất nhiều chi tiết... về đời anh ấy,” tôi nói. “Trừ một điều, anh ấy có kể về giáo sư và về ảnh hưởng có được từ giáo sư. Anh ấy rất yêu quý giáo sư.”
Nghe đến đây, giáo sư lại nhìn ảnh. Hình như ông nhớ ra gì đó khi chăm chú nhìn Owen. Tôi nhìn sang Bailey, tôi biết nó cũng để ý thấy thế. Nhưng tất nhiên rồi, có thể chỉ vì chúng tôi muốn thấy như thế.
“Tên hiện giờ của anh ấy là Owen Michaels,” tôi nói. “Nhưng trước đây anh ấy có tên khác, hồi còn là sinh viên của giáo sư.”
“Sao cậu ấy phải đổi tên?” ông nói.
“Chúng tôi đang cố tìm hiểu lý do,” tôi nói.
“Bao năm nay tôi đã dạy rất nhiều sinh viên. Không thể nói là tôi nhớ cậu ấy,” ông nói.
“Không biết chi tiết này có ích gì không, nhưng chúng tôi biết khá chắc chắn anh ấy là sinh viên vào năm giảng dạy đại học thứ hai của giáo sư.”
“Có lẽ trí nhớ vận hành khác với cô, chứ với tôi thì càng lâu càng khó nhớ hơn.”
Theo trải nghiệm mới đây thì tôi thấy cũng như nhau thôi.
Ông mỉm cười nhìn tôi thăm dò. Và hình như ông bỗng hiểu điều chúng tôi đương phải chịu đựng, bởi ông dịu giọng nói.
“Xin lỗi vì tôi không giúp được gì hơn...” ông nói. “Hay cô thử liên hệ với văn phòng hồ sơ xem sao. Chắc họ sẽ chỉ cho cô đi đúng hướng hơn.”
“Thế cháu phải hỏi họ cái gì đây?” Bailey nói.
Nó đang cố giữ bình tĩnh. Nhưng tôi biết. Tôi biết cơn giận đang âm ỉ sôi trong lòng nó.
“Cháu nói gì?” giáo sư nói.
“Cháu chỉ hỏi là cháu phải hỏi họ cái gì? Hỏi họ xem họ có hồ sơ sinh viên nào giờ mang tên Owen Michales nhưng trước đây có tên khác?” nó nói. “Cái người mà hiện giờ đã biến mất tăm mất tích?”
“Đúng, đúng, cháu nói đúng. Có lẽ họ sẽ không giúp được gì...” ông nói. “Nhưng thực sự việc này không phải sở trường của bác.”
Ông đưa điện thoại cho Bailey.
“Chúc hai người may mắn,” ông nói.
Rồi ông quàng cặp qua vai tiến ra cửa.
Bailey cúi xuống nhìn điện thoại trong tay. Vẻ mặt hoảng sợ - hoảng sợ và tuyệt vọng - giáo sư Cookman bỏ đi, Owen không gần hơn chút nào. Thế mà chúng tôi tưởng đã tiến thêm được chút ít. Chúng tôi đã tìm được giáo sư của Owen. Chúng tôi đã tới đây. Nhưng lúc này, cảm giác như Owen vẫn xa vời như trước. Có lẽ đó là lý do vì sao tôi gọi giáo sư Cookman, không muốn ông bỏ đi.
“Chồng tôi từng là sinh viên tệ nhất của giáo sư,” tôi nói.
Giáo sư Cookman dừng bước. Ông dừng bước, quay lại nhìn chúng tôi.
“Cô vừa nói gì?” ông nói.
“Anh ấy thích kể chuyện hồi xưa học toán khổ sở thế nào và sau khi đã học đến kiệt quệ hết học kỳ I, giáo sư nói sẽ lồng bài kiểm tra của anh ấy vào khung treo trong văn phòng làm bài học cho các sinh viên tương lai. Không phải để cho họ thấy nên học tập thế nào, mà để ít nhất cũng thấy hóa ra mình chưa tệ đến thế.”
Giáo sư im lặng. Tôi tiếp tục nói, lấp đầy bầu không khí lặng câm trong giảng đường.
“Có thể năm nào giáo sư cũng chọn một sinh viên làm vậy, đặc biệt khi anh ấy là sinh viên những năm đầu, và thực sự lúc ấy có lẽ là sinh viên học dốt nhất? Nhưng những gì giáo sư làm đã có tác dụng. Anh ấy tin tưởng vào giáo sư. Thay vì khiến anh ấy bực tức, chuyện ấy lại khiến anh ấy muốn học tập chăm chỉ hơn. Để chứng tỏ khả năng của mình với giáo sư.”
Ông vẫn không nói gì.
Bailey cầm tay tôi kéo lại, nhắc tôi hãy để ông ấy đi.
“Bác ấy không biết đâu,” nó nói. “Đi thôi.”
Nó bình tĩnh đến đáng sợ, thà nó cứ nổi đóa lên tôi lại thấy đỡ hơn.
Nhưng không ai níu lại nữa mà giáo sư Cookman vẫn đứng nguyên đó.
“Đúng là tôi đã đóng khung,” ông nói.
“Cái gì?” Bailey nói.
“Bài kiểm tra của cậu ấy. Tôi đã treo vào khung.”
Ông quay lại, tiến về phía chúng tôi.
“Là năm giảng dạy thứ hai của tôi, lúc ấy tôi cũng không nhiều tuổi hơn sinh viên là mấy. Tôi chỉ muốn chứng tỏ quyền lực của mình. Cuối cùng, vợ tôi bắt tôi phải gỡ bài kiểm tra xuống cất đi. Bà ấy nói mang bài kiểm tra học kỳ tệ hại ra làm hỏng thanh danh sinh viên thì ác quá. Nhưng lúc đầu tôi không nghĩ thế. Đúng là bà ấy khôn ngoan hơn tôi. Bài kiểm tra đóng khung treo trên tường một thời gian dài, khiến bao nhiêu sinh viên sợ chết khiếp, và đúng mục đích của tôi là như thế.”
“Không ai muốn học dốt đến mức ấy?” tôi nói.
“Kể cả khi tôi cho sinh viên biết sau đó cậu ấy đã tiến bộ thế nào,” ông nói.
Rồi ông chìa tay muốn xem lại điện thoại của Bailey. Bailey đưa điện thoại cho ông. Hai chúng tôi cùng chăm chú quan sát ông cố nhớ lại mọi việc cho rõ nét.
“Bố cháu làm gì?” ông hỏi.
Ông hỏi trực tiếp Bailey. Tôi tưởng nó sẽ trình bày ngắn gọn chuyện xảy ra ở The Shop và Avett Thompson - rồi nói hiện giờ chúng tôi chưa biết hết toàn bộ sự việc thế nào. Chúng tôi không biết anh liên quan tới vụ lừa đảo ra sao, cũng không biết vì sao nó khiến anh phải bỏ chúng tôi lại chật vật tìm cách ghép nối toàn cảnh. Bằng những mảnh ghép tưởng như vô thực này. Nhưng thay vào đó, nó chỉ lắc đầu và nói điều tệ hại nhất trong những gì Owen làm.
“Bố cháu nói dối cháu,” Bailey nói.
Giáo sư gật đầu như thể chỉ cần vậy là đủ. Giáo sư Cookman. Tên Tobias. Biệt danh Cook. Nhà toán học đoạt giải thưởng. Người bạn mới của chúng tôi.
“Theo tôi,” ông nói.