Quán The Never Dry
Suốt quãng đường ngồi taxi tới quán The Never Dry, Bailey không ngừng cắn môi - như một thói quen đột nhiên mới hình thành do căng thẳng. Nó liên tục đưa mắt nhìn qua lại, phát cuồng và kinh hãi.
Tôi nghe được câu hỏi nó không muốn nói thành lời, tôi không muốn ép nó và cũng không thể cứ ngồi nguyên đó nhìn nó khổ sở như thế nên tôi cắm đầu cắm cổ tìm kiếm thông tin về Katherine “Kate” Smith và Charlie Smith trên điện thoại - tôi mong tìm được bất cứ điều gì để có thể nói với nó, bất cứ thông tin mới gì có thể cho nó biết để giúp nó dịu lại đôi chút.
Nhưng tôi tìm được quá nhiều, họ Smith quá phổ biến, thậm chí cả khi tôi thêm các điều kiện phụ (Đại học Texas - Austin, dân Austin gốc, nhà vô địch tranh biện). Có hàng trăm kết quả, và hình ảnh, không có hình nào của Katherine mà chúng tôi đã thấy ở thư viện.
Và đó là lúc tôi nảy ra một ý tưởng. Tôi tìm kiếm đồng thời cả Andrea Reyes cùng Charlie Smith và cuối cùng thấy một chi tiết xem chừng có ích.
Một tài khoản Facebook đúng của Charlie Smith của chúng tôi hiện ra. Anh ta tốt nghiệp Đại học Texas ở Austin năm 2002, bằng cử nhân lịch sử nghệ thuật, trước khi theo học hai học kỳ tại trường Cao học Kiến trúc rồi làm thực tập sinh tại một công ty thiết kế phong cảnh ở trung tâm Austin.
Sau đó không thấy thêm thông tin gì về việc làm nữa.
Không cập nhật tin tức, không ảnh từ năm 2009.
Nhưng có nói vợ tên là Andrea Reyes.
“Kia rồi,” Bailey nói.
Nó chỉ ra ngoài cửa sổ, tới một cánh cửa sơn xanh da trời có dây leo cuốn quanh. Rất dễ bỏ qua tấm biển nhỏ mạ vàng có dòng chữ THE NEVER DRY. Quán bar lặng lẽ nhìn chéo qua đường West Sixth, một bên là quán cà phê, bên kia là con hẻm nhỏ.
Chúng tôi xuống taxi. Khi quay lại trả tiền tài xế, tôi thấy khách sạn của chúng tôi bên kia hồ Lady Bird đằng xa. Trong lòng tôi sinh cảm giác lạ lùng, chỉ muốn bỏ cuộc quay về khách sạn.
Bailey bước tới mở cánh cửa xanh.
Trong lúc nó làm việc ấy, tôi bỗng thấy một cảm giác chưa từng đến với mình trước đây. Gọi là bản năng người mẹ đi. Tôi túm lấy tay nó trước cả khi nhận ra mình đang làm thế.
“Cái quái gì vậy?” nó nói.
“Cháu chờ ngoài này.”
“Cái gì?” nó nói. “Không đời nào.”
Tôi suy nghĩ thật nhanh, nói ra sự thực sao khó thế. Nếu ta vào và gặp cô ấy trong đó thì sao? Katherine Smith ấy. Lỡ bố cháu bắt cháu đi khỏi cô ấy thì sao? Lỡ cô ấy tìm cách đoạt cháu khỏi cô thì sao?
“Cô không muốn cháu vào trong ấy,” tôi nói. “Họ sẽ dễ trả lời cô hơn nếu không có cháu đi cùng.”
“Lý do ấy không đủ thuyết phục, cô Hannah,” nó nói.
“Thế thì thế này đi?” tôi nói. “Chúng ta không biết ai là chủ quán bar này. Chúng ta không biết họ là ai và cũng không biết họ có nguy hiểm hay không. Chúng ta chỉ biết có vẻ như bố cháu đã đưa cháu đi khỏi chính nơi này và vì hiểu rõ bố cháu nên chúng ta biết nếu đúng bố cháu làm vậy thì đó là do bố cháu đang tìm cách bảo vệ cháu khỏi một thứ gì đó. Rất có thể bố cháu muốn bảo vệ cháu khỏi ai đó. Cháu không thể vào trong chừng nào cô còn chưa tìm hiểu ra mọi nhẽ.”
Nó im lặng. Nó sưng sỉa nhìn tôi nhưng vẫn im lặng.
Tôi chỉ vào quán cà phê bên cạnh. Trông vắng vẻ, gần như không có khách sau giờ cao điểm buổi chiều.
“Vào đó chờ, mua bánh ngọt mà ăn, được không?”
“Lúc này ai muốn ăn bánh ngọt chứ,” nó nói.
“Thế thì mua một ly cà phê rồi tiếp tục tra cứu danh sách sinh viên của giáo sư Cookman vậy. Xem cháu có tìm được ai khác phù hợp nữa không. Vẫn còn cả đám tên đấy.”
“Cháu không thích kế hoạch này,” nó nói.
Tôi lôi danh sách ra khỏi túi khoác chéo vai, chìa ra cho nó. “Cô sẽ vào rồi gọi cháu vào khi mọi chuyện đã rõ ràng.”
“Cái gì rõ ràng mới được chứ? Sao cô không nói luôn ra đi?” nó nói. “Sao cô không nói luôn cô nghĩ ai đang ở trong đó đi.”
“Có lẽ vì chính cái lý do mà cháu cũng chưa sẵn sàng nói ra, Bailey.”
Nó thấy đúng nên gật đầu đồng ý.
Nó giật danh sách khỏi tay tôi, quay về phía cửa hàng cà phê. “Đừng lâu quá nhé?” nó nói.
Rồi nó mở cửa vào quán cà phê, một đám bồng bềnh tím trôi vào khi nó bước vào trong.
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Sau đó, tôi mở cửa dẫn vào The Never Dry. Bên trong là cầu thang xoắn ốc, dẫn lên một hành lang thắp nến và một cánh cửa xanh khác cũng không khóa.
Tôi mở cánh cửa đó, bước chân vào phòng cocktail nhỏ. Phòng cocktail không một bóng người. Trần có xà gỗ thích, quầy bar gỗ gụ sẫm màu, ghế đôi mềm mại bày quanh các bàn uống nhỏ. Không có vẻ gì là quán bar tại một thị trấn đại học. Cửa ẩn, phòng kín. Giống quán bán rượu lậu hơn - có người canh cửa, gợi tình, kín đáo.
Không ai đứng quầy bar. Dấu hiệu duy nhất cho thấy có người trong quán là các cây nến nhỏ đang cháy trên bàn và nhạc của Billie Holiday phát ra từ chiếc máy quay đĩa cũ.
Vừa lại gần quầy bar, tôi vừa đưa mắt nhìn dãy kệ phía sau chất đầy các loại rượu sẫm màu, rượu đắng hạng nặng - hẳn một kệ dành riêng cho các bức ảnh đóng khung mạ bạc dày dặn cùng vài bài viết cắt báo cũng được lồng khung. Vài bức có Kate Smith, thường chụp cùng một người đàn ông cao gầy, tóc đen. Không phải Owen. Ai đó không phải Owen. Cũng có vài bức ảnh của riêng người đàn ông tóc đen ấy. Tôi rướn người qua mặt quầy cố đọc xem một bài báo viết gì. Bài viết có in ảnh Kate mặc váy dài, người đàn ông cao gầy mặc vét. Một cặp vợ chồng lớn tuổi đứng hai bên. Tôi đọc tên dưới bức ảnh, Meredith Smith, Kate Smith, Charlie Smith...
Rồi tôi nghe tiếng chân. “Này.”
Tôi quay lại và trông thấy Charlie Smith. Người đàn ông cao gầy trong ảnh. Anh ta mặc áo sơ mi cài cúc bảnh bao, tay ôm một thùng sâm banh. Trông anh ta già hơn so với người trong các bức ảnh lồng khung kiểu cách. Đỡ gầy hơn. Mái tóc đen giờ đã điểm bạc, da đã nhăn, nhưng chính là anh ta. Người có quan hệ thế nào đó với Bailey. Phụ thuộc vào việc Bailey có quan hệ thế nào với Kate.
“Vẫn chưa đến giờ mở cửa,” anh ta nói. “Chúng tôi thường không phục vụ trước sáu giờ...”
Tôi chỉ tay về phía cửa ra vào. “Tôi xin lỗi, nhưng cửa không khóa,” tôi nói. “Tôi không có ý tự tiện vào.”
“Không sao, cô cứ ngồi ở quầy xem thực đơn cocktail cũng được,” anh ta nói. “Tôi phải chuẩn bị nốt đôi ba việc cho xong.”
“Nghe được đấy,” tôi nói.
Anh ta đặt thùng sâm banh lên mặt quầy bar, nở một nụ cười hiền từ. Tôi buộc mình cười đáp trả. Ngồi gần người lạ mặt mang những nét đặc trưng giống Bailey thế này quả không dễ chút nào - nụ cười của anh ta dành cho tôi cũng giống nụ cười của con bé, cũng khóe môi cong ấy, cũng lúm đồng tiền tươi tắn ấy.
Tôi leo lên ghế quầy bar trong lúc anh ta vòng ra sau quầy rồi bắt đầu lấy chai khỏi thùng.
“Tôi hỏi anh một chút được không? Tôi mới đến Austin, hình như tôi đi lạc. Tôi muốn tới khu giảng đường. Đi bộ từ đây có được không?”
“Được chứ, nếu cô có khoảng bốn mươi lăm phút. Dễ nhất thì gọi Uber nếu đang vội,” anh ta nói. “Chính xác thì cô muốn đến chỗ nào?”
Tôi nghĩ đến bản lý lịch mà mình vừa kiểm tra của anh ta. “Trường Kiến trúc,” tôi nói.
“Thật sao?” anh ta nói.
Tôi chẳng biết diễn kịch nên cố tỏ vẻ bình thường khi nói dối thế này quả là căng thẳng ghê gớm. Nhưng rất có kết quả. Anh ta bỗng tỏ vẻ quan tâm, đúng như tôi hy vọng. Charlie Smith: gần bốn mươi, suýt trở thành kiến trúc sư, kết hôn với Andrea Reyes. Kết hôn với Andrea tại một đám cưới có Bailey và Owen tham dự.
“Hồi xưa tôi từng học vài lớp ở trường Kiến trúc,” anh ta nói.
“Thế giới nhỏ bé,” tôi nói. Tôi đưa mắt nhìn quanh mong tim đừng phi nước đại nữa và cố bình tĩnh lại. “Anh thiết kế quán này à? Đẹp tuyệt vời.”
“Không thể nhận hết công lao về mình. Tôi thiết kế lại chút ít lúc tiếp quản quán. Nhưng về cơ bản thì vẫn giữ nguyên như cũ.”
Anh ta đã cất hết số sâm banh và giờ quay sang tựa người lên mặt quầy.
“Cô là kiến trúc sư à?” anh ta hỏi.
“Thiết kế phong cảnh. Tôi đang chạy đua vào một vị trí giảng dạy,” tôi nói. “Chỉ là một công việc ngắn hạn khi một giáo sư nghỉ sinh. Nhưng họ muốn tôi đến dự bữa tối cùng vài người trong khoa, nên tôi rất hy vọng.”
“Một chút rượu lấy can đảm nhé?” anh ta nói. “Cô muốn uống gì?”
“Anh chọn,” tôi nói.
“Nghe nguy hiểm quá,” anh ta nói. “Đặc biệt khi tôi đang có thời gian.”
Charlie quay lại nhìn một lượt các lựa chọn trước mặt, đưa tay với một chai bourbon mẻ nhỏ. Tôi nhìn anh ta pha một ly martini cùng đá, rượu đắng và đường. Rồi anh ta chậm rãi rót rượu bourbon đậm đà vào, sau đó hoàn thiện nó với một mảnh vỏ cam.
Anh ta đẩy ly rượu về phía tôi. “Đồ uống đặc biệt của quán,” anh ta nói. “Bourbon kiểu cũ.”
“Nhìn đẹp thế này uống tiếc lắm,” tôi nói.
“Ông tôi thường tự chế rượu đắng. Giờ tôi cũng tự làm là chính. Không giỏi lắm, nhưng cái đó mang lại một trời khác biệt.”
Tôi nhấp một ngụm rượu mượt, lạnh và nặng. Rượu xộc thẳng lên óc tôi.
“Đúng thế, ông tôi là chủ đầu tiên của quán,” anh ta nói. “Ông muốn có nơi chơi bài với bạn bè.”
Anh ta chỉ tay tới một quầy ghế nhung dài ở góc phòng, tấm biển “ĐÃ ĐẶT CHỖ” đặt trên mặt bàn. Trên tường có vài tấm ảnh đen trắng - một trong số đó là bức ảnh rất đẹp của một nhóm mấy người đàn ông ngồi đúng ở chỗ ấy.
“Ông tôi làm chủ chỗ này năm mươi năm rồi giao lại cho tôi.”
“Chà,” tôi nói. “Tuyệt thế. Còn cha anh thì sao?”
“Cha tôi thì sao?”
Và tôi nhận ra - anh ta không thoải mái làm sao khi nghe nhắc đến cha mình.
“Tôi chỉ thắc mắc sao gia đình anh lại bỏ qua một thế hệ.” tôi nói. “Ông ấy không thích công việc này?”
Nét mặt anh ta giãn ra. Hóa ra câu hỏi của tôi xem chừng vô thưởng vô phạt.
“Không, không phải kiểu của cha tôi. Quán bar này thuộc sở hữu của ông ngoại tôi, và mẹ tôi cũng không quan tâm lắm...” Anh ta nhún vai. “Tôi thì thích. Vợ tôi lúc ấy, giờ là vợ cũ rồi, lại đang mang thai song sinh, vậy là tôi phải chấm dứt tháng ngày sinh viên của mình.”
Tôi buộc mình cười thành tiếng, cố gắng không tỏ phản ứng gì trước việc anh ta có con. Hơn một đứa. Tôi cố nghĩ xem nên khai thác khía cạnh ấy thế nào để chuyển câu chuyện sang vợ anh ta và đám cưới. Tới điều tôi muốn tìm hiểu. Tới Kate.
“Có thể đó là lý do vì sao nhìn anh quen lắm,” tôi nói. “Nghe có vẻ điên, nhưng tôi nghĩ chúng ta đã từng gặp nhau từ lâu lắm rồi.”
Anh ta nghiêng đầu mỉm cười. “Thật sao?”
“Không, ý tôi là... tôi nghĩ mình đã từng đến quán bar này hồi còn là sinh viên.”
“Nghĩa là... quán The Never Dry trông quen quen?”
“Thì nói vậy chắc đúng hơn, đúng thế,” tôi nói. “Hồi ấy tôi đến đây dự cuộc thi xốt cay với một cô bạn gái. Cô ấy là nhiếp ảnh gia cho một tờ báo địa phương...”
Thôi thì nói thực được bao nhiêu tốt bấy nhiêu, tôi nghĩ vậy.
“Tôi tin là chúng tôi đã tới đây vào cuối tuần ấy. Quán này trông cũng không giống các quán khác ở Austin.”
“Rất có thể... lễ hội xốt cay không xa chỗ này là mấy,” Anh ta quay lại lấy một chai xốt cay Shonky Sauce Co. từ trên giá. “Đây là một trong các loại xốt đoạt giải năm 2019. Tôi dùng để pha Bloody Mary nặng đô...”
“Nghe rất hứa hẹn nhỉ,” tôi nói.
“Không dành cho ai yếu tim, điều đó thì chắc rồi,” anh ta nói.
“Nếu tôi nhớ không nhầm thì cô nhân viên pha chế đêm hôm ấy hết sức dễ thương. Cô ấy liệt kê cho chúng tôi cơ man là các quán ăn ngon. Tôi nhớ cô ấy. Tóc đen dài. Thực ra là rất giống anh.
“Cô có trí nhớ tốt nhỉ,” anh ta nói.
“Chắc vì có trợ giúp.”
Tôi chỉ tay về chiếc kệ có những khung ảnh mạ bạc. Tôi chỉ thẳng vào bức ảnh Kate đang nhìn lại tôi.
“Hình như chính là cô ấy,” tôi nói.
Theo ánh mắt tôi, anh ta quay lại nhìn bức ảnh của Kate rồi lắc đầu. “Không đời nào, không thể được,” anh ta nói.
Rồi anh ta bắt đầu lau chùi quầy bar, gương mặt đầy vẻ căng thẳng. Lẽ ra tôi nên dừng ở đây - tôi đã định dừng ở đây - nếu không phải chỉ có anh ta mới giúp tôi biết Kate Smith là ai.
“Thế thì lạ thật. Tôi thề là cô ấy đấy. Hai người là họ hàng à?” tôi nói.
Anh ta ngẩng lên nhìn tôi, ánh mắt chuyển từ trạng thái lảng tránh sang khó chịu. “Cô hỏi hơi nhiều đấy,” anh ta nói.
“Tôi biết. Tôi xin lôi. Anh không phải trả lời,” tôi nói. “Thói quen xấu.”
“Hỏi quá nhiều?”
“Không, nghĩ ai cũng sẵn lòng trả lời.”
Nét mặt anh ta giãn ra một chút. “Không, không sao,” anh ta nói. “Đó là em gái tôi. Chỉ hơi nhạy cảm một chút, bởi nó không còn nữa...”
Em gái anh ta. Anh ta nói cô ấy là em gái anh ta. Và nói cô ấy không còn sống nữa. Điều này làm thứ gì đó trong tôi vỡ vụn. Nếu cô ấy là mẹ Bailey thì tức là Bailey không còn mẹ nữa. Bailey trước giờ vẫn tin rằng mẹ nó đã mất, nhưng sự thực ấy giờ lại diễn biến theo một chiều hướng hoàn toàn khác. Con bé sẽ mất mẹ ngay khi vừa tìm được mẹ. Đó là lý do vì sao câu tiếp theo của tôi hoàn toàn thật lòng.
“Tôi rất tiếc,” tôi nói. “Tôi thực sự tiếc.”
“Ừ...” anh ta nói. “Tôi cũng thế.”
Tôi không muốn gặng hỏi thêm về Kate, ít nhất là lúc này. Tôi có thể kiểm tra giấy chứng tử khi rời khỏi đây. Tôi có thể hỏi thêm ai đó để biết thêm thông tin.
Tôi định đứng dậy nhưng Charlie bắt đầu đưa mắt nhìn kệ bày ảnh tìm một tấm nào đó. Ảnh chụp Charlie cùng một người phụ nữ tóc đen và hai cậu bé, cả hai đều mặc áo đội Texas Rangers.
“Có thể là vợ tôi, Andrea,” anh ta nói. “Người mà cô đã gặp ấy. Cô ấy làm ở đây nhiều năm. Hồi tôi còn đi học, cô ấy làm ở đây còn lâu hơn tôi.”
Anh ta đưa tôi khung ảnh. Tôi chăm chú nhìn gia đình hạnh phúc, nhìn người phụ nữ giờ đã là vợ cũ của anh ta đang nở nụ cười rạng rỡ trước ống kính.
Tôi giữ tấm ảnh trong tay.
“Hai cậu con trai của anh xinh quá.”
“Cảm ơn cô. Chúng rất ngoan. Nhưng chắc tôi nên mang thêm ảnh mới đến đây. Hai đứa mới lên năm trong tấm ảnh này,” anh ta nói. “Giờ đã mười một rồi, và chẳng mấy nữa chúng sẽ nhanh chóng nói với tôi là chúng đã đến tuổi bầu cử thôi.”
Mười một. Tôi ngẫm nghĩ. Mười một thì hợp lý một cách chuẩn xác với thời điểm diễn ra đám cưới của anh ta và Andrea. Andrea có mang ngay trước hoặc sau đám cưới.
“Sau khi ly dị thì chúng hơi nhờn với tôi. Nghĩ tôi sẽ chiều mọi yêu cầu của chúng bởi tôi muốn chứng tỏ mình là ông bố phong độ...” Anh ta cười lớn. “Chúng giành phần thắng nhiều hơn cần thiết.”
“Chắc cũng không sao,” tôi nói.
“Ừ.” Anh ta nhún vai. “Cô có con không?”
“Chưa,” tôi nói. “Vẫn đang tìm kiếm người ấy.”
Và điều đó đúng hơn bao giờ hết. Charlie mỉm cười nhìn tôi, chắc đang ngẫm nghĩ không biết đó có phải lời mời mọc. Tôi biết đây là thời điểm phù hợp để nói ra câu hỏi mà tôi cần câu trả lời hơn bất cứ điều gì.
Tôi dừng lại không biết nên nói thế nào.
“Thôi đến lúc tôi phải đi rồi, nhưng có lẽ sẽ quay lại nếu xong việc sớm.”
“Tất nhiên rồi,” anh ta nói. “Ta sẽ ăn mừng khi cô quay lại.”
“Hay thương xót cho nhau.”
Anh ta mỉm cười. “Có thể lắm.”
Tôi đứng dậy như chuẩn bị ra về, tim tôi đập như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
“Anh biết không... tôi hỏi anh câu hỏi này được không? Một câu hỏi hơi kỳ cục. Trước khi ra về? Tôi đoán anh biết rất nhiều người sống ở đây.”
“Quá nhiều là đằng khác,” anh ta nói. “Cô cần biết gì?”
“Tôi đang cố tìm người này. Tôi với cô bạn gái gặp anh ta khi chúng tôi tới đây hồi đó... lâu lắm rồi. Anh ta sống ở Austin, chắc giờ vẫn thế. Bạn tôi thích anh ta lắm.”
Anh ta nhìn tôi tò mò. “Rồi...”
“Dù sao đi chăng nữa, cô ấy đang phải giải quyết một vụ ly dị tệ hại và cứ nghĩ đến anh ta. Nghe kỳ cục lắm, nhưng vì tôi đang ở đây nên nghĩ bụng thử tìm anh ta xem sao. Đấy sẽ là một điều hay ho mà tôi có thể làm được cho cô ấy. Họ hợp nhau. Ừ, cả triệu năm trước rồi nhưng tìm được người hợp mình thế khó lắm...”
“Cô có biết tên không?” anh ta nói. “Không có nghĩa là tôi giỏi nhớ tên đâu.”
“Gương mặt thì sao?” tôi nói.
“Khoản nhớ mặt thì tôi rất khá,” anh ta nói.
Tôi thò tay vào túi lấy điện thoại, nhấn cho tới khi tìm được ảnh Owen. Đó là tấm ảnh chúng tôi cho giáo sư Cookman xem - Bailey tìm được và tôi bảo nó gửi cho tôi. Mặt Bailey khuất sau bó hoa, còn Owen đang mỉm cười hạnh phúc.
Charlie cúi xuống xem ảnh.
Và những gì xảy ra tiếp theo hết sức đột ngột. Anh ta ném điện thoại tôi vào mặt quầy bar khiến nó vỡ toác. Anh ta vọt người qua mặt quầy, gí sát mặt vào mặt tôi. Anh ta không chạm đến tôi, nhưng gí sát đến mức hoàn toàn có thể.
“Cô nghĩ trò này hay lắm hả?” anh ta nói. “Cô là ai?”
Tôi lắc đầu kinh hãi.
“Ai bảo cô đến đây?” anh ta nói.
“Không ai cả.”
Tôi lùi lại sát tường, anh ta tiến lại gần hơn - mặt sát mặt tôi, vai gần chạm vai tôi.
“Cô đang giở trò với gia đình tôi đấy hiểu không,” anh ta nói. “Ai bảo cô đến đây?”
“Tránh xa cô ấy ra!”
Tôi nhìn ra cửa, thấy Bailey đứng đó. Nó đang cầm danh sách sinh viên trong tay, tay kia là cốc cà phê.
Trông nó rất hoảng sợ. Nhưng hơn thế nữa là vẻ giận dữ, như sẵn sàng ném ghế quầy bar vào anh ta nếu cần.
Charlie như vừa thấy một hồn ma.
“Ối trời đất ơi,” anh ta nói.
Anh ta từ từ lùi xa khỏi tôi. Tôi hít một hơi thật sâu, rồi lại một hơi nữa, nhịp tim dần chậm lại.
Cả ba cùng thủ thế trong tình huống kỳ cục. Charlie và Bailey nhìn nhau chằm chằm, còn tôi cố đứng vững không dựa vào tường. Cả ba đứng cách nhau không đầy nửa mét, nhưng không ai động đậy. Không về phía nhau, cũng không về phía cửa ra vào. Rồi đột nhiên Charlie khóc.
“Kristin?” anh ta nói.
Tôi nghẹt thở khi nghe anh ta gọi tên con bé, dù là cái tên tôi chưa từng biết đến.
“Tôi không phải là Kristin,” con bé nói.
Bailey lắc đầu, giọng run rẩy.
Tôi cúi xuống nhặt điện thoại trên sàn, màn hình nứt toác. Nhưng vẫn hoạt động. Điện thoại vẫn hoạt động. Tôi có thể gọi 911. Tôi có thể nhờ trợ giúp. Tôi nhích dần về phía Bailey.
Bảo vệ nó.
Charlie giơ tay lên tỏ ý đầu hàng khi tôi đến gần Bailey, cánh cửa xanh sau lưng. Cầu thang và thế giới bên ngoài ở ngay phía bên kia cửa.
“Nghe này, tôi xin lỗi. Cho tôi giải thích. Nếu hai người chịu ngồi xuống,” anh ta nói. “Một phút thôi? Có được không? Cả hai cùng ngồi xuống được không? Ngồi đi. Tôi muốn nói chuyện, nếu cô cho phép.”
Anh ta giơ tay chỉ một chiếc bàn đủ chỗ cho cả ba. Rồi lùi lại như muốn cho chúng tôi cơ hội. Nhìn mắt là tôi biết anh ta thực sự muốn thế. Trông anh ta buồn hơn là đang tức giận.
Nhưng da anh ta vẫn đỏ rực và tôi không tin cơn giận và nỗi sợ tôi vừa chứng kiến. Không biết đến cơn giận từ đâu, nhưng tôi không thể để Bailey ở gần nó, ít nhất là tới khi tôi biết vai trò của anh ta trong chuyện này ra sao.
Vậy nên tôi quay sang Bailey. Tôi quay sang túm lưng áo con bé ẩy nó về phía cửa.
“Đi!” tôi nói. “Đi ngay!”
Và như biết phải làm gì, hai chúng tôi cùng chạy xuống cầu thang, lao ra ngoài đường phố Austin, tránh xa Charlie Smith.