← Quay lại trang sách

PHẦN MỘT

Tôi ngồi tù tại cái thành phố nhỏ thời thơ ấu. Không phải là một nhà tù thực sự, đó là một phòng giam trong ngôi nhà của cảnh sát địa phương, một tòa nhà hai tầng như biết bao những nhà khác của thành phố.

Phòng giam của tôi xưa kia là một xưởng giặt, cửa và cửa sổ trông ra sân. Những chấn song cửa sổ đã được gắn vào bên trong để cho không ai có thể chạm vào và đập vỡ kính. Một góc vệ sinh được che sau một cái riđô. Giáp với một bức tường, có một cái bàn và bốn cái ghế gắn chặt xuống đất, giáp với bức tường phía trước có bốn cái giường có thể gập xuống. Ba cái đã được gập.

Chỉ có một mình tôi trong phòng giam. Trong thành phố này có rất ít tội phạm, và khi có, người ta lập tức đưa đến thành phố bên, thủ phủ của vùng này cách đây hai mươi cây số.

Tôi không phải là tội phạm. Tôi ở đây là do giấy tờ của tôi không hợp lệ, hộ chiếu của tôi hết hạn. Với lại tôi cũng có nợ tiền.

Buổi sáng, người coi tù mang đến cho tôi bữa sáng, sữa, cà phê, bánh mỳ. Tôi uống chút cà phê rồi tôi đi tắm. Người coi tù ăn nốt bữa sáng của tôi và quét dọn phòng giam. Cửa để mở, tôi có thể ra sân nếu tôi muốn. Đó là một cái sân có tường cao phủ dây trường xuân và nho dại bao quanh. Đằng sau một bức tường, ở phía trái khi ra khỏi phòng giam là một cái hành lang có mái che của một trường học. Tôi nghe tiếng trẻ con cười, đùa, la hét trong giờ ra chơi. Khi tôi còn bé, trường học đã ở đó rồi, tôi nhớ, dù tôi không bao giờ đến trường, nhưng nhà tù thì hồi đó lại ở nơi khác, tôi cũng nhớ bởi vì tôi đã đến đó một lần.

Buổi sáng một giờ, và buổi tối một giờ, tôi đi bộ ngoài sân. Đó là thói quen tôi đã có từ thuở nhỏ, khi tôi mới lên năm, tôi đã buộc phải tập đi.

Điều này khiến người coi tù khó chịu, vì lúc đó tôi không nói và không nghe một câu hỏi nào.

Mắt nhìn xuống đất, tay chắp sau lưng, tôi bước đi, tôi đi vòng quanh dọc theo các bức tường. Mặt đất có lát đá, nhưng cỏ vẫn mọc giữa các kẽ đá.

Cái sân gần như vuông, chiều dài mười lăm bước, chiều rộng mười ba bước. Giả sử bước chân của tôi dài một mét thì diện tích cái sân là một trăm chín mươi lăm mét vuông. Nhưng chắc chắn bước chân của tôi ngắn hơn.

Giữa sân có một cái bàn tròn và hai cái ghế, và giáp với bức tường cuối vườn là một cái ghế dài bằng gỗ.

Ngồi xuống ghế dài đó tôi có thể nhìn thấy một phần lớn bầu trời thuở nhỏ của tôi.

Từ hôm đầu, bà chủ hiệu sách đã đến thăm tôi và mang đến cho tôi các đồ dùng cá nhân và một món xúp rau. Bà tiếp tục đến hàng ngày vào giờ trưa với món xúp rau của bà. Tôi bảo bà rằng ở đây tôi được nuôi dưỡng tốt, người coi tù mang đến cho tôi một ngày hai bữa đầy đủ từ nhà hàng trước mặt, nhưng bà ấy tiếp tục mang xúp đến. Tôi ăn một chút để giữ lễ, rồi tôi đưa cái xoong cho người coi tù ăn nốt.

Tôi xin lỗi bà chủ hiệu sách vì sự lộn xộn tôi đã để lại trong căn hộ của bà. Bà nói:

- Có quan trọng gì đâu. Tôi và con gái tôi đã dọn dẹp cả rồi. Chỉ có rất nhiều giấy. Tôi đã đốt những tờ giấy nhàu nát và những tờ ném vào sọt. Những tờ khác, tôi đã đặt lên bàn, nhưng cảnh sát đã đến và lấy đi.

Tôi im lặng một lát, rồi nói:

- Tôi còn thiếu bà hai tháng tiền nhà.

Bà ấy cười:

- Tôi đã đòi ông quá đắt cho căn hộ nhỏ đó. Nhưng nếu ông muốn thì ông có thể hoàn lại cho tôi khi ông được về. Có lẽ là sang năm.

- Tôi không nghĩ là sẽ về. Người được ủy thác của tôi sẽ thanh toán cho bà.

Bà ấy hỏi tôi có cần gì không, tôi nói:

- Có, tôi cần giấy và bút chì. Nhưng tôi không còn tiền.

- Đáng lẽ tôi đã phải tự nghĩ ra.

Hôm sau, bà ấy trở lại với món xúp, một gói giấy kẻ và nhiều bút chì.

Tôi nói với bà:

- Cảm ơn bà. Người được ủy nhiệm sẽ hoàn lại tất cả cho bà.

- Lúc nào ông cũng nói đến hoàn lại. Tôi thích ông nói đến cái khác. Chẳng hạn ông viết gì?

- Cái tôi viết không quan trọng.

- Cái mà tôi quan tâm, đó là xem ông viết những điều có thật hay những điều bịa đặt.

Tôi trả lời bà ấy rằng tôi thử viết những câu chuyện thật, nhưng đến một lúc nào đó câu chuyện trở nên không chịu nổi do chính tính xác thực của nó, thế là tôi buộc phải thay đổi. Tôi bảo bà ấy rằng tôi thử kể lại chuyện của tôi, nhưng tôi không thể, tôi không đủ can đảm, nó làm tôi quá đau đớn. Thế là tôi tô hồng tất cả và tôi miêu tả sự việc không như chúng đã xảy ra mà theo ý tôi muốn chúng phải xảy ra.

Bà ấy nói:

- Phải. Có những cuộc đời còn buồn hơn cả những cuốn sách buồn nhất.

- Đúng thế. Một quyển sách dù có buồn đến đây cũng không buồn bằng một cuộc đời buồn.

- Cái tật khập khiễng của ông, đó là do tai nạn ư?

- Không, đó là một bệnh từ thuở nhỏ.

- Hầu như không nhận thấy đâu.

Tôi cười.

Tôi lại có cái để viết, nhưng tôi không có gì để uống và không có thuốc lá, trừ một hai điếu người coi tù cho tôi sau bữa ăn. Tôi xin gặp người sĩ quan cảnh sát, ông này tiếp tôi ngay. Bàn giấy của ông ở trên gác. Tôi ngồi xuống một chiếc ghế trước mặt ông ta. Tóc ông màu hung hung, mặt ông đầy tàn nhang. Trước mặt ông, trên bàn có một ván cờ chơi dở. Viên sĩ quan nhìn bàn cờ, đi một quân tốt, ghi nước cờ vào một quyển sổ, ngước cặp mắt màu xanh nhạt.

- Ông muốn gì? Việc điều tra chưa kết thúc. Phải mất hàng tuần, có lẽ một tháng.

Tôi nói:

- Tôi không vội. Tôi cảm thấy ở đây rất tốt, trừ một vài cái nho nhỏ tôi thiếu.

- Gì vậy?

- Sứ quán sẽ không phản đối nếu ông thêm vào chi phí giam giữ tôi một lít rượu vang và hai gói thuốc lá mỗi ngày.

- Không. Như thế có hại cho sức khỏe của ông đấy.

- Ông có biết điều gì xảy ra cho một người nghiện nếu bị cắt rượu đột ngột không?

- Không. Tôi cần gì biết.

- Người ấy có nguy cơ bị sảng rượu cấp và chết lập tức.

- Không đùa đấy chứ?

Ông ấy cúi xuống ván cờ. Tôi bảo ông ấy:

- Quân mã đen.

Ông tiếp tục nhìn ván cờ:

- Đâu? Tôi không thấy gì cả.

Tôi đi quân mã lên. Ông ta ghi vào sổ, nghĩ rất lâu. Ông ta ăn quân tháp.

- Không!

Ông đặt quân tháp xuống, nhìn tôi:

- Ông chơi có giỏi không?

- Tôi không biết. Đã lâu lắm tôi không chơi. Dù sao tôi cũng khá hơn ông.

Ông ta đỏ mặt:

- Tôi mới học chơi cờ được ba tháng. Cũng chẳng có ai dạy tôi. Ông có thể dạy tôi vài bài được không?

- Sẵn lòng. Nhưng ông không được giận nếu tôi thắng.

- Được, thua, tôi không quan tâm. Cái tôi muốn là học tập.

Tôi đứng dậy:

- Ông hãy mang bàn cờ đến khi ông muốn, tốt nhất là buổi sáng, lúc đó đầu óc lanh lợi hơn buổi chiều hoặc buổi tối.

- Cảm ơn.

Ông ta nhìn xuống bàn cờ, tôi đợi và ho:

- Thế còn rượu và thuốc lá thì sao?

Ông ta nói:

- Không có vấn đề gì. Tôi sẽ ra lệnh, ông sẽ có thuốc lá và rượu.

Tôi ra khỏi phòng viên sĩ quan. Tôi xuống và ở lại ngoài sân. Tôi ngồi trên chiếc ghế dài. Năm nay mùa thu rất ấm. Mặt trời lặn, bầu trời mang các màu da cam, vàng, tím, đỏ và các màu sắc không có từ nào để diễn tả nổi.

Hầu như ngày nào tôi cũng chơi cờ với viên sỹ quan trong khoảng hai giờ. Mỗi ván rất dài, viên sĩ quan nghĩ rất lâu, ghi chép tất cả và luôn luôn thua.

Buổi chiều khi bà chủ hiệu sách xếp chiếc áo đan và về để mở cửa hàng tôi cùng chơi bài với người coi tù. Các trò chơi bài của đất nước này không giống với bất kỳ nước nào khác. Mặc dù đơn giản và có nhiều may rủi trong các trò đó, tôi liên tục thua. Chúng tôi chơi tiền, nhưng vì tôi không có tiền, nên người coi tù ghi nợ của tôi lên một bảng đá. Sau mỗi ván, hắn cười rất to và nhắc đi nhắc lại:

- Tôi bị cắm sừng! Tôi bị cắm sừng!

Hắn lấy vợ sớm, vài tháng nữa vợ hắn sẽ cho ra đời một đứa bé. Hắn hay nói:

- Nếu là con trai và nếu ông vẫn ở đây, tôi sẽ xóa nợ cho ông.

Hắn hay nói về vợ hắn, hắn bảo vợ hắn đẹp biết bao, nhất là bây giờ cô ấy béo ra và ngực cô, mông cô đã to ra gấp đôi. Hắn cũng kể lại chi tiết cuộc gặp gỡ của họ, sự đi lại của họ, những cuộc dạo chơi của những kẻ đang yêu trong rừng, sự kháng cự của nàng, thắng lợi của chàng, đám cưới nhanh, khẩn cấp vì đứa bé sắp ra đời.

Nhưng cái mà hắn kể chi tiết hơn và thích thú hơn, đó là bữa cơm tối của ngày hôm trước, nào là vợ hắn đã chuẩn bị ra sao, với những nguyên liệu gì, bằng cách nào và trong bao lâu, vì rằng “càng hầm lâu thì càng ngon”.

Viên sĩ quan không nói gì, không kể gì. Chỉ có một điều ông ta tâm sự với tôi, đó là ông ta đã chơi lại một mình các ván cờ theo các ghi chép của ông, một lần vào buổi chiều trong phòng làm việc, và một lần thứ hai buổi tối ở nhà. Tôi hỏi ông ta đã lấy vợ chưa, ông đã nhún vai trả lời tôi:

- Tôi? Lấy vợ ư?

Bà chủ hiệu sách cũng không kể gì. Bà ấy bảo không có gì để kể, bà đã nuôi hai đứa con và đã sáu năm nay bà góa chồng, có thế thôi. Khi bà ấy hỏi tôi về cuộc sống của tôi ở cái xứ sở kia, tôi trả lời bà rằng tôi còn có ít chuyện hơn bà để kể, bởi vì tôi không nuôi một đứa trẻ nào và tôi chưa bao giờ có vợ.

Một hôm bà ấy bảo tôi:

- Chúng ta xấp xỉ tuổi nhau.

Tôi cãi:

- Tôi lấy làm lạ đấy. Bà có vẻ trẻ hơn tôi nhiều.

Bà ấy đỏ mặt:

- Thôi nào. Tôi không muốn được khen đâu. Tôi muốn nói rằng nếu ông đã qua thời thơ ấu tại thành phố này thì nhất định là chúng ta phải học cùng một trường.

- Phải, trừ khi tôi không đi học.

- Không thể thế được. Bắt buộc phải đi học mà.

- Đối với tôi thì không. Hồi đó tôi suy nhược tâm thần.

Bà ấy nói:

- Không thể nói chuyện nghiêm chỉnh với ông được. Lúc nào ông cũng đùa.

Tôi bị bệnh nặng. Ngày này, cách đây đúng một năm tôi biết là tôi bị bệnh.

Điều này đã khởi đầu ở cái nước kia, tổ quốc thứ hai của tôi, một buổi sáng đầu tháng Mười một, lúc năm giờ.

Bên ngoài, trời hãy còn tối. Tôi khó thở, một nỗi buồn ghê gớm làm tôi nghẹt thở. Cái đau này đi từ ngực, lan sang sườn, lưng, vai, tay, cổ, gáy, hàm như thể có một bàn tay to lớn muốn bóp nát phía trên thân thể tôi.

Chầm chậm đưa tay ra, bật ngọn đèn đầu giường.

Từ từ ngồi xuống giường. Đợi. Đứng lên. Đi đến tận bàn, đến máy điện thoại. Lại ngồi xuống ghế. Gọi xe cứu thương. Không! Không gọi xe cứu thương. Đợi đã.

Đi vào nhà bếp, pha cà phê. Không vội vàng. Không thở sâu. Thở chầm chậm, từ từ, bình tĩnh.

Uống cà phê xong, tắm, cạo râu, đánh răng. Trở lại buồng, mặc quần áo. Đợt tám giờ, rồi gọi điện không phải cho xe cứu thương, mà cho xe taxi và cho người thầy thuốc quen. Ông này nhanh chóng tiếp tôi. Ông nghe tôi, chụp phổi cho tôi, khám tim, đo huyết áp cho tôi.

- Ông mặc quần áo vào.

Bây giờ chúng tôi ngồi đối diện nhau trong phòng làm việc của ông.

- Ông vẫn hút thuốc? Bao nhiêu điếu một ngày? Ông vẫn uống rượu? Bao nhiêu?

Tôi trả lời không dối trá. Tôi đã không bao giờ nói dối ông. Tôi biết rằng ông không cần đến sức khỏe của tôi, đến bệnh tật của tôi.

Ông ghi vào bệnh án rồi nhìn tôi:

- Ông tự hủy hoại, đó là việc của ông. Cái đó chỉ liên quan đến ông. Đã mười năm rồi tôi nghiêm cấm ông hút thuốc và uống rượu. Ông cứ tiếp tục. Nếu ông muốn sống thêm vài năm nữa thì ông phải thôi ngay.

Tôi hỏi:

- Tôi bị bệnh gì vậy?

- Có thể là đau thắt vùng ngực.Nhưng tôi không phải là chuyên gia về tim.

Ông đưa cho tôi một tờ giấy.

- Tôi giới thiệu ông với một thầy thuốc khoa tim nổi tiếng. Ông hãy cầm giấy này đến bệnh viện của ông ta để được khám cẩn thận, càng sớm càng tốt. Trong khi chờ đợi, nếu thấy đau thì ông hãy dùng thuốc này.

Ông cho tôi một đơn thuốc. Tôi hỏi:

- Người ta sẽ mổ cho tôi à?

- Nếu như còn kịp.

- Nếu không thì sao?

- Ông có thể bị một cơn nhồi máu bất kỳ lúc nào.

Tôi đến cửa hàng thuốc gần nhất mua hai hộp thuốc. Một hộp là thuốc an thần thường dùng; trên hộp kia tôi đọc thấy: “Trinitrine. Chỉ định: đau thắt vùng ngực; thành phần: nitroglycerinum”.

Tôi về nhà, uống một viên trong mỗi hộp, rồi đi nằm. Tôi hết đau và ngủ thiếp đi.

*

Tôi bước đi trong thành phố tuổi thơ của tôi. Đó là một thành phố chết, nhà nhà đều cửa đóng then cài.

Tôi đi đến một phố cổ hai bên có những ngôi nhà bằng gỗ, những nhà kho cũ kỹ. Mặt đất phủ một lớp bụi dày, đi chân đất lên đó rất mát.

Tuy nhiên có một sự căng thẳng kỳ lạ.

Tôi quay người lại và trông thấy một con báo ở đầu phố, một con vật đẹp lộng lẫy, màu be vàng, bộ lông mượt mà sáng lên dưới ánh mặt trời.

Đột nhiên, tất cả bùng cháy. Nhà cửa, nhà kho bốc cháy, rồi tôi phải đi tiếp trong cái phố rực lửa đó, vì con báo đi theo sau tôi với dáng chậm chạp đường bệ.

Trốn vào đâu bây giờ? Không có một lối thoát nào, tiến thoái lưỡng nan, đường nào cũng chết.

Con phố này phải dẫn đến đâu đó chứ? Tất cả các phố dẫn đến một quảng trường, hoặc một phố khác, hoặc ra đồng ruộng, về nông thôn, trừ khi nó là một phố cụt, có lẽ là trường hợp của cái phố này.

Tôi cảm thấy tiếng thở hổn hến của con báo đằng sau tôi và rất gần tôi. Tôi không dám ngoái đầu lại, tôi không thể tiến lên, chân tôi như cắm rễ xuống đất. Tôi hãi hùng đợi cái lúc con báo chồm lên lưng tôi, xé nát vai tôi đến tận đùi, cắn nát đầu tôi, mặt tôi.

Nhưng con báo vượt qua tôi, tiếp tục đi con đường của nó, thản nhiên đến nằm dưới chân một thằng bé ở đầu phố đằng kia, thằng bé này trước không ở đó, bây giờ lại ở đó, nó vuốt ve con báo nằm dưới chân nó.

Đứa bé nói với tôi:

- Nó không dữ đâu, nó là của cháu đó. Đừng sợ, nó không ăn thịt người đâu, nó không ăn thịt, nó chỉ ăn các linh hồn thôi.

Không còn ngọn lửa nữa, than cũng tàn, phố xá chỉ còn là tro lạnh.

Tôi hỏi thằng bé:

- Cháu là em ta phải không? Cháu đợi ta à?

Thằng bé lắc đầu:

- Không, cháu không có anh, cháu không đợi ai cả. Cháu là người coi giữ tuổi thanh xuân vĩnh cửu. Cái kẻ đang đợi anh mình ngồi trên ghế dài ở quảng trường Principale. Hắn rất già. Có lẽ chính ông là người hắn đợi.

Tôi thấy em tôi ngồi trên một chiếc ghế dài ở quảng trường Principale. Khi nó nhìn thấy tôi, nó đứng lên:

- Anh đến muộn rồi, chúng ta hãy khẩn trương lên.

Chúng tôi lên nghĩa trang, ngồi xuống cỏ héo vàng. Chung quanh mọi cái đều mục rữa, thánh giá, cây cối, bụi rậm, hoa lá. Em tôi cầm cây gậy ngoáy đất, có những con sâu màu trắng chui lên.

Em tôi nói:

- Không phải tất cả đều chết. Những cái kia còn sống. Sâu lúc nhúc. Nhìn chúng khiến tôi nôn nao. Tôi nói:

- Cứ nghĩ đến là lại không yêu đời được.

Em tôi dùng cái gậy nâng cằm tôi lên:

- Anh đừng nghĩ ngợi làm gì. Hãy nhìn xem! Anh đã nhìn thấy một bầu trời nào đẹp như thế chưa?

Tôi ngước mắt lên. Mặt trời lặn trên thành phố.

Tôi đáp:

- Chưa bao giờ.

Chúng tôi đi bên nhau đến tận lâu đài, dừng lại ngoài sân, chỗ chân tường thành. Em tôi trèo lên tường thành, lên đến ngọn, nó bắt đầu múa theo một điệu nhạc hình như vẳng đến từ tầng hầm. Nó múa, hai tay vung lên về phía bầu trời, về phía các vì sao, về phía mặt trăng đang lên. Trong cái áo khoác màu đen, với vóc dáng mảnh mai, nó nhảy múa trên tường thành, còn tôi thì chạy theo nó ở bên dưới và kêu lên:

- Không! Đừng làm thế! Đứng lại! Xuống đi! Ngã đấy!

Nó dừng lại phía trên tôi:

- Anh không nhớ sao? Chúng ta đã từng dạo chơi trên mái nhà, chúng ta không bao giờ sợ ngã.

- Hồi đó chúng ta còn trẻ, chúng ta không bị chóng mặt. Em xuống đi!

Nó cười:

- Anh đừng sợ, em không ngã đâu, em biết bay mà. Em thường bay lượn trên thành phố ban đêm đấy.

Nó giơ tay lên, nó nhảy và chết bẹp trên đá lát sân ngay dưới chân tôi. Tôi cúi xuống người nó, tôi ôm lấy cái đầu hói của nó, bộ mặt nhăn nhúm của nó và khóc.

Bộ mặt phân hủy, cặp mắt biến mất, tôi chỉ còn lại trong tay một cái sọ vô danh mủn ra và tuột qua kẽ tay như cát mịn.

*

Tôi thức giấc trong nước mắt. Buồng của tôi nửa sáng nửa tối, tôi đã ngủ gần hết ngày. Tôi thay chiếc áo sơ mi ướt đẫm mồ hôi, tôi rửa mặt. Soi mình trong gương, tôi tự hỏi tôi đã khóc lần cuối cùng là bao giờ. Tôi không nhớ nữa.

Tôi châm một điếu thuốc lá, ngồi trước cửa sổ, tôi nhìn màn đêm buông xuống thành phố. Dưới cửa sổ của tôi là một khu vườn vắng vẻ với một cái cây trụi lá. Xa hơn, nhà cửa lên đèn ngày càng nhiều. Đằng sau cửa sổ là cuộc sống. Cuộc sống bình yên, cuộc sống đời thường, yên ổn. Những cặp vợ chồng, trẻ con, gia đình. Tôi cũng nghe thấy tiếng xe cộ ở xa xa. Tôi tự hỏi tại sao người ta lại chạy xe ban đêm. Họ đi đâu? Tại sao?

Rồi cái chết sẽ xóa đi tất cả.

Nó làm tôi sợ.

Tôi sợ chết, nhưng tôi sẽ không đi bệnh viện.

*

Tôi đã trải qua phần lớn thời thơ ấu của tôi trong bệnh viện. Các kỷ niệm của tôi về thời kỳ đó rất chính xác. Tôi hình dung thấy cái giường của tôi giữa hai chục cái giường khác, cái tủ của tôi ngoài hành lang, cái ghế lăn của tôi, đôi nạng của tôi, cái phòng tra tấn cùng với bể nước và các dụng cụ của nó. Các tấm thảm lăn trên đó phải bước đi mãi mãi; những cái vòng phải treo người vào; những cái xe đạp đứng yên mà ta phải đạp ngay cả khi ta thét lên vì đau đớn.

Tôi nhớ lại nỗi đau và cả những mùi, cái mùi thuốc xen lẫn với mùi máu, mùi mồ hôi, nước giải, phân.

Tôi còn nhớ các mũi tiêm, áo bờ-lu trắng của các cô y tá, các câu hỏi không ai trả lời và nhất là sự chờ đợi. Chờ gì vậy? Chắc hẳn chờ khỏi bệnh, mà có lẽ là chờ cái khác.

Sau này người ta cho tôi biết rằng tôi đến bệnh viện trong tình trạng hôn mê do một bệnh nặng. Hồi đó tôi lên bốn, chiến tranh bắt đầu.

Điều gì xảy ra trước thời kỳ bệnh viện, tôi không biết nữa.

Ngôi nhà màu trắng với cửa sổ màu ve tại một phố vắng, nhà bếp ở đó mẹ tôi ca hát, cái sân nơi cha tôi bổ củi, cái hạnh phúc hoàn hảo trong ngôi nhà màu trắng ngày trước có phải là một thực tế hay chỉ là do tôi đã mơ mộng hoặc tưởng tượng ra trong những đêm dài của năm năm tôi nằm viện.

Và người nằm trong cái giường kia của căn buồng bé nhỏ và thở cùng một nhịp với tôi, người em mà tôi nghĩ là tôi biết tên đã chết hoặc chưa bao giờ tồn tại?

Một hôm, chúng tôi đã chuyển viện. Bệnh viện này gọi là “Trung tâm cải huấn”, nhưng vẫn là một bệnh viện. Các buồng, giường, tủ, y tá vẫn như thế, rồi các bài tập đau đớn vẫn cứ thế.

Một công viên rộng lớn bao quanh Trung tâm. Chúng tôi có thể ra khỏi tòa nhà để lội bì bõm trong một cái bể đầy bùn. Càng bôi nhiều bùn lên người bao nhiêu thì các cô y tá càng hài lòng bấy nhiêu. Chúng tôi cũng có thể cưỡi những chú ngựa non lông dài đưa chúng tôi dạo chơi chầm chậm ngang qua công viên.

Năm sáu tuổi, tôi bắt đầu đi học trong một căn phòng nhỏ của bệnh viện. Chúng tôi có tám hoặc mười hai đứa, tùy theo tình trạng sức khỏe của chúng tôi, theo một lớp học do một cô giáo phụ trách.

Cô giáo không mặc áo bờ-lu trắng, mà mặc váy ngắn và bó với áo choàng màu sặc sỡ và giầy cao gót. Cô cũng không đội mũ, tóc cô xõa xuống vai có mầu giống như mầu những quả hạt dẻ rụng từ những cây trong công viên vào độ tháng Chín.

Túi tôi đầy những quả hạt dẻ. Tôi dùng chúng để ném vào các cô y tá và các giám thị. Ban đêm, tôi ném chúng vào giường những kẻ rền rĩ hoặc khóc lóc để làm cho họ yên đi. Tôi cũng ném vào nhà kính của một ông già trồng rau mà chúng tôi buộc phải ăn. Một sáng sớm kia, tôi đã đặt khoảng hai chục quả dẻ trước cửa phòng bà giám đốc để cho bà trượt ngã trên cầu thang, nhưng bà chỉ ngã ngồi trên đôi mông và bà ấy chẳng sao cả.

Hồi đó, tôi không còn phải ngồi trên ghế lần nữa, tôi đi bằng nạng, người ta bảo rằng tôi tiến bộ rất nhiều.

Tôi đi học từ tám giờ đến mười hai giờ. Ăn cơm xong, tôi ngủ trưa, nhưng thay vì ngủ, tôi đọc những cuốn sách cô giáo cho m.

ượn hoặc sách tôi mượn của bà hiệu trưởng khi bà ấy đi vắng. Buổi chiều tôi tập thể dục như mọi người, buổi tối tôi lại phải làm bài.

Tôi làm bài tập rất nhanh, rồi tôi viết thư. Thư cho cô giáo, tôi không đưa bao giờ, thư cho cha mẹ và em, tôi không gửi bao giờ. Tôi không biết địa chỉ của họ.

Gần ba năm đã trôi qua như vậy. Tôi không cần nạng nữa, tôi có thể đi với một cái gậy. Tôi biết đọc, biết viết, biết làm tính. Chúng tôi không có điểm, nhưng tôi thường được nhận một ngôi sao vàng dán bên cạnh tên viết trên tường. Tôi khá hơn cả về tính nhẩm.

Cô giáo có một buồng ở bệnh viện, nhưng cô ít khi ngủ ở đấy. Tối đến cô ra thành phố và chỉ sáng hôm sau mới về. Tôi hỏi cô xem có thể mang tôi đi theo cô, cô trả lời rằng không được, rằng tôi không được ra khỏi Trung tâm, nhưng cô đã hứa mang chocola đến cho tôi. Cô lén cho tôi chocola vì không có đủ cho mọi người.

Một buổi tối nọ, tôi bảo cô:

- Em chán ngủ với bọn con trai lắm rồi. Em thích ngủ với phụ nữ.

Cô đã cười:

- Em muốn ngủ trong buồng bọn con gái ư?

- Không, không phải bọn con gái, với phụ nữ cơ.

- Phụ nữ nào?

- Chẳng hạn với cô. Em thích ngủ trong buồng cô, trong giường cô.

Cô đã hôn lên mắt tôi:

- Bọn con trai tuổi như em phải ngủ một mình.

- Cả cô nữa, cô cũng ngủ một mình sao?

- Phải, cả cô cũng vậy.

Một buổi chiều, cô giáo đến dưới chỗ ẩn nấp của tôi trên ngọn một cây hồ đào mà cành lá làm thành một loại ghế tiện lợi ở đó tôi có thể đọc sách và từ đây có thể nhìn thấy thành phố.

Cô giáo bảo tôi:

- Tối nay, khi mọi người đã ngủ hết, em có thể đến buồng cô.

Tôi đã không đợi cho chúng ngủ. Lẽ ra tôi có thể đợi đếnsáng. Không bao giờ chúng ngủ cùng một lúc. Có những đứa khóc, có những đứa đi vệ sinh tới mười lần một đêm, có những đứa cùng nhau leo lên một cái giường để đùa nghịch, có những đứa nói chuyện đến sáng.

Tôi cho mấy đứa hay khóc nhè vài cái tát thường lệ, rồi tôi đi thăm thằng bé tóc vàng bị liệt không cựa quậy được và không nói. Nó chỉ nhìn trần nhà hoặc nhìn trời khi người ta đưa nó ra ngoài, miệng mỉm cười. Tôi nắm lấy tay nó, áp vào mặt tôi, rồi tôi ôm mặt nó trong tay. Nó mỉm cười nhìn trần nhà.

Tôi ra khỏi nhà ngủ, tôi đi đến buồng cô giáo. Cô không có ở đó. Tôi nằm vào giường cô và ngủ thiếp đi. Khi tôi thức giấc vào giữa đêm, cô đã nằm cạnh bên tôi, hai cánh tay bắt chéo trước mặt. Tôi gỡ tay cô ra, đặt tay cô lên người tôi, tôi áp sát vào cô, tôi cứ nằm như thế không ngủ, đến sáng.

Một vài đứa chúng tôi nhận được thư do các cô y tá phát hoặc đọc cho nghe khi chúng không đọc được. Sau này, những đứa nào không biết đọc mà nhờ tôi, tôi liền đọc hộ. Nói chung, tôi đọc hoàn toàn trái ngược với nội dung thư, chẳng hạn: “Con yêu quý, con chớ có khỏi bệnh. Không có con, chúng ta rất tốt. Chúng ta không nhớ con chút nào. Chúng ra hi vọng rằng con cứ ở đấy bởi vì chúng ta không muốn có một đứa con tàn tật ở nhà. Dù sao chúng ra cũng ôm hôn con một chút, và con phải ngoan nhé vì những người chăm sóc con có công đấy. Chúng ta cũng không bằng được. Chúng ta may mắn có người làm cho con điều mà chúng ta lẽ ra phải làm, vì chúng ra không còn chỗ cho con trong gia đình chúng ta mà ai ai cũng khỏe mạnh, cả bố mẹ con, các anh chị em con”

Cái đứa tôi đọc thư cho bảo tôi:

- Cô y tá đọc cho tao khác kia.

Tôi nói:

- Cô ấy đọc cho mày khác vì cô ấy không muốn làm cho mày buồn. Còn tao, viết thế nào tao đọc thế. Tao nghĩ rằng mày có quyền biết sự thật chứ.

- Phải, tao có quyền. Nhưng tao không thích sự thật. Trước khi khá hơn. Cô ý tá có lý đã đọc khác đi.

Nó khóc.

Nhiều đứa trong chúng tôi nhận được gói đồ trong đó có bánh ngọt, bánh quy, jăm bong, xúc xích, mứt quả, mật ong. Bà hiệu trưởng bảo rằng các gói đồ phải được phân phát cho tất cả chúng tôi. Tuy vậy vẫn có những đứa giấu giếm thức ăn trong giường hoặc trong tủ.

Tôi lại gần một đứa và hỏi nó:

- Mày không sợ thức ăn có độc sao?

- Độc à? Tại sao vậy?

- Các bậc cha mẹ thích con chết hơn là con tàn tật. Mày không nghĩ đến điều này bao giờ à?

- Không, không bao giờ. Mày là thằng dối trá. Cút đi!

Sau này tôi trông thấy đứa bé vứt gói đồ của nó vào thùng rác của Trung tâm.

Có những phụ huynh đến thăm con cái họ. Tôi đợi họ ở cổng trung tâm. Tôi hỏi họ đến thăm ai, tên con họ là gì. Khi họ trả lời, tôi bảo họ:

- Tất tiếc là con ông bà đã chết hai ngày nay. Ông bà không nhận được thư hay sao?

Sau đó tôi chuồn thật nhanh và trốn đi.

Bà hiệu trưởng cho đòi tôi và hỏi:

- Tại sao cháu lại ác độc đến thế?

- Cháu mà ác độc ư? Cháu không hiểu bà nói gì.

- Có, cháu hiểu rất rõ. Cháu đã báo tin một đứa bé chết cho cha mẹ nó.

- Vậy thì sao ạ? Nó không chết ạ?

- Không, và cháu cũng biết rõ như thế.

- Có lẽ cháu đã nhầm tên. Chúng nó có những cái tên giống nhau quá.

- Trừ tên cháu, phải không? Nhưng tuần này không có đứa bé nào chết.

- Không ư? Vậy cháu đã nhầm với tuần trước.

- Phải, chắc chắn là như vậy. Nhưng ta khuyên cháu đừng nhầm tên người, nhầm tuần nọ sang tuần kia. Ta cấm cháu không được nói chuyện với các phụ huynh và các khách đến thăm. Ta cũng cấm cháu đọc thư cho những đứa trẻ không biết đọc.

Tôi nói:

- Cháu chỉ nghĩ là giúp ích mọi người.

- Ta cấm cháu giúp bất kì ai. Cháu hiểu không?

- Vâng, thưa bà hiệu trưởng, cháu hiểu. Vậy thì đừng có ai phàn nàn nếu cháu không giúp người đó trên lên cầu thang, nếu cháu không nâng dậy khi người đó ngã, nếu cháu không giải toán cho hoặc nếu cháu không chữa lỗi chính tả trong lá thư của hắn. Nếu bà cấm cháu giúp đỡ mọi người thì bà cũng nên cấm mọi người yêu cầu cháu giúp đỡ.

Bà đã nhìn tôi rất lâu và nói:

- Thôi được, cháu hãy ra khỏi đây.

Tôi ra khỏi phòng làm việc của bà, tôi trông thấy một đứa bé đang khóc vì nó đã làm rơi quả táo và nó không sao nhặt lên được. Tôi đi ngang qua nói và bảo:

- Mày cứ việc khóc đi, mày cũng không làm cho quả táo về với mày được đâu, đồ vụng về.

Ngồi trên chiếc ghế của nó, nó yêu cầu tôi:

- Anh làm ơn lấy giúp em, được không?

Tôi bảo:

- Đồ ngu, mày đi mà làm lấy.

Buổi tối, bà hiệu trưởng đến phòng ăn, bà nói một tràng dài và cuối cùng bà bảo rằng không được yêu cầu tôi giúp đỡ, không được yêu cầu sự giúp đỡ của một ai, ngoại trừ các cô y tá, cô giáo và bà trong trường hợp bất đắc dĩ.

Tiếp theo những sự việc đó, mỗi tuần hai lần tôi phải đến một căn buồng nhỏ cạnh trạm xá ở đó một bà cụ già ngồi trong một chiếc ghế bành to, trên đầu gối phủ một cái chăn dày. Tôi đã nghe nói về cụ già này. Những đứa trẻ khác cũng đến cái buồng đó kể rằng bà già rất tử tế, chúng rất thoải mái với bà cụ, chúng nằm trên giường bạt hoặc ngồi ở một cái bàn và vẽ mọi thứ chúng muốn, và cũng có thể xem sách tranh và nói gì cũng được.

Lần đầu tôi đến đó, chúng tôi không nói gì, chỉ chào, sau đó tôi thấy chán, sách của bà già không làm tôi quan tâm, tôi không buồn vẽ, thế là tôi đi từ cửa ra vào đến cửa sổ và từ cửa sổ đến cửa ra vào.

Sau một lát, bà già hỏi tôi:

- Tại sao cháu cứ đi đi lại lại mãi như thế?

Tôi đứng lại để trả lời bà:

- Cháu phải rèn luyện cái chân bị tật của cháu. Cháu đi mỗi khi có thể được và khi cháu không có việc gì để làm.

Bà già mỉm cười với tôi:

- Hình như cái chân kia thì tốt chứ?

- Cũng không tốt lắm.

Tôi ném cái gậy của tôi lên giường, tôi đi vài bước, tôi ngã gần cửa sổ:

- Bà thấy nó tốt như thế nào chưa?

Tôi bò và lấy lại cái gậy:

- Khi nào cháu bỏ được cái này, thì mới ổn.

Những lần sau, khi tôi phải đến căn buồng đó, tôi đã không đến. Người ta tìm tôi khắp nơi, người ta không thấy tôi đâu. Tôi ngồi giữa các cành cây hồ đào ở cuối vườn. Chỉ có cô giáo biết nơi ẩn nấp này.

Lần cuối cùng, chính bà hiệu trưởng đã dẫn tôi vào cái buồng nhỏ đó, đúng sau bữa ăn trưa. Bà đã đẩy tôi vào buồng, tôi ngã xuống gường. Tôi nằm đó. Bà già đặt cho tôi những câu hỏi:

- Cháu có nhớ cha mẹ cháu không?

Tôi trả lời:

- Không ạ, không nhớ chút nào. Thế còn bà ạ?

- Buổi tối, cháu nghĩ gì trước khi ngủ?

- Đến ngủ. Bà thì không ạ?

- Cháu đã báo cho các vị phụ huynh rằng con họ chết. Tại sao vậy?

- Để làm cho họ hài lòng.

- Vì sao thế?

- Bởi vì biết rằng con mình chết thì thú vị hơn là sống mà tàn tật.

- Làm sao cháu biết được điều đó.

- Cháu biết, có thế thôi.

Bà già lại hỏi tôi:

- Cháu làm thế có phải vì bố mẹ cháu không bao giờ đến thăm cháu?

Tôi đáp:

- Việc đó thì có liên quan gì đến bà?

Bà tiếp tục:

- Họ không bao giờ viết thư cho cháu. Họ không gửi đồ cho cháu. Thế là cháu trả thù những đứa trẻ khác.

Tôi đứng lên khỏi giường và nói:

- Phải, trả thù cả bà nữa.

Tôi lấy gậy đánh bà, và tôi bị ngã. Bà hét lên. Bà tiếp tục la hét, tôi tiếp tục đánh bà. Những cú đánh của tôi chỉ chạm vào chân và đầu gối bà.

Các cô y tá nghe tiếng la hét đã chạy vào. Các cô giữ lấy tôi và dẫn vào một căn buồng nhỏ, giống như buồng kia không có bàn, không có tủ sách, chỉ có một cái giường, ngoài ra không có gì khác. Cửa sổ có những thanh sắt, cửa ra vào khóa trái.

Tôi đã ngủ một lát. Khi thức giấc, tôi đập cửa, lấy chân đá vào cửa, và kêu lên. Tôi đòi đồ đạc, sách vở, bài làm của tôi. Không ai trả lời.

Nửa đêm, cô giáo vào buồng tôi, cô nằm xuống cạnh tôi trên chiếc giường hẹp. Tôi giấu mặt trong mái tóc cô, rồi bất chợt rung động ghê gớm xâm chiếm tôi. Nó lay động thân thể tôi, những tiếc nấc trào lên miệng tôi, nước mắt dâng lên, nước mũi chảy ra. Tôi khóc nức nở không sao kìm nén nổi.

*

Ở trung tâm ngày càng có ít thực phẩm, cần phải biến công viên thành vườn rau. Tất cả những ai có thể làm việc đều được đặt dưới sự chỉ huy của ông già làm vườn. Chúng tôi trồng khoai tây, đậu, cà rốt. Tôi tiếc không còn được ngồi trong ghế lăn nữa.

Do có báo động máy bay, chúng tôi càng phải thường xuyên xuống hầm nhà, và thường là vào ban đêm. Các cô y tá bế những đứa trẻ không đi được. Tôi tìm được cô giáo giữa hàng đống khoai tây và bao than, tôi ngồi sát vào cô, rồi tôi bảo cô đừng sợ.

Khi quả bom rơi xuống Trung tâm, chúng tôi đang ở trong lớp, không có báo động. Bom bất đầu rơi chung quanh chúng tôi, bọn học sinh trốn dưới gầm bàn tôi đang đứng, tôi vừa đọc xong một bài thơ. Cô giáo lao vào người tôi, cô lật ngã tôi xuống đất, tôi không nhìn thấy gì, cô làm tôi nghẹt thở. Tôi cố đẩy cô ra nhưng cô mỗi lúc một thêm nặng. Một thứ nước đặc sệt, ấm, mặn trào lên mắt, lên miệng, lên cổ tôi, tôi ngất đi.

Tôi tỉnh dậy trong một phòng tập thể dục. Một nữ tu sĩ đang lau mặt cho tôi bằng một mảnh vải ướt, bà nói với ai đó.

Thằng bé này không bị thương thì phải.

Tôi bắt đầu nôn.

Khắp nơi trong phòng tập thể dục, người ta nằm ngổn ngang trên các ổ rơm, cả người lớn và trẻ con. Vài người kêu lên, một số khác không động đậy, chẳng ai biết họ còn sống hay đã chết. Tôi tìm cô giáo trong số đó nhưng không thấy. Đứa bé tê liệt tóc vàng cũng không thấy ở đó.

Hôm sau, người ta đã lục vấn tôi, người ta hỏi tên tuổi, cha mẹ, địa chỉ, nhưng tôi không trả lời, tôi không nói nữa. Thế là họ tưởng rằng tôi bị câm điếc và để cho tôi yên.

Tôi nhận được một chiếc gậy mới. Rồi một buổi sáng nọ, một nữ tu sĩ cầm lấy tay tôi, chúng tôi ra ga, lên tầu, và đến một thành phố khác. Chúng tôi đi bộ qua thành phố đến tận ngôi nhà cuối cùng gần rừng. Bà sơ đã để tôi lại đó, ở nhà một bà nông dân già mà sau này người ta bảo tôi gọi là “Bà”.

“Bà” gọi tôi là “đồ chó đẻ”.

*

Tôi ngồi trên ghế dài ở nhà ga. Tôi đợi tầu, vì đến sớm gần một tiếng đồng hồ.

Từ nơi đây tôi nhìn thấy toàn bộ thành phố, nơi tôi đã sống gần bốn mươi năm.

Ngày xưa, khi tôi tới đây, đó là một thành phố duyên dáng với cái hồ, rừng cây, những ngôi nhà nhỏ cũ kỹ, rất nhiều công viên. Bây giờ một xa lộ cắt cái hồ khỏi thành phố, rừng cây bị tàn phá, các công viên biến mất, nhiều tòa nhà cao tầng làm xấu thành phố. Các phố cổ chật hẹp bây giờ đầy xe cộ lên đến tận hè. Các quán rượu cổ được các nhà hang không kiểu cách thay thế, hoặc các cửa hàng tự phục vụ, ở đó người ta ăn uống nhanh chóng, đôi khi cũng chẳng cần ngồi.

Lần cuối cùng tôi nhìn thành phố này. Tôi sẽ không trở lại đây nữa, tôi không muốn chết ở đây.

Tôi không chào từ biệt ai. Tôi không còn bạn bè ở đây, cả bạn trai lẫn bạn gái. Những người tình của tôi bây giờ chắc đã có chồng, đã là chủ gia đình và không còn trẻ nữa. Đã lâu lắm rồi tôi không gặp họ ngoài phố.

Người bạn tốt nhất của tôi là Peter, hồi tôi còn trẻ đã là người đỡ đầu của tôi, đã chết hai năm rồi do chứng nhồi máu. Vợ ông là Clara, người tình đàu tiên của tôi, đã tự sát lâu rồi vì không chịu nổi tuổi già đến gần.

Tôi ra đi không để lại bất cứ thứ gì. Tôi đã bán tất cả, cũng chẳng có gì to tát. Đồ đạc của tôi không đáng giá bao nhiêu, sách của tôi càng ít hơn. Cái đàn dương cầm và vài bức tranh mang lại cho tôi một ít tiền.

Tầu đến ga, tôi trèo lên. Tôi chỉ có một chiếc va li. Tôi đi khỏi đây với một ít đồ cũng giống như là khi tôi tới đây. Tại cái đất nước giàu có và tự do này, tôi đã không làm giàu được.

Tôi có một cái hộ chiếu du lịch để về thăm quê hương tôi, một cái hộ chiếu có giá trị một tháng nhưng có thể gia hạn, Tôi hi vọng rằng tôi đủ tiền để sống ở đó vài tháng, có thể một năm. Tôi cũng dự trữ một ít thuốc.

Hai giờ sau, tôi đến một nhà ga quốc tế lớn. Lại phải chờ, rồi tôi đi tầu đêm có giường nằm. Tôi nằm giường dưới vì tôi biết tôi sẽ không ngủ và tôi hay ra ngoài để hút thuốc. Toa tầu dần dần đầy người. Một bà già, hai cô gái trẻ, một người đàn ông trạc tuổi tôi. Tôi ra ngoài hành lang, tôi hút thuốc và nhìn đêm tối. Vào quãng hai giờ đêm tôi đi nằm, tôi cho rằng tôi ngủ được một chút.

Sáng sớm, tầu đến một nhà ga lớn khác. Tôi chờ ba giờ ở căng tin nhà ga với vài tách cà phê.

Lần này, con tầu tôi đi là tầu của quê hương tôi. Có rất ít hành khách. Ghế ngồi thiếu tiện nghi, cửa sổ bẩn thỉu, gạt tàn đầy tro, sàn tầu nhớp nháp, buồng vệ sinh không dùng được. Không có toa phục vụ cơm nước, không có căng tin. Hành khách tự phục vụ ăn uống, họ vứt giấy, vỏ chai trên cái bàn nhỏ ở cửa sổ hoặc ném xuống sàn tầu, dưới gầm ghế.

Chỉ có hai hành khách nói bằng thứ tiếng của đất nước tôi. Tôi lắng nghe nhưng không nói chuyện với họ.

Tôi nhìn qua cửa sổ. Phong cảnh thay đổi. Chúng tôi ra khỏi một vùng đồi núi để đến đồng bằng.

Các cơn đau của tôi lại bắt đầu. Tôi nuốt khan vài viên thuốc. Tôi đã không nghĩ đến mang theo nước, và tôi không thích xin hành khách.

Tôi nhắm mắt lại. Tôi biết rằng chúng tôi đang đến gần biên giới. Chúng tôi đến nơi. Tầu dừng bánh, lính biên phòng, nhân viên thuế, công an lên tầu. Người ta hỏi giấy tờ của tôi rồi mỉm cười trả lại. Trái lại, hai người khách nói tiếng địa phương lại bị hỏi rất lâu và bị khám xét hành lý.

Con tầu lại chạy, ở mỗi chặng dừng chỉ có những người dân địa phương lên tầu.

Thành phố nhỏ bé của tôi không được các con tầu đến từ nước ngoài phục vụ. Tôi đi đến thành phố bên cạnh, ở sâu bên trong đất nước và cũng lớn hơn. Tôi có thể nhận được ngay thư từ, người ta chỉ cho tôi con tầu nhỏ màu đỏ có ba toa khởi hành hàng giờ từ ke số một đi về Thành Phố Nhỏ. Tôi nhìn con tầu xuất phát.

Tôi ra khỏi ga, tôi đi xe taxi đến một khách sạn. Tôi lên buồng, đi nằm và ngủ thiếp đi ngay.

Thức dậy, tôi vén rađiô cửa sổ về phía tây. Ở đằng kia, đằng sau dãy núi thành phố nhỏ của tôi, mặt trời đang lặn.

Hàng ngày, tôi ra ga nhìn con tầu màu đỏ đến rồi lại đi. Sau đó tôi dạo chơi trong thành phố. Buổi tối, tôi uống vài cốc rượu ở quầy rượu khách sạn hoặc trong một quán rượu của thành phố với những người lạ.

Buồng của tôi có ban công. Bây giờ thời tiết bắt đầu nóng, tôi thường hay ngồi ở đó. Từ đây tôi nhìn thấy một bầu trời mênh mông mà tôi chưa từng nhìn thấy từ bốn mươi năm nay.

Tôi đi chơi mỗi ngày một xa trong thành phố, tôi rời khỏi thành phố và dạo chơi ngoài đồng quê. Tôi đi dọc một bức tường bằng đá và kim loại. Phía sau bức tường một con chim hót, tôi trông thấy những cành trụi lá của các cây dẻ.

Cánh cửa bằng sắt rèn đã mở. Tôi vào, tôi ngồi trên một phiến đá to phủ rêu gần lối vào. Phiến đá to đó chúng tôi gọi là” hòn đá đen”, mặc dù nó không đen, nó đã có màu xám hoặc màu xanh thì đúng hơn, còn bây giờ nó hoàn toàn màu ve.

Tôi nhìn công viên và nhận ra. Tôi cũng nhận ra tòa nhà to lớn ở cuối công viên. Cây cối có lẽ vẫn là những cây cũ, chim choc thì chắc chắn là không, Bao nhiêu năm đã trôi qua. Một cây sống bao nhiêu năm? Một con chim sống được bao lâu? Tôi không biết.

Thế còn con người thì sống được bao lâu? Hình như là mãi mãi, vì tôi trông thấy bà giám đốc Trung tâm đang lại gần. Bà hỏi tôi:

- Ông làm gì ở đây vậy, thưa ông?

- Thưa bà giám đốc, tôi chỉ xem thôi. Tôi đã qua năm năm thơ ấu tại đây.

- Khi nào vậy?

- Cách đây đã bốn chục năm. Bốn mươi lăm năm. Tôi nhận ra bà. Bà từng là giám đốc Trung tâm cải huấn.

Bà ta kêu lên:

- Thật láo xược! Ông nên biết rằng cách đây bốn mươi năm tôi chưa ra đời, nhưng tôi nhận ra các trò châm biếm từ xa. Ông hãy đi đi nếu không tôi gọi cảnh sát.

Tôi đi về khách sạn, tôi uống vài cốc rượu với một người lạ. Tôi kể lại câu chuyện của tôi với bà giám đốc:

- Tất nhiên không phải là cùng một bà giám đốc. Bà kia đã chết rồi.

Ông bạn mới của tôi nâng cốc:

- Kết luận: hoặc các bà giám đốc giống nhau không kể tuổi tác, hoặc các bà sống rất lâu. Ngày mai tôi đi cùng ông đến Trung tâm của ông. Ông tha hồ mà thăm.

Hôm sau, người lạ đến tìm tôi tại khách sạn. Hắn đi với tôi bằng ô tô đến trung tâm. Trước cổng, khi bước vào, hắn bảo tôi:

- Ông biết không, cái bà già ông gặp vẫn là cái bà ấy. Chỉ có điều bà ấy không còn là giám đốc ở đây cũng như ở nơi khác. Tôi đã đi hỏi. Cái Trung tâm của ông bây giờ là nhà dưỡng lão.

Tôi chỉ muốn xem phòng ngủ và vườn.

Cây hồ đào vẫn ở đó, nhưng nó có vẻ cằn cỗi, nó sắp chết.

Tôi nói với ông bạn:

- Cây của tôi sắp chết rồi.

- Ông đừng có đa cảm thế, cái gì mà không chết.

Chúng tôi đi vào tòa nhà. Chúng tôi đi trong hành lang, chúng tôi vào cái buồng đã từng là của tôi và bao đứa trẻ khác cách đây bốn mươi năm. Tôi đứng lại trước cửa buồng, tôi nhìn. Không có gì thay đổi. Mười hai cái giường, tường trắng, giường màu trắng, trống. Vào giờ này bao giờ giường cũng trống.

Tôi leo lên gác, tôi mở cửa cái buồng ngày xưa tôi đã từng bị nhốt trong nhiều ngày. Cái giường vẫn còn ở đó, ở chỗ cũ, có thể vẫn là cái giường ấy.

Một người đàn bà trẻ đi theo chúng tôi nói:

- Ở đây đã bị bom. Nhưng mọi cái đã được xây dựng lại như trước, tất cả như trước. Đó là một tòa nhà rất đẹp, không được làm nó thay đổi.

Một buổi chiều kia, tôi lại bị đau. Tôi trở về khách sạn, tôi lấy thuốc, tôi thu dọn hành lý, thanh toán tiền trọ và gọi taxi.

Ra ga.

Xe taxi đỗ trước ga, tôi bảo tài xế:

- Anh hãy mua giúp tôi một vé đến thành phố K. Tôi bị ốm.

Người tài xế noi:

- Không phải việc của tôi. Tôi đã chở ông đến ga. XIn ông xuống cho, tôi không muốn dây vào người ốm.

Hắn đặt va li của tôi xuống hè, mở cửa xe phía bên tôi:

- Xin ông xuống cho và ra khỏi xe của tôi.

Tôi lấy tiền ngoại tệ trong ví đưa cho hắn:

- Anh cầm lấy.

Người tài xế vào nhà ga, trở lại với chiếc vé tầu, giúp tôi ra khỏi xe, nắm lấy cánh tay tôi, mang va li cho tôi, đi cùng tôi tới ke số một và cùng tôi chờ tầu. Khi tầu đến, hắn giúp tôi lên tầu, đặt chiếc va li bên cạnh tôi, và đề nghị người soát vé giúp đỡ tôi.

Tầu chạy. Hầu như không có người trong các toa. Người ta cấm hút thuốc lá.

Tôi nhắm mắt lại. Tôi giảm hẳn đau. Cứ mười phút tầu lại dừng. Tôi biết rằng cách đây bốn mươi năm tôi đã đi một chuyến như thế này.

Trước khi đến ga của thành phố nhỏ, con tầu đã dừng bánh. Bà sơ kéo tay tôi, lay tôi, tôi không động. Bà đã nhảy ra khỏi tầu, cúi đầu chạy, và nằm xuống ruộng. Tất cả hành khách đều làm như bà.

Còn một mình tôi trong toa tầu. Máy bay bay ngang đầu chúng tôi, và bắn con tầu. Khi yên tĩnh đã trở lại, bà sơ cũng trở lại. Bà tát tôi, con tầu lại đi tiếp.

Tôi mở mắt ra. Chúng tôi sắp tới nơi. Tôi đã trông thấy đám mây màu bạc trên đỉnh núi, rồi hiện ra các tháp của lâu đâì và gác chuôngcủa vô số nhà thờ.

Ngày hai mươi tháng Tư, sau khi đi xa bốn chục năm, tôi trở về cái thành phố bé nhỏ thời thơ ấu.

Nhà ga không thay đổi, chỉ có điều sạch hơn và có hoa, giống hoa ở đây mà tôi không biết tên và cũng không thấy ở nơi khác.

Có một chiếc xe buýt chở vài hành khách hiếm hoi của con tầu và thợ thuyền của nhà máy trước mặt.

Tôi không đi xe buýt. Tôi đứng đó, trước ga, chiếc va li đáp dưới đất, và tôi nhìn con đường trồng cây dẻ của phố ga dần vào thành phố.

- Thưa ông, cháu có thể mang va li giúp ông được không?

Một đứa bé khoảng mười tuổi đứng trước mặt tôi. Nó nói:

- Ông đã nhỡ chuyến xe buýt. Nửa giờ nữa mới có chuyến sau.

Tôi bảo nó:

- Không sao. Bác đi bộ vậy.

- Va li của ông nặng quá.

Nó nhấc va li của tôi và không buông ra nữa. Tôi cười:

- Phải. Cháu không thể mang nó đi xa được đâu, bác biết. Bác đã làm việc này trước cháu.

Đứa bé đặt chiếc va li xuống:

- Thế ạ? Bao giờ vậy thưa ông?

- Khi bác bằng tuổi cháu, đã lâu rồi.

- Ở đâu ạ?

- Ở đây, trước nhà ga này.

- Cháu cũng có thể mang được chiếc va li này.

- Được, nhưng hãy cho bác đi trước mười phút. Bác muốn đi bộ một mình. Cháu cứ từ từ, bác không vội đâu. Bác đợi cháu ở công viên Jardin noir.

- Thưa ông, vâng.

Jardin noir là một công viên nhỏ ở đầu con đường trồng cây dẻ, nó chẳng có gì là đen, trừ cái barie bằng sắt rèn bao chung quanh. Tôi ngồi xuống một cái ghế dài đợi đứa bé. Nó đến, đặt va li trên cái ghế trước mặt tôi, ngồi xuống và thở dốc.

Tôi châm một điếu thuốc lá và hỏi:

- Tại sao cháu làm việc này?

Cháu muốn mua một chiếc xe đạp. Ông có thể cho cháu một điếu thuốc lá được không?

- Không, cháu không được hút thuốc. Cháu có muốn chết vì thuốc lá không?

- Chết vì lý do này hay lý do khác… Dù sao thì các nhà thông thái cũng nói…

- Họ nói gì?

- Họ nói rằng trái đất bị sét đánh, và không thể làm gì nổi. Muộn quá rồi.

-Cháu đã nghe nói điều đó ở đâu vậy?

- Thưa ông, ở trường và nhất là trên truyền hình.

Tôi ném điếu thuốc:

- Cháu không có thuốc lá đâu.

- Ông ác quá.

- Phải, bác ác. Rồi sao nữa? Trong thành phố này có một khách sạn ở đâu đó chứ?

- Tất nhiên là có, và rất nhiều. Ông không biết sao? Tuy vậy ông có vẻ biết rõ thành phố này.

- Khi bác ở đây, không có một cái khách sạn nào.

- Vậy thì đã lâu lắm rồi. Ở quảng trường Principale có một cái khách sạn mới toanh tên là Đại khách sạn, vì nó to nhất.

- Ta đến đó.

Đến trước khách sạn, đứa bé đặt va li xuống:

- Thưa ông, cháu không thể vào được. Bà tiếp tân biết cháu. Bà ấy sẽ mách mẹ cháu.

- Mách gì? Mách cháu mang va li vào cho bác à?

- Vâng, mẹ cháu không muốn cháu mang va li.

- Tại sao vậy?

- Cháu không biết. Mẹ cháu không muốn, mẹ cháu chỉ muốn cháu học thôi.

- Bố mẹ cháu làm gì?

- Cháu không có bố mẹ. Chỉ có mẹ thôi, không có bố. Cháu chưa bao giờ có bố.

- Thế mẹ cháu làm gì?

- Mẹ cháu làm ở đây, tại khách sạn. Mẹ cháu lau nhà một ngày hai lần. Mẹ muốn cháu trở thành nhà bác học.

- Bác học về gì?

- Cái đó thì mẹ cháu không thể biết vì mẹ không biết các nghề nghiệp của nhà bác học. Bà ấy nghĩ là giáo sư hay bác sĩ gì đó.

- Thôi được. Cháu lấy bao nhiêu về cái va li?

- Thưa, tùy ông.

Tôi đưa cho nó hai đồng tiền lẻ:

- Ngần này được không?

Thưa ông, được ạ.

- Không, như thế không được. Chẳng lẽ cháu mang cái va li nặng như vậy từ ga về đây chỉ vì một ít tiền thế thôi à?

- Thưa ông, cho cháu bao nhiêu thì cháu lấy bấy nhiêu. Cháu không có quyền đòi hỏi hơn. Rồi còn những người nghèo, có khi cháu mang giúp không lấy tiền. Cháu thích làm việc này. Cháu thích đợi ở nhà ga, thích nhìn những người từ xa đến. Những người ở đây, cháu biết tất cả bọn họ. Cháu thích nhìn những người ở nơi khác đến, như ông chẳng hạn. Có phải ông đến từ xa không?

- Phải, từ rất xa, từ một nước khác.

Tôi cho nó một tờ giấy bạc và vào khách sạn.

Tôi chọn một buồng ở góc, từ đây tôi nhìn thấy toàn bộ quảng trường, nhà thờ, cửa hàng tạp hóa, các cửa hiệu, hiệu sách.

Chín giờ tối, quảng trường vắng tanh. Các nhà đã lên đèn. Người ta hạ cửa sắt, đóng cửa sổ, kéo màn gió.

Tôi đứng trước cửa sổ, tôi nhìn quảng trường, nhà cửa, mãi tới khuya.

Thời thơ ấu tôi thường hay mơ được ở một trong những ngôi nhà tại quảng trường Principale, nhất là ngôi nhà màu xanh xưa vẫn có và hiện nay vẫn có một cửa hàng sách.

Nhưng trong thành phố này tôi đã sống trong căn nhà đổ nát của “Bà”, xa trung tâm, mãi cuối thành phố, gần biên giới.

Ở nhà Bà tôi làm việc từ sáng đến tối như Bà. Bà cho tôi ăn, cho tôi ở, nhưng không bao giờ cho tôi tiền. Nhưng tôi thì cần tiền để mua xà phòng, kem đánh răng, quần áo và giầy dép. Buổi tối tôi ra phố chơi kèn trong các quán rượu. Tôi bán củi lượm được trong rừng cùng với nấm và hạt dẻ. Tôi bán cả trứng lấy cắp của Bà, bán cá mà tôi mau chóng học được cách câu. Tôi còn làm các việc linh tinh cho bất kỳ ai. Tôi chuyển thư, gói đồ, mọi người tin tôi vì họ tưởng rằng tôi câm điếc.

Thời gian đầu tôi không nói, ngay cả với bà, nhưng rồi tôi buộc phải đọc lên những con số để mặc cả.

Buổi tối tôi thường la cà ở quảng trường Principale. Tôi ngắm nhìn quầy hàng của hiệu sách, những tờ giấy trắng, những cuốn vở học trò, những cục tẩy, những bút chì. Mọi cái đó đối với tôi quá thân quen.

Để kiếm thêm một chút tiền, khi có dịp, tôi ra ga đợi hành khách để mang va li cho họ. Thế là tôi có thể mua giấy, bút chì, tẩy và một quyển vở to trong đó tôi ghi lại những điều dối trá đầu tiên của tôi.

Vài tháng sau khi Bà chết, có mấy người vào nhà tôi mà không gõ cửa. Họ có ba người trong đó có một người mặc quân phục biên phòng. Hai người kia mặc quần áo thường dân. Một trong hai người không nói gì, chỉ ghi ghi chép chép. Anh này còn trẻ, gần như cũng trẻ như tôi. Người kia tóc đã điểm bạc, chính ông này tra hỏi tôi:

- Cháu ở đây từ bao giờ?

Tôi bảo:

- Cháu không biết. Từ ngày bệnh viện bị đánh bom.

- Bệnh viện nào?

- Cháu không biết. Trung tâm.

Người mặc quân phục xen vào:

- Khi tôi về chỉ huy phân đội này, nó đã ở đây rồi?

- Vậy là từ bao giờ?

- Ba năm rồi. Nhưng nó thì đã ở đây từ trước.

- Làm sao anh biết được?

- Dễ thấy thôi. Nó làm việc chung quanh nhà như một người luôn luôn ở đó vậy.

Người đàn ông tóc bạc quay lại tôi:

- Cháu có họ hàng gì với bà V. tên con gái là Maria Z.?

- Đó là bà cháu.

- Cháu có giấy tờ gì chứng minh quan hệ đó?

- Không ạ, cháu chẳng có giấy tờ gì. Cháu chỉ có những tờ giấy mua ở hiệu sách.

- Thôi thế cũng được. Ghi đi!

Anh thanh niên bắt đầu viết: “Bà Maria V. tên con gái là Maria Z. chết không người thừa kế, vậy tài sản của bà gồm có nhà và đất đai trở thành sở hữu của Nhà nước, thuộc về một xã của thành phố K. tùy ý sử dụng”.

Bọn họ đứng lên, tôi hỏi họ:

- Cháu phải làm gì?

Họ nhìn nhau. Người mặc quân phục nói:

- Cháu phải đi khỏi đây.

- Tại sao vậy?

- Bởi vì ở đây không cái gì là của cháu cả.

- Bao giờ thì cháu phải đi?

- Chú không biết.

Người đàn ông tóc bạc nói:

- Chúng ta sẽ sớm báo cho cháu. Cháu bao nhiêu tuổi?

- Cháu gần mười lăm tuổi. Cháu không thể đi trước khi cà chua chín.

- Cà chua à? Nhất định rồi. Cháu mới có mười lăm tuổi ư? Vậy không có vấn đề gì cả.

Tôi hỏi:

- Cháu phải đi đâu?

Hắn im lặng một lát, nhìn người mặc quân phục, người này nhìn hắn, hắn nhìn xuống:

- Cháu đừng lo. Người ta sẽ quan tâm đến cháu. Cháu cứ yên tâm đi.

Ba người đi ra. Tôi đi theo họ trên cỏ để không gây động.

Người mặc quân phục nói:

- Các anh không để cho nó yên sao? Nó là một thằng bé ngoan và nó vất vả đấy.

Người mặc thường phục nói:

- Vấn đề không phải ở chỗ đó. Còn pháp luật nữa chứ. Đất đai của bà V. thuộc về xã. Gần hai năm nay thằng bé này sống trên đất đó bất hợp pháp.

- Thế thì đã hại ai nào?

- Không hại ai cả. Nhưng này, anh việc gì