PHẦN HAI
Tám giờ, chuông điện thoại reo. Mẹ tôi đã đi nằm. Tôi xem tivi, một phim hình sự như mọi buổi tối.
Tôi nhè miếng bích quy tôi đang ăn vào một tờ giấy.
Tôi nhấc điện thoại lên. Tôi không nói tên mà chỉ nói:
-Alo, tôi nghe đây.
Một giọng đàn ông ở đâu đây nói:
- Lucas T đây. Tôi muốn nói chuyện với anh tôi là Klaus T.
Tôi im lặng. Mồ hôi chảy dọc sống lưng tôi. Cuối cùng tôi nói:
- Đó là một sự nhầm lẫn. Tôi không có em nào cả.
Giong kia nói:
- Có đấy, một người em sinh đôi tên Lucas.
- Em tôi chết từ lâu rồi.
- Không, em không chết. Em vẫn sống, em muốn gặp anh Klaus.
- Ông đang ở đâu? Ông từ đâu đến?
- Em đã sống rất lâu từ nước ngoài. Hiện em đang ở đây, ở thủ đô, tại sứ quán D.
Tôi hít một hơi dài và nói một lèo:
- Tôi không tin rằng ông là em tôi. Tôi không bao giờ tiếp khách, tôi không muốn bị quấy rầy.
Hắn năn nỉ:
- Anh Klaus, năm phút thôi mà. Em chỉ xin anh năm phút thôi. Hai ngày nữa em sẽ đi khỏi đất nước này và em sẽ không trở lại đâu.
- Ngày mai ông hãy đến, và đừng đến trước tám giờ tối.
Hắn ngắt máy điện thoại.
Tôi lau trán. Tôi quay lại cái tivi. Tôi không còn hiểu gì về bộ phim nữa. "Nhà ta", phải trước kia đây là nhà chúng tôi, nhưng đã lâu lắm rồi. Bây giờ, đây là nhà tôi, mọi cái ở đây là của tôi, của một mình tôi.
*
Tôi nhẹ nhàng mở cửa buồng mẹ. Mẹ đang ngủ, mẹ bé tẹo, ai cũng ngờ là một đứa trẻ. Tôi vén những sợi tóc bạc trên mặt mẹ, hôn lên trán mẹ, vuốt ve hai bàn tay nhăn nheo đặt trên chăn. Mẹ mỉm cười trong giấc ngủ, xiết chặt tay tôi và thì thầm:
- Con bé bóng của mẹ, con đây rồi.
Rồi bà nói thêm:
- Lucas, Lucas bé bỏng của mẹ.
Tôi ra khỏi buồng, tôi lấy một chai rượu mạnh trong bếp, tôi vào phòng làm việc để viết như mọi đêm. Phòng này là của cha tôi, tôi không thay đổi gì trong đó, vẫn là cái máy chữ cũ kỹ, vẫn cái ghế bằng gỗ không thuận tiện, cái đèn, cái giá bút. Tôi thử viết, nhưng tôi chỉ có thể khóc mà nghĩ đến "cái điều" nó làm hỏng cuộc sống của chúng ta, cuộc sống của tất cả chúng ta.
Ngày mai Lucas sẽ đến. Tôi biết rằng chính nó. Ngay từ hồi chuông điện thoại đầu tiên tôi đã biết rằng chính là nó. Chuông điện thoại của tôi hầu như không bao giờ reo. Nếu tôi đã cho đặt điện thoại ấy là để phục vụ mẹ, những ngày tôi không có đủ sức đi đến tận siêu thị để đặt hàng hoặc những ngày tình trạng sức khỏe của mẹ không cho phép tôi đi ra ngoài.
Ngày mai Lucas sẽ đến, làm thế nào để mẹ không biết? để mẹ không thức giấc trong lúc Lucas đến thăm? Hay là đưa mẹ đi nơi khác? hay chạy trốn? trốn đâu? Làm thế nào đây? Nói với mẹ thế nào? Chúng tôi chưa bao giờ rời khỏi đây. Mẹ không muốn đi khỏi đây. Mẹ nghĩ rằng đây là nơi duy nhất Lucas có thể tìm được chúng tôi khi nó trở về.
Quả vậy, chính tại nơi đây nó đã tìm thấy chúng tôi, nếu chính là nó. Chính là nó.
Tôi không cần một chứng cứ nào để biết điều đó. Tôi đã biết, tôi luôn luôn biết rằng nó không chết, rằng nó sẽ trở về.
Nhưng tại sao lại vào lúc này? Tại sao lại muộn đến thế? Tại sao lại vắng mặt đến năm chục năm trời?
Tôi phải tự bảo vệ mình. Tôi phải tự bảo vệ mẹ. Tôi không muốn Lucas phá hoại sự yên bình của chúng tôi, những thói quen của chúng tôi, hạnh phúc của chúng tôi. Tôi không muốn có những xáo trộn trong cuộc sống của chúng tôi. Cả mẹ lẫn tôi đều không chịu nổi nếu Lucas lục lại quá khứ, khuấy động những kỷ niệm, đặt ra cho mẹ những câu hỏi.
Bằng mọi giá tôi phải gạt Lucas ra, ngăn cản nó khoét sâu vết thương dễ sợ.
Đang là mùa đông. Tôi phải tiết kiệm than. Tôi sưởi nóng buồng mẹ bằng một lò sưởi điện mà tôi cho chạy một giờ trước khi mẹ đi nằm, mà tôi tắt khi mẹ ngủ và tôi lại bật một giờ trước khi mẹ thức dậy.
Còn về phần tôi, sức nóng của bếp lò và lò sưởi bằng than ở phòng khách cũng đủ cho tôi. Tôi dậy sớm để nhóm lửa trước ở nhà bếp, và khi đã có đủ than hồng, tôi mang một ít cho vào lò sưởi phòng khách. Tôi cho thêm vào lò vài viên than, thế là nửa giờ sau ở đây cũng ấm.
Về khuya khi mẹ đã ngủ, tôi mở cửa phòng làm việc, nhiệt lượng của phòng khách tràn vào ngay lập tức. Phòng làm việc nhỏ nên ấm lên rất nhanh. Ở đây tôi mặc quần áo ngủ, hoặc mặc áo trong nhà để viết. Như thế, sau khi viết xong tôi chỉ việc vào buồng và đi ngủ.
Đêm này tôi đi vòng tròn trong căn hộ. Tôi ghé qua và dừng lại nhiều lần trong bếp. Rồi tôi lại vào buồng của bọn trẻ. Tôi nhìn ra vườn. Cành cây trụi lá của cây hồ đào cọ vào cửa sổ. Một lớp tuyết mong phủ lên cành cây, lên mặt đất thành từng lớp váng băng.
Tôi đi từ phòng này sang phòng khác. Tôi đã mở cửa phòng làm việc, ở đây tôi sẽ đón tiếp em tôi. Tôi sẽ đóng cửa ngay khi em tôi tới đây, nếu có lạnh cũng mặc vì tôi không muốn mẹ nghe thấy chúng tôi hoặc giá những câu chuyện trò của chúng tôi làm mẹ thức giấc. Trong những trường hợp này tôi sẽ nói gì? Tôi sẽ nói:
- Mẹ hãy ngủ lại đi, chỉ là một ông nhà báo thôi,
Và tôi sẽ nói với em tôi:
- Đây là Antonia, mẹ vợ tôi. Bà ấy ở nhà chúng tôi từ mấy năm nay, sau khi góa chồng. Bà ấy không được tỉnh táo. Bà ấy nhầm lẫn mọi thứ, lẫn lộn mọi thứ. Bà ấy đôi khi cho rằng mình là mẹ đẻ của tôi, lấy cớ là bà đã nuôi nấng tôi.
Tôi phải ngăn không cho họ gặp nhau, nếu không họ sẽ nhận ra nhau. Mẹ sẽ nhận ra Lucas. Và nếu Lucas không nhận ra mẹ, thì mẹ khi nhận ra nó sẽ nói với nó:
- Lucas, con trai của mẹ.
Tôi không muốn nghe câu "Lucas, con trai của mẹ". Không phải lúc này.
Hôm nay, trong lúc mẹ ngủ trưa tôi đã vặn tất cả các loại đồng hồ trong nhà đi trước một giờ. May sao vào hồi đó trời tối rất sớm.
Tôi chuẩn bị cơm cho mẹ sớm một tiếng đồng hồ, cà rốt nghiền với khoai tây, thịt băm nướng chả và món kem caramen tráng miệng.
Tôi dọn bàn ăn trong bếp, tôi đi tìm mẹ trong buồng. Mẹ vào bếp và nói:
- Mẹ vẫn chưa đói.
- Mẹ thì chẳng bao giờ đói. Nhưng mẹ phải ăn đi mới được.
- Mẹ sẽ ăn sau.
- Thức ăn sẽ nguội mất.
- Con chỉ việc hâm nóng lại. Hoặc là mẹ sẽ chẳng ăn gì hết.
- Con pha cho mẹ thuốc để mẹ ăn ngon miệng nhé.
Trong nước thuốc, tôi cho vào một loại thuốc ngủ mà mẹ vẫn quen dùng.
Mười phút sau mẹ ngủ thiếp đi trước tivi. Tôi bế mẹ lên, đưa mẹ về buồng và đặt mẹ nằm.
Tôi trở lại phòng khách. Tôi vặn tiếng của tivi bé lại. Tôi vặn lại kim đồng hồ trong nhà bếp và trong phòng khách theo đúng giờ.
Tôi vẫn còn thời gian để ăn trước khi em tôi đến.
Tôi ăn trong nhà bếp một chút cả rốt nghiền, một chút thịt băm nướng. Mẹ nhai không được tốt mặc dù tôi đã làm cho mẹ hàm răng giả cách đây chưa lâu. Tiêu hóa của mẹ cũng không tốt nốt.
Khi tôi ăn xong, tôi rửa bát, tôi cất thức ăn thừa vào tủ lạnh, vừa đủ cho bữa trưa.
Tôi vào phòng khách. Tôi chuẩn bị hai cái cốc và một chai rượu đặt lên cái bàn nhỏ cạnh ghế bành của tôi. Tôi uống rượu và đợi. Đúng tám giờ, tôi đi xem mẹ ra sao. Me ngủ rất say. Bộ phim hình sự bắt đầu. Tôi cố xem thử. Khoảng tám giờ hai mươi, tôi bỏ phim, tôi đến đứng trước cửa sổ nhà bếp. Ở đây, ánh đèn đã tắt, không ai có thể trông thấy tôi từ bên ngoài.
Đúng tám giờ rưỡi, một chiếc ô tô tô màu đen đứng trước nhà, rồi đậu trên vỉa hè. Một người đàn ông bước ra, tới gần sát cửa sắt và kéo chuông.
Tôi trở vào phòng khách nói vào ống nói:
- Mời vào, cửa mở đấy.
Tôi bật đèn hiên nhà, tôi ngồi vào ghế bành, em tôi đi vào. Nó gầy và xanh, nó khập khiễng đi lại phía tôi, tay cầm một chiếc cặp. Những giọt lệ dâng lên mắt tôi, tôi đứng dậy, tôi chìa tay ra:
- Mừng ông đã đến.
- Em sẽ không làm phiền anh lâu đâu. Ôtô đang đợi em.
- Hãy vào phòng làm việc của tôi đi. Ở đấy chúng ta sẽ thoải mái hơn.
Tôi vẫn để tiếng tivi. Nếu mẹ thức dậy, mẹ sẽ nghe thấy tiếng phim hình sự như mọi tối.
Em tôi hỏi:
- Anh không tắt tivi à?
- Không, tại sao lại tắt? Trong phòng làm việc chúng ta sẽ không nghe thấy gì đâu.
Tôi lấy chai rượu và hai cái cốc, tôi ngồi sau bàn, và chỉ cái ghế trước mặt tôi.
- Ông ngồi xuống đi, làm một cốc nhé.
- Vâng.
Chúng tôi uống rượu, em tôi nói:
- Đây là phòng làm việc của cha chúng ta. Chẳng có gì thay đổi cả. Em nhận ra cái đèn, máy chữ, bàn ghế.
Tôi mỉm cười:
- Ông còn nhận ra gì nữa không?
- Em còn nhận ra cái hiên nhà và phòng khách. Em biết nhà bếp, buồng trẻ con và buồng bố mẹ ở chỗ nào.
Tôi bảo:
- Cái đó thì có khó gì. Tất cả nhà ở đây đều xây theo cùng một kiểu.
- Trước cửa buồng trẻ con, có một cây hồ đào. Cảnh của nó chạm vào cửa kính, và có một cái đu treo vào đó, nó có hai chiếc ghế. Ở cuối sân, chúng ta xếp xe đẩy và xe đạp ba bánh dưới mái che.
Tôi nói:
- Còn có đồ chơi dưới mái che, nhưng không phải những thứ đó. Chúng là của lũ cháu tôi.
Chúng tôi im lặng. Tôi lại rót đầy các cốc. Khi đặt xuống, Lucas hỏi:
- Anh Klaus, anh nói cho em biết, cha mẹ chúng ta đâu.
- Cha mẹ tôi chết rồi. Còn cha mẹ ông thì tôi không biết.
- Klaus, tại sao anh lại không gọi em là em. Em là em Lucas của anh cơ mà. Tại sao anh không muốn tin em.
- Bởi vì em tôi đã chết rồi. Tôi muốn xem giấy tờ của ông, nếu ông không lấy làm phiền.
Em tôi lấy từ túi ra một hộ chiếu nước ngoài và đưa cho tôi. Nó bảo:
- Anh đừng quá tin vào nó, trong đó có vài sự nhầm lẫn.
Tôi xem xét hộ chiếu.
- Vậy tên ông là Claus với một chữ C. Ngày sinh của ông cũng không trùng với ngày sinh của tôi, mặc dù tôi và Lucas là anh em sinh đôi. Ông hơn tôi ba tuổi.
Tôi trả lại hộ chiếu cho hắn. Tay em tôi run lên, ca giọng nói cũng run:
- Khi em vượt biên, em mười lăm tuổi. Em đã khai tăng tuổi để có vẻ già hơn, nghĩa là trưởng thành. Em không muốn bị đặt dưới sự giám hộ.
-Thế còn tên? Tại sao lại thay đổi tên?
- Vì anh đó, Klaus. Khi em điền vào tờ khai tại văn phòng của lính biên phòng, em đã nghĩ đến anh, đến tên anh, cái tên đã đi cùng em suốt thời thơ ấu. Thế là đáng lẽ ghi Lucas, em đã viết Claus. Anh cũng làm vậy khi cho đăng thơ của anh với cái tên Klaus Lucas. Tại sao lại Lucas? Để nhớ đến em chăng?
Tôi nói:
- Để nhớ đến em tôi, đúng vậy. Nhưng làm sao ông biết tôi cho đăng thơ?
- Em cũng viết nhưng không phải làm thơ.
Hắn mở cặp, lấy ra một cuốn vở học sinh dày và đặt lên bàn.
- Đây là tập bản thảo cuối cùng của em. Nó chưa hoàn thành. Em không có thời gian viết cho xong, em để lại nó cho anh. Anh sẽ hoàn thành nó, anh phải làm cho xong đi.
Tôi mở quyển vở, nhưng hắn giữ tay tôi lại:
- Không, không phải bây giờ, sau khi em đi đã. Có một điều quan trọng em muốn biết. Vết thương của em từ đâu mà có?
- Vết thương nào?
- Một vết thương gần cột sống, do đạn bắn. Do đâu mà có?
- Làm sao tôi biết? Lucas em tôi, không có vết thương nào cả. Hồi nhỏ nó bị bịnh, hình như là bịnh bại liệt trẻ em. Khi nó chết tôi mới lên bốn hoặc lên năm, tôi không thể nhớ chính xác được. Điều mà tôi biết là do sau đó người ta nói với tôi.
- Phải, đúng vậy. Từ lâu em cũng nghĩ là em bị một bịnh của trẻ con. Người ta cũng bảo em thế. Nhưng sau này em biết rằng em bị đạn bắn. Ở đây? Như thế nào? Lúc đó chiến tranh vừa xảy ra.
Tôi im lặng, tôi nhún vai, Lucas lại nói:
- Nếu em anh đã chết, thì phải có mộ. Vậy mộ đâu? Anh có thể chỉ chỗ cho em được không?
- Không, tôi không chỉ được vì nó được chôn trong một cái hố chung tại thành phố S.
-Vậy ư? Thế còn mộ của cha, mộ của mẹ ở đâu? Anh có thể chỉ chỗ được không?
- Tôi cũng chịu không thể chỉ được. Sau chiến tranh cha tôi không về, còn mẹ tôi được chôn cùng với Lucas tại thành phố S.
Hẳn hỏi:
- Vậy em không chết vì bịnh bại liệt.
- Em tôi thì không. Nó chết trong một vụ ném bom. Mẹ tôi vừa đưa nó đến thành phố S để người ta quản lý nó trong một trung tâm cải tạo. Trung tâm bị ném bom cả mẹ tôi và em tôi đều không trở về.
Lucas nói:
- Nếu có người bảo anh thế, thì người đó đã nói dối. Mẹ không đưa em đến thành phố S và mẹ cũng chẳng bao giờ đến đó thăm em. Em đã sống nhiều năm ở trung tâm với căn bịnh giả vờ trước khi Trung Tâm bị đánh bom. Sau vụ ném bom đó, em đã sống sót.
Tôi lại nhún vai:
- Ông thì sống, con mẹ tôi và em tôi thì không.
Chúng tôi nhìn vào mặt nhau, tôi không nao núng trước cái nhìn của hắn:
- Ông thấy đấy, đó là hai số phận khác nhau. Ông phải tiếp tục tìm kiếm một hướng khác thôi.
Hắn lắc đầu:
- Không, anh biết rõ mà. Anh biết rằng em là em trai Lucas của anh, nhưng anh chối bỏ nó. Anh sợ gì vậy? Klaus, anh hãy nói đi, anh sợ gì vậy?
Tôi đáp:
- Chẳng sợ gì, Tôi có thể sợ gì nhỉ? Nếu tôi biết rõ ông là em tôi, tôi sẽ là người sung sướng nhất vì đã tìm được em tôi.
Hắn hỏi:
- Nếu em không phải là em trai anh thì em đến tìm anh để làm gì?
- Tôi biết đâu đấy. Lại còn dáng vẻ của ông nữa.
- Dáng vẻ của em ư?
- Phải. Hãy nhìn tôi và nhìn ông xem. Có một cái gì giống nhau tối thiểu bề ngoài giữa chúng ta không? Lucas và tôi là hai anh em sinh đôi, chúng tôi giống nhau như hai giọt nước. Còn ông, ông thấp hơn tôi một cái đầu và kém tôi ba chục cân.
Lucas nói:
- Anh quên rằng em bịnh tật và tật nguyền. Thật là điều kỳ diệu khi em đi lại được.
- Thôi gác chuyện ấy lại, Ông hãy cho tôi biết điều gì đã xảy ra cho ông sau vụ ném bom.
- Vì cha mẹ không đòi em, em bị đưa đến nhà một bà nông dân già tại thành phố K. Em đã sống và làm việc ở đấy cho đến khi em ra nước ngoài.
- Ông đã làm gì ở nước ngoài?
- Làm mọi việc, và cả viết sách nữa. Còn anh Klaus, anh đã sống ra sao sau khi cha mẹ chết? Theo lời anh kể thì anh mồ coi từ khi còn rất trẻ.
- Phải, nhưng tôi đã gặp may. Tôi chỉ phải ở vài tháng trong cô nhi viện. Một gia đình bạn bè đã cưu mang tôi. Tôi đã rất hạnh phúc trong gia đình đó. Đó là một gia đình đông người có bốn con mà sau này tôi đã lấy cô gái lớn Sarah làm vợ. Chúng tôi có hai con, một trai, một gái. Giờ đây tôi đã là ông, một người ông hạnh phúc.
Lucas nói:
- Lạ thật, khi vào đây, em có cảm tưởng là anh sống cô độc.
- Đúng vậy, tôi chỉ cô độc lúc này thôi, cho đến Noel. Tôi có một việc khẩn phải hoàn thành, một tuyển tập thơ phải chuẩn bị. Sau đó tôi đi gặp Sarah, vợ tôi và các cháu tại thành phố K. Chúng tôi cùng nhau qua mùa đông ở đấy. Chúng tôi có một ngôi nhà thừa kế của bố mẹ vợ tại thành phố này.
Lucas nói:
- Em đã sống tại thành phố K. Em biết rõ, vậy nhà anh ở chỗ nào?
- Ở quảng trường Prindipale, trước mặt Đại Khách Sạn, bên cạnh cửa hàng sách.
- Em vừa sống mấy tháng tại thành phố K. Em ở ngay bên trên hiệu sách.
Tôi bảo:
- Một sự trùng hợp.
Đó là một thành phố rất đẹp, phải không? Thời thơ ấu tôi thường hay nghỉ hè tai đấy, bây giờ các cháu tôi rất thích nơi này, nhất là hai đứa con sinh đôi của con gái tôi.
- Sinh đôi ư? Chúng tên gì?
- Tất nhiên là Klaus và Lucas.
- Tất nhiên.
- Con trai tôi có một cháu gái tên Sarah như bà nó. Con trai tôi còn trẻ, nó còn có thể có nhiều con.
Lucas noi:
- Klaus, anh là một người hạnh phúc.
Tôi đáp:
- Vêng, rất hạnh phúc. Còn ông, tôi nghĩ ông cũng có gia đình.
- Không, em luôn luôn sống một mình.
- Tại sao vậy?
Lucas nói:
- Em không biết. Có lẽ bởi vì không có ai dạy em yêu.
- Thật đáng tiếc. Con cái mang lại cho ta rất nhiều niềm vui. Tôi không thể tưởng tượng cuộc sống mà lại thiếu chúng.
Em tôi đứng lên:
- Người ta đợi em ngoài xe. Em không muốn làm phiền anh lâu hơn nữa.
Tôi mỉm cười:
- Ông không làm phiền tôi đâu. Vậy là ông lại trở về với đất nước mẹ nuôi của ông?
- Tất nhiên, em chẳng còn gì để làm ở đây. Vĩnh biệt Klaus.
Tôi đứng dậy:
- Tôi xin tiễn ông.
Đến cổng vườn, tôi chìa tay ra:
- Tạm biệt ông. Tôi hy vọng rằng cuối cùng ông sẽ tìm được gia đình đích thực của ông. Tôi chúc ông gặp nhiều may mắn.
Hắn nói:
- Klaus, anh đã giữ vai trò của anh đến cùng. Nếu em biết anh có một trái tim sắt đá như thế này, em đã không tìm gặp anh. Em thành thật hối tiếc đã đến đây.
Em tôi lên chiếc xe to màu đen, nó nổ máy và đưa em tôi đi.
Khi leo lên cầu thang hiên nhà, tôi trượt trên các bậc đóng váng băng, tôi ngã, trán đập vào góc đá, máu chảy cả vào mặt trộn lẫn với những giọt lệ chan hòa. Tôi thèm nằm đó cho tới khi người đóng băng và tôi chết đi, nhưng tôi không thể vì sáng mai tôi còn phải chăm sóc mẹ.
Tôi vào nhà, tôi đi đến phòng tắm, tôi rửa vết thương, đặt băng dính rồi trở lại phòng làm việc để đọc bản thảo của em tôi.
Sáng hôm sau, mẹ hỏi:
- Klaus, còn bị thương ở đâu thế?
- Trên cầu thang, Con xuống để kiểm tra xem cửa đã đóng chưa và con trượt chân trên băng.
- Chắc chắn là con đã uống rượu quá nhiều. Con là đồ nát rượu, đồ vô tích sự, đồ vụng về. Con chưa pha trả cho mẹ phải không? Thật không thể tưởng tượng nổi! Trời lại rét nữa chứ. Con không thể dậy sớm hơn nữa giờ để sưởi cho nhà ấm lên và pha trà sẵn lúc mẹ thức dậy ạ? Con chỉ là đồ lười.
Tôi nói:
- Trà đây rồi. Vài phút nữa sẽ ấm lên, rồi mẹ xem. Sự thật là con đã không ngủ chút nào, con đã viết suốt đêm.
- Lại còn thế nữa? Ông ấy thích viết suốt đêm hơn là chăm lo việc sưởi và pha trà. Con chỉ việc viết ban ngày, làm như mọi người chứ không phải làm đêm.
- Thưa mẹ, vâng. Làm việc ban ngày thì tốt hơn, nhưng ờ xưởng in con đã quen làm việc đêm. Con không thể làm khác được. Dù sao thì ban ngày có quá nhiều cái làm phiền con. Nào là đi mua bán, nào nấu cơm và nhất là tiếng ồn ngoài phố.
Mẹ bảo:
- Và có tao, phải không? Nói đi, mày hãy nói rõ là tao làm phiền mày ban ngày, phải không? Mày chỉ có thể viết khi mẹ mày ngủ, phải không? Tối đến mày chỉ muốn cho tao đi nằm. Tao hiểu rồi. Tao hiểu từ lâu rồi.
- Quả vậy, thưa mẹ, khi con viết còn phải tuyệt đối một mình. Con cần phải được yên tĩnh.
- Tao có phải là người ồn ào, suồng sã gì đâu. Mày chỉ việc bảo tao, tao sẽ không ra khỏi buồng nữa. Một khi bước chân vào mồ tao sẽ không quấy rầy mày nữa, mày sẽ không phải đi mua bán nữa, không phải nấu cơm, mày chỉ có mỗi một việc là viết mà thôi. Lúc đó tao sẽ tìm con trai Lucas của tao, nó không bao giờ xử tệ với tao, không bao giờ mong tao chết, mong tao vắng mặt. Lúc đó tao sẽ sung sướng, không có ai trách móc tao bất cứ điều gì.
- Mẹ ạ, con không trách mẹ điều gì, mẹ cũng chẳng làm phiền con. Con sẵn sàng đi mua bán và nấu cơm, nhưng con cần viết ban đêm. Từ ngày còn rời xưởng in, nguồn thu nhập duy nhất của chúng ta là những bài thơ của con.
- Đúng vậy. Lẽ ra mày không nên bỏ xưởng in. In ấn, đó là công việc bình thường, hợp lý.
-Mẹ biết rõ là bịnh của con buộc con phải tự bỏ công việc. Con không thể tiếp tục công việc đó mà lại giữ được sức khỏe.
Mẹ không nói nữa, mẹ ngồi trước tivi, nhưng đến bữa cơm tối mẹ lại bắt đầu.
- Ngôi nhà đang xuống cấp. Ống máng bị long ra, nước chảy lúng túng trong vườn, chẳng mấy chốc sẽ mưa cả trong nhà. Cỏ dại xâm chiếm vườn, các buồng bị khói thuốc lá ám đen kịt. Nhà bếp thì vàng khè cũng vì cái khói đó, cả màn gió cửa sổ phòng khách cũng vậy. Còn nói gì đến phòng làm việc hoặc buồng trẻ con mà khói đã tràn ngập. Không thể nào thở được trong cái nhà này, và cả trong vườn nữa, hoa cũng chết vì cái mùi hôi thối bay từ trong nhà ra.
- Thưa mẹ, phải. Không có hoa ngoài vườn bởi vì đang là mùa đông. Con sẽ cho sơn lại các buồng và nhà bếp. May mà mẹ gợi ý cho con. Để đón xuân, con cho sơn lại và sửa lại ống máng.
Sau khi uống thuốc ngủ, mẹ bình tĩnh lại và đi nằm.
Tôi ngồi trước máy thu hình, tôi xem phim hình sự như mọi tối, tôi uống rượu. Sau đó tôi vào phòng làm việc, tôi đọc lại những trang cuối cùng của tập bản thảo của em tôi, rồi tôi lại viết.
*
Khi ngồi vào ăn cơm, chúng tôi luôn luôn có bốn người: cha, mẹ và hai chúng tôi.
Mẹ hát suốt ngày, trong bếp, ngoài vườn, ngoài sân. Buổi tối mẹ hát trong buồng để ru chúng tôi ngủ.
Cha không hát. Đôi khi cha huýt sáo trong lúc bổ củi để đốt lò, và nghe thấy tiếng cha gõ trên chiếc máy chữ vào buổi tối và có khi đêm khuya. Đó là một thứ tiếng dễ chịu và làm ta yên lòng như tiếng bát đĩa lanh canh, tiếng chim sáo ngoài vườn, tiếng gió rì rào trong lá cây nho dại ở hàng hiên, trong cành cây hổ đào ngoài sân.
Mặt trời, gió, đêm, trăng sao, mây, mưa, tuyết, tất cả đều tuyệt diệu. Chúng tôi không sợ một cái gì, cả những cái bóng và những chuyện mà người lớn kể cho nhau nghe, những chuyện chiến tranh. Hồi đó, chúng tôi lên bốn.
Một buổi tối kia, cha đến trong bộ quân phục. Cha treo áo khoác và thắt lưng vào mắc áo gần cửa phòng khách. Ở thắt lưng có treo một khẩu súng lục.
Trong bữa cơm cha nói:
- Bố phải đi sang một thành phố khác. Chiến tranh đã đuoc tuyên bố, bố bị động viên.
Chúng tôi nói:
- Chúng con không biết bố là bộ đội. Bố là nhà báo và bố không phải là lính.
- Thời buổi chiến tranh, đàn ông ai cũng là lính cả, nhà báo cũng vậy, nhất là nhà báo. Bố phải quan sát và miêu tả mọi cái xảy ra ở mặt trận. Như thế gọi là phóng viên chiến tranh.
Chúng tôi hỏi:
- Tại sao bố lại có súng?
- Vì bố là sĩ quan. Chiến sĩ thì có súng dài, còn sĩ quan thì có súng ngắn.
Cha nói với mẹ:
- Em cho các con ngủ đi. Anh có chuyện muốn nói với em.
Mẹ bảo chúng tôi:
- Các con hãy lên giường ngủ đi. Mẹ sẽ đến kể cho các con một chuyện. Các con hãy chào bố đi.
Chúng tôi ôm hôn cha, rồi chúng tôi vào buồng, nhưng chúng tôi lại ra ngay trong yên lặng. Chúng tôi ngồi trong hành lang ngay sau cửa phòng khách.
Cha nói:
- Anh đến sống với cô ấy. Thời buổi chiến tranh, anh không có thời gian. Anh yêu cô ấy.
- Anh không nghĩ đến các con sao?
- Cô ấy cũng đang đợi một đứa con. Vì vậy anh không thể yên lặng.
- Anh muốn li dị sao?
- Bây giờ không phải lúc. Sau chiến tranh, chúng ta sẽ tính. Trong khi chờ đợi, anh đã công nhận đứa bé sắp ra đời. Có thể anh sẽ không trở về. Ai mà biết được.
Mẹ hỏi:
- Anh không còn yêu mẹ con em?
Cha đáp:
- Vấn đề không phải ở chỗ đó. Anh yêu mẹ con em. Anh sẽ vẫn quan tâm đến các con và em. Nhưng anh cũng yêu một người đàn bà khác. Em có thể hiểu điều ấy không?
- Không, em không thể hiểu và em không muốn hiểu.
Chúng tôi nghe một tiếng súng. Chúng tôi mở cửa phòng khách. Mẹ là người đã bắn. Mẹ cầm khẩu súng của cha trên tay, mẹ bắn nữa. Cha nằm dưới đất, mẹ vẫn bắn. Cạnh tôi, Lucas ngã. Mẹ vứt khẩu súng, gào lên, quỳ xuống cạnh Lucas.
Tôi ra khỏi nhà, tôi chạy ra phố và kêu lên: "Cứu tôi với", có người túm lấy tôi, đưa tôi vào nhà, cố làm cho tôi bình tĩnh lại. Họ cũng cố làm cho mẹ bình tĩnh, nhưng mẹ tiếp tục gào: "Không, không, không."
Phòng khách đẩy người. Hai cảnh sát đến cùng với hai xe cứu thương. Người ta mang chúng tôi đến bịnh viện.
Tai bịnh viện, người ta tiêm cho tôi một mũi thuốc ngủ vì tôi vẫn còn kêu.
Hôm sau, thầy thuốc nói:
- Nó không sao, nó không bị đạn. Nó có thể về nhà.
Có y tá nói:
- Về đâu? Ở nhà, nó không còn ai cả. Nó thì mới bốn tuổi.
Thầy thuốc nói:
- Cô hãy hỏi nhân viên cứu tế xã hội xem sao.
Cô ý ta dẫn tôi vào phòng làm việc. Nhân viên cứu tế xã hội là một bà già búi tó. Bà ta hỏi tôi:
- Cháu có bà không? Có cô không? Có một bà hàng xóm nào yêu cháu không?
Tôi hỏi:
- Lucas đâu?
- Nó ở đây, trong bịnh viện, Nó bị thương.
- Cháu muốn gặp nó.
- Nó trong trạng thái vô thức.
- Thế nghĩa là gì?
- Nghĩa là lúc này nó không nói được.
- Nó chết hay sao?
- Không, nhưng nó phải nằm nghỉ.
- Thế còn mẹ cháu?
- Mẹ cháu khỏe, nhưng cháu không thể gặp mẹ.
- Tại sao vậy? Mẹ cũng bị thương sao?
- Không, bà ấy đang ngủ.
- Thế cha cháu? cũng ngủ sao?
- Phải, cha cháu cũng ngủ.
Bà ta vuốt tóc tôi. Tôi hỏi:
- Tại sao ai cũng ngủ cả? chỉ có cháu là không?
- Thế đấy, đôi khi sự việc xảy ra như thế. Cả một gia đình lăn ra ngủ, còn kẻ nào không ngủ thì trở lại một mình.
- Cháu không muốn còn một mình đâu. Cháu cũng muốn ngủ như Lucas, như mẹ, như cha cơ.
- Phải có một người thức để đợi họ và chăm sóc họ khi họ tỉnh lại.
- Bởi vì họ sẽ tỉnh lại sao?
- Phải, một vài người trong số họ, ít ra cũng phải hy vọng như thế.
Chúng tôi yên lặng một lát. Bà ta hỏi:
- Trong khi chờ đợi, cháu có quen ai có thể chăm sóc cháu được không?
- Chờ cái gì à?
- Chờ ai đó trong nhà cháu trở lại.
Tôi bảo:
- Không, không có ai đâu. Cháu không thích người ta chăm sóc cháu. Cháu muốn về nhà.
- Cháu không thể sống một mình ở nhà vào tuổi cháu. Nếu không có ai thì ta buộc phải giao cháu cho cô nhi viện.
- Thế cũng được, nếu cháu không được ở nhà thì đi đâu cũng không quan trọng.
Một người đàn bà vào phòng làm việc nói:
- Tôi đến đón thằng bé. Tôi muốn đưa nó về nhà. Nó không còn ai thân thiết, tôi biết gia đình nó.
Nhân viên cứu tế xã hội bảo tôi ra ngoài hành lang chơi, ở đấy có nhiều người ngồi trên ghế dài đang nói chuyện. Hầu hết họ đều mặc quần áo trong nhà. Họ nói:
- Thật kinh khủng.
- Thật đáng tiếc, một gia đình đang yên ấm.
- Bà ấy nói đúng.
Người đàn bà lúc nãy nói: "Tôi muốn đón cậu bé về nhà" ra khỏi phòng làm việc. Bà bảo tôi:
- Cháu hãy đi với cô. Cô tên Antonia. Còn cháu? Cháu là Lucas hay Klaus?
Tôi đưa tay cho cô Antonia:
- Cháu là Klaus.
Chúng tôi đi xe buýt, sau đó đi bộ. Chúng tôi vào một căn buồng nhỏ, có một giường to và một giường cho trẻ con.
Antonia bảo tôi:
- Cháu còn bé nên nằm giường này cũng vừa, phải không?
- Vâng ạ.
Tôi ngủ trong cái giường trẻ con. Chỉ vừa đủ chỗ cho tôi, chân tôi chạm vào thành giường.
Cô Antonia lại nói:
- Cái giường bé là dành cho con cô sắp ra đời. Nó sẽ là em trai hoặc em gái cháu đấy.
- Cháu có em trai rồi. Cháu không muốn có thêm nữa đâu, cả em gái cũng vậy.
Antonia nằm trên cái giường to:
- Lại đây cháu.
Tôi ra khỏi giường vả lại gần cô ta. Cô cầm lấy tay tôi và đặt lên bụng cô:
- Cháu thấy không? Nó động đậy đó. Rồi nó sẽ ở cùng chúng ta.
Cô kéo tôi lại gần và phỉnh tôi:
- Mong sao nó cũng xinh xắn như cháu.
Sau đó cô lại đặt tôi vào cái giường nhỏ.
Mỗi lần cô Antonia ru tôi, tôi cảm thấy đứa bé cựa quậy rồi tôi tưởng rằng đó là Lucas. Tôi đã nhầm. Sau này cô Antonia sinh con gái.
Tôi ngồi trong bếp. Hai bà già bảo tôi ở lại trong bếp. Tôi nghe thấy Antonia hét lên. Tôi không động đậy. Hai bà già thỉnh thoảng lại vào trong bếp để đun nước và nói với tôi:
- Cháu ở yên đây nhé.
Một lúc sau, một bà già bảo tôi:
- Cháu có thể vào được rồi.
Tôi vào buồng. Antonia giơ tay ra ôm tôi và cười:
- Con gái, cháu xem này, một đứa con gái rất xinh, em cháu đấy.
Tôi nhìn vào cái nôi. Một vật màu tím gào lên. Tôi cầm lấy tay nó, tôi đếm, tôi vuốt từng ngón tay của nó cả thẩy mười ngón. Tôi nhét ngón tay cái bên trái vào miệng nó, nó không khóc nữa.
Antonia mỉm cười với tôi:
- Chúng ta đặt tên cho nó là Sarah. Cháu có thích cái tên đó không?
- Cô à, tên nào cũng được, không quan trọng đâu ạ. Nó là em gái cháu phải không cô?
- Phải, nó là em gái cháu.
- Cả em gái của Lucas nữa chứ ạ.
- Phải, của cả Lucas nữa.
Antonia khóc, tôi hỏi:
- Cái giường nhỏ bị chiếm rồi, bây giờ cháu ngủ đâu?
- Cháu ngủ trong bếp. Cô đã yêu cầu mẹ cô chuẩn bị một cái giường cho cháu trong bếp.
- Cháu không được ngủ trong buồng cô nữa sao?
- Cháu ngủ trong bếp thì hơn. Em bé sẽ khóc suốt đêm và đánh thức mọi người.
- Nếu nó khóc và quấy cô, cô chỉ việc cho ngón tay cái của nó vào mồm, ngón cái bên trái ấy.
Tôi quay vào bếp, chỉ còn một mình bà mẹ của cô Antonia. Bà cho tôi ăn bánh phết mật ong, cho tôi uống sữa, rồi bảo tôi:
- Cháu ngủ đi, cháu chọn giường nào tùy thích.
Hai cái đệm được đặt dưới đất cùng gối và chăn. Tôi chọn cái đệm đặt dưới cửa sổ, như thế tôi có thể nhìn trời và sao.
Mẹ cô Antonia nằm trên đệm kia, trước khi ngủ bà cầu nguyện:
- Lạy Chúa toàn năng, hãy cứu giúp cô. Đứa bé không có cả cha. Con gái tôi với một đứa con không có bố! Nếu chồng tôi mà biết! Tôi đã nói dối ông ấy. Tôi đã giấu ông ấy sự thật. Còn đứa bé kia cũng không phải con nó. Ôi khốn khổ! Tôi phải làm gì đây để cứu đứa con tội lỗi này?
Bà lẩm bẩm, còn tôi thì ngủ thiếp đi, sung sướng được gần cô Antonia và Sarah.
Mẹ cô Antonia dậy rất sớm. Bà sai tôi đi mua đồ tại một cửa hàng trong khu phố. Tôi chỉ việc đưa danh sách và tiền.
Mẹ cô Antonia nấu cơm. Bà tắm cho em bé và mỗi ngày thay tã cho nó nhiều lần. Bà giặt quần áo và phơi trên dây trong nhà bếp. Bà vừa làm vừa lẩm bẩm, có lẽ bà cầu kinh.
Bà không ở lâu. Sau khi Sarah ra đời được mười ngày, bà ra đi cùng với chiếc va li và những lời cầu nguyện của bà.
Tôi ở một mình trong bếp rất thoải mái. Buổi sáng tôi dậy sớm đi mua sữa và bánh mì. Khi cô Antonia thức giấc, tôi mang bình sữa và cà phê vào buồng cho Sarah và cô Antonia. Đôi khi tôi cho bé uống sữa, rồi tôi giúp tắm cho Sarah, rồi tôi cố làm cho nó cười bằng những đồ chơi mà cô Antonia và tôi cùng đi mua về.
Sarah mỗi ngày một thêm xinh. Tóc và răng mọc ra, nó bắt đầu biết cười, rồi nó học mút ngón tay cái bên trái rất tốt.
Chẳng may cô Antonia lại phải đi làm vì cha mẹ cô không gửi tiền cho nữa.
Cứ đến tối cô Antonia lại đi. Cô làm trong một tiệm nhảy, cô khiêu vũ và hát. Ban đêm cô về khuya, sáng ra cô mỏi mệt, cô không thể chăm sóc Sarah. Một bà hàng xóm đến vào buổi sáng, tắm cho Sarah, rồi đặt nó vào cũi cùng với đồ chơi ở trong bếp. Tôi chơi với nó trong lúc bà hàng xóm nấu cơm trưa và giặt giũ. Sau khi rửa bát xong, bà hàng xóm về, và tôi làm nốt mọi việc nếu cô Antonia còn ngủ.
Buổi chiều, tôi đi dạo cùng Sarah trong xe đẩy. Chúng tôi dừng lại trong các công viên có sân chơi, tôi để cho Sarah chạy trên cỏ, chơi trong cát, tôi đu đưa nó trên ghế đu.
Khi tôi lên sáu, tôi buộc phải đi học. Lần đầu tiên, cô Antonia đưa tôi đi. Cô nói với thầy giáo rồi để tôi lại một mình. Tan lớp học, tôi chạy về nhà để xem mọi việc có tốt không và để đi chơi với Sarah.
Mỗi ngày chúng tôi lại đi xa hơn, thế là hoàn toàn tình cờ mà tôi tìm lại được cái phố ngày trước tôi đã từng sống với cha mẹ tôi.
Tôi không nói chuyện đó với cô Antonia, và cũng chẳng nói với ai. Nhưng hàng ngày tôi bố trí để đi qua ngôi nhà có cửa sổ màu ve, tôi đứng đó một lúc và khóc. Sarah cũng khóc với tôi.
Ngôi nhà bị bỏ hoang. Cửa sổ đóng, ống khói không nhả khói. Cỏ dại mọc đầy vườn trước; quả hồ đào rơi đầy sân sau chẳng có ai nhặt.
Một buổi tối, khi Sarah ngủ, tôi ra khỏi nhà. Tôi chạy ngoài phố, không một tiếng động, trong đêm đen. Do chiến tranh ánh sáng trong thành phố đều tắt, cửa sổ các nhà đều được bịt cẩn thận. Ánh sao cũng đủ cho tôi rồi vì tất cả các phố phường, các ngóc ngách đều đã in vào đầu tôi.
Tôi leo qua hàng rào, tôi vòng quanh nhà, tôi đến ngồi xuống gốc cây hồ đào. Tay tôi chạm vào những quả hồ đào cứng và khô trong cỏ. Tôi nhét chúng đầy túi. Hôm sau tôi mang một cái bao rồi tôi thỏa thích nhặt hồ đào. Nhìn thấy cái bao trong bếp, cô Antonia hỏi tôi:
- Những quả hồ đào này ở đâu ra vậy?
- Trong vườn của chúng ta ạ.
- Vườn nào? Chúng ta làm gì có vườn.
- Vườn ngôi nhà ngày xưa cháu ở.
Cô Antonia bế tôi lên đùi:
- Làm thế nào cháu lại tìm được nó? Làm sao cháu lại nhớ được? Hồi đó cháu mới có bốn tuổi.
- Bây giờ cháu đã tám tuổi. Cô Antonia hãy nói cho cháu biết điều gì đã xảy ra. Hãy cho cháu biết cha, mẹ và Lucas bây giờ ở đâu, họ ra sao rồi?
Cô Antonia khóc, rồi cô xiết chặt lấy tôi:
- Cô chỉ mong cháu quên đi tất cả. Cô không bao giờ nói với cháu để cho cháu quên đi.
- Cháu không quên gì hết. Mỗi tối, khi cháu nhìn lên trời cháu lại nghĩ đến họ. Họ ở tất cả trên đó, có phải không cô? Họ đã chết hết rồi.
- Không, không phải tất cả đã chết. Chỉ có cha cháu thôi. Phải, cha cháu đã chết.
- Thế còn mẹ cháu? Mẹ cháu đâu?
- Trong bệnh viện.
- Còn em Lucas cháu?
- Nó ở trong một nhà cải huấn, tại thành phố S gần biên giới.
- Điều gì đã xảy ra cho nó?
- Một viên đạn đã trúng vào nó.
- Đạn nào vậy?
Cô Antonia đẩy tôi ra và đứng lên:
- Klaus, cô xin cháu, hãy để cho cô yên.
Cô đi về buồng, lên giường nằm và khóc. Sarah cũng khóc. Tôi bế nó trong cánh tay và ngồi lên mép giường cô Antonia.
- Cô Antonia, cô đừng khóc. Cô hãy nói tất cả với cháu đi. Cháu biết tất cả thì tốt hơn. Bây giờ cháu đã khá lớn để được biết sự thật. Tự đặt ra những câu hỏi cho mình còn tồi tệ hơn là biết tất cả.
Cô Antonia đặt Sarah nằm cạnh cô và bảo tôi:
- Cháu hãy nằm xuống phía kia, chúng ta hãy ru nó ngủ.
Nó không được nghe điều mà cô kể.
Cả ba chúng tôi nằm trên chiếc giường lớn và im lặng một lúc lâu. Cô Antonia lúc thì vuốt tóc Sarah, lúc thì vuốt tóc tôi. Khi chúng tôi nghe tiếng thở đều đều của Sarah, chúng tôi biết là nó đã ngủ. Cô Antonia bắt đầu nói, mắt thì nhìn trần nhà. Cô kể mẹ tôi đã sát hại cha tôi như thế nào.
Tôi nói:
- Cháu nhớ có những tiếng súng và có xe cứu thương. Thế còn Lucas, mẹ cháu có bắn vào Lucas không?
- Không, Lucas bị thương do đạn lạc. Viên đạn trúng gần cột sống. Nó bị mất ý thức trong nhiều tháng, và tưởng như nó sẽ bị tàn phế. Bây giờ người ta hi vọng nó sẽ hoàn toàn khỏi.
- Mẹ cháu có ở cùng thành phố S với Lucas không?
- Không, mẹ cháu ở đây, tại thành phố này, trong một bệnh viện tâm thần.
- Tâm thần ư? Nghĩa là gì vậy? Mẹ cháu bị ốm hay bị điên?
Cô Antonia bảo:
- Điên cũng là một bệnh như các bệnh khác.
- Cháu có thể đến thăm mẹ cháu được không?
- Cô không biết. Nhưng cháu không nên đến, vì buồn lắm.
Tôi nghĩ một lát rồi hỏi:
- Tại sao mẹ cháu lại phát điên? Tại sao mẹ cháu lại giết bố cháu.
Cô Antonia đáp:
- Tại vì bố cháu yêu cô và yêu Sarah.
- Sarah lúc đó chưa đẻ. Vậy là do cô, mọi việc xảy ra là do cô. Nếu không có cô, ngôi nhà cửa sổ màu xanh vẫn còn hạnh phúc ngay cả trong chiến tranh và sau chiến tranh. Không có cô, bố cháu không chết, mẹ cháu không điên, em cháu không tàn tật, và cháu không cô đơn thế này.
Cô Antonia im lặng. Tôi ra khỏi buồng.
*
Tôi xuống bếp, lấy tiền, cô Antonia đã chuẩn bị cho việc đi chợ. Cứ tối tối cô lại để số tiền chợ của ngày hôm sau lên bàn nhà bếp. Không bao giờ cô yêu cầu tôi tính toán.
Tôi ra khỏi nhà. Tôi đi bộ đến một phố lớn có xe buýt và tầu điện chạy. Tôi hỏi một bà già đang đợi xe buýt ở góc phố:
- Thưa bà, bà làm ơn chỉ giúp cháu đường ra ga.
- Cháu hỏi ga nào? Có tất cả ba ga.
- Thưa bà, ga gần nhất.
- Cháu hãy đi tầu điện số năm, rồi đi xe buýt số ba. Người soát vé sẽ chỉ cho cháu phải xuống xe ở đâu.
Tôi đến một nhà ga rộng mênh mông, đông kín người. Hành khách xô đẩy, kêu gào, chửi thề. Tôi xếp hàng sau một dãy người trước cửa bán vé. Mọi người từ từ tiến lên. Cuối cùng đến lượt tôi:
- Cháu mua một vé đi thành phố S.
- Nhân viên ga nói:
- Tầu đi S. không chạy từ đây. Cháu phải đến ga phía Nam.
Tôi lại đi tầu, đi xe buýt. Trời tối khi tôi đến ga phía Nam, và không còn chuyến tầu nào đi S. cho đến sáng mai. Tôi vào phòng đợi, tìm được một chỗ trên ghế dài. Rất đông người, có mùi hôi, rồi khói thuốc làm tôi cay mắt. Tôi cố ngủ, nhưng hễ nhắm mắt tôi lại thấy Sarah một mình trong buồng, Sarah đi vào bếp, Sarah khóc vì vắng tôi. Nó chỉ có một mình suốt đêm, vì cô Antonia phải đi làm, còn tôi, tôi ngồi trong phòng đợi tầu để đi đến một thành phố khác, nơi em Lucas của tôi đang sống.
Tôi muốn đến thành phố em tôi đang sống, tôi muốn tìm lại em tôi, sau đó chúng tôi sẽ cùng nhau đi tìm mẹ. Sáng mai tôi sẽ đi S, tôi sẽ đi.
Tôi không sao ngủ được. Tôi tìm thấy trong túi những cái phiếu thực phẩm, nếu không có chúng thì cô Antonia và Sarah sẽ không có gì để ăn. Tôi phải quay về thôi.
Tôi chạy. Đôi giày thể thao của tôi không gây tiếng động. Đến sáng tôi về gần đến nhà, tôi xếp hàng mua bánh mì, mua sữa, rồi tôi về.
Cô Antonia đang ngồi trong bếp. Cô ôm tôi trong tay:
- Lúc nãy cháu ở đâu? Cô và Sarah đã khóc suốt đêm. Cháu đừng bỏ mẹ con cô một mình nhé.
- Cháu sẽ không để cô và em một mình nữa. Thưa cô, bánh mì và sữa đây. Hơi thiếu tiền một chút. Cháu vừa đi ra ga, rồi lại đến một ga khác. Cháu định đến thành phố S.
Cô Antonia nói:
- Rồi chúng ta sẽ cùng nhau tới đó, chúng ta sẽ tìm được em cháu.
- Cháu cũng muốn đi thăm mẹ cháu.
Một buổi chiều Chủ nhật, chúng tôi đến bệnh viện tâm thần. Antonia và Sarah ở lại trong phòng tiếp tân. Một cô y tá dẫn tôi vào một phòng khách nhỏ có một chiếc bàn và vài cái ghế. Trước cửa sổ, có một cái bàn một chân trên đặt chậu cây xanh. Tôi ngồi đợi.
Cô y tá quay lại, nắm cánh tay một người đàn bà mặc quần áo ngủ và giúp bà ta ngồi xuống một chiếc ghế.
- Klaus, cháu chào mẹ đi.
Tôi nhìn người đàn bà. Bà ta to béo và già. Tóc bà đã bạc đến nửa được chải ra phía sau và buộc túm gáy bằng một sợi len. Tôi nhìn thấy khi bà quay lại để nhìn rất lâu cánh cửa đã khép. Sau đó bà hỏi cô y tá:
- Thế Lucas đâu?
Cô y tá đáp:
- Lucas không thể đến được, còn đây là Klaus. Cháu chào mẹ đi, Klaus.
Tôi nói:
- Con chào mẹ.
Bà ta hỏi:
- Sao con lại đi một mình? Tại sao Lucas không đi cùng con.
Cô y tá nói:
- Lucas cũng sắp đến rồi ạ.
Mẹ nhìn tôi. Những giọt nước mắt lớn bắt đầu chảy từ đôi mắt xanh nhạt của mẹ. Mẹ nói:
- Dối trá, luôn luôn dối trá.
Mẹ chảy nước mũi. Cô y tá hỉ mũi cho mẹ. Mẹ gục đầu xuống ngực, không nói gì nữa, không nhìn tôi nữa.
Cô y tá nói:
- Chúng ta mệt rồi. Chúng ta đi nằm đây. Cháu có muốn ôm hôn mẹ cháu không, Klaus?
Tôi lắc đầu và đứng lên. Cô y tá nói:
- Cháu có thể tìm phòng khách một mình phải không?
Tôi chẳng nói gì và ra khỏi buồng. Tôi im lặng đi qua trước mặt cô Antonia và Sarah, ra khỏi tòa nhà và đợi trước cửa. Cô Antonia nắm lấy vai tôi, Sarah thì cầm tay tôi, nhưng tôi vùng ra, rồi tôi cho hai tay vào túi quần. Chúng tôi bước đi không nói một lời cho đến điểm đỗ xe buýt.
Tôi đến trước khi cô Antonia đi làm, tôi bảo cô:
- Người đàn bà cháu vừa gặp không phải mẹ cháu. Cháu không đến thăm nữa đâu. Chính cô phải đến gặp bà ấy để biết cô đã gây ra cho bà ấy những gì.
Cô Antonia hỏi:
- Cháu không thể tha thứ cho cô được sao, Klaus?
Tôi không trả lời. Cô nói thêm:
- Nếu cháu biết cô yêu cháu đến thế nào.
- Lẽ ra cô không được làm thế. Cô không phải mẹ cháu. Chính mẹ cháu phải yêu cháu, nhưng mẹ chỉ yêu Lucas, do lỗi của cô.
Mặt trận tới gần. Thành phố bị ném bom cả ngày lẫn đêm. Chúng tôi chui xuống hầm nhà, mang chăn đệm vào đó. Lúc đầu hàng xóm của chúng tôi cũng đến, nhưng một hôm họ biến mất. Cô Antonia bảo rằng họ bị đi đầy.
Cô Antonia hết việc làm. Cái tiệm nhảy, cô hát ở đó không còn nữa. Trường học cũng đóng cửa. Có được thức ăn rất khó ngay cả khi có phiếu thực phẩm. May sao cô Antonia có người bạn thỉnh thoảng lại đến và mang cho bánh mì, sữa bột, bánh quy và chocola. Tôi đến, người bạn ở lại nhà chúng tôi vì lệnh giới nghiêm nên không thể về được. Những đêm như thế, Sarah ngủ với tôi trong bếp. Tôi ru nó, tôi nói với nó về Lucas, rồi chúng tôi nhìn sao mà ngủ thiếp đi.
Một buổi sáng, cô Antonia đánh thức chúng tôi rất sớm. Cô bảo chúng tôi mặc quần áo ấm, mặc nhiều áo sơ mi và áo len, áo khoác, đi nhiều tất vì chúng tôi sẽ làm một chuyến đi dài ngày. Còn lại bao nhiêu quần áo cô nhét đầy vào hai va li.
Bạn cô Antonia đều đón chúng tôi bằng xe ôtô. Chúng tôi cho va li vào thùng xe, cô Antonia ngồi đằng trước, Sarah và tôi ngồi phía sau.
Ô tô dừng lại ngay gần trước ngôi nhà cũ của tôi ở lối vào nghĩa trang. Người bạn ở lại trong xe, cô Antonia vừa bước nhanh vừa kéo tay chúng tôi, Sarah và tôi.
Chúng tôi dừng chân trước một ngôi mộ có cây thánh giá bằng gỗ, trên đó tên của cha tôi được ghi bằng cái tên kép Klaus – Lucas T.
Trên mộ, giữa nhiều bó hoa đã tàn, có một bó hoa cẩm chướng trắng gần như còn tươi.
Tôi bảo cô Antonia:
- Mẹ cháu trồng hoa cẩm chướng đầy vườn. Cha cháu rất thích loại hoa này.
- Cô biết. Chào tạm biệt cha đi, các con.
Sarah ngoan ngoãn nói:
- Chào tạm biệt bố.
Tôi bảo:
- Ông ấy không phải bố của Sarah. Ông ấy là bố của chúng cháu, Lucas và cháu.
Antonia nói:
- Cô đã giải thích cho cháu rồi, cháu không hiểu sao? Thôi mặc. Lại đây, chúng ta không còn thời gian nữa đâu.
Chúng tôi quay lại ôtô, xe đưa chúng tôi đến ga phía Nam. Antonia cảm ơn và chào tạm biệt người bạn.
Chúng tôi xếp hàng lấy vé tầu. Chỉ đến lúc này tôi mới dám hỏi cô Antonia:
- Chúng ta đi đâu hả cô?
- Đến nhà bố mẹ cô. Nhưng trước tiên chúng ta dừng ở thành phố S. để đón em Lucas của cháu đã.
Tôi nắm lấy tay cô, tôi ôm hôn cô:
- Cháu cảm ơn cô.
Cô rụt tay lại:
- Cháu đừng cảm ơn cô. Cô chỉ biết đúng cái tên thành phố và tên nhà cải huấn, cô không biết gì hơn đâu.
Khi cô Antonia trả tiền vé tầu, tôi nhận ra rằng tôi không thể thanh toán chuyến đi thành phố S. với số tiền đi chợ.
Chuyến đi không thoải mái. Chúng tôi ba người mà chỉ có một chỗ ngồi, người được ngồi đặt Sarah lên đùi, người kia đứng. Chúng tôi phải thay nhau ngồi nhiều lần trong chuyến đi đáng lẽ chỉ hết năm giờ mà kéo dài gần mười hai giờ vì những lúc báo động. Tầu phải dừng giữa những nơi đồng không mông quạnh, hành khách xuống tầu và nằm rạp dưới ruộng. Thông thường, chỉ có báo động, tôi trải áo khoác xuống đất, tôi đặt Sarah nằm lên trên, rồi tôi nằm che cho nó khỏi đạn và các mảnh đạn.
Đêm khuya, chúng tôi đến thành phố S. Chúng tôi thuê một buồng khách sạn. Sarah và tôi đi ngủ ngay lập tức trên cái giường lớn, Antonia xuống quầy rượu để hỏi tin tức, sáng hôm sau cô mới về.
Bây giờ cô đã có địa chỉ của Trng tâm, nơi ở của Lucas. Hôm sau chúng tôi đến đó.
Đó là tòa nhà nằm trong một công viên. Một nửa tòa nhà bị phá hủy. Chúng tôi nhìn thấy những mảnh tường ám khói đen kịt.
Trung tâm bị ném bom đã được ba tuần.
Antonia chạy đi tìm hiểu. Cô hỏi chính quyền địa phương, cô cố tìm những người sống sót của Trung tâm. Cô tìm được địa chỉ của bà giám đốc. Chúng tôi đến nhà bà.
Bà bảo:
- Tôi nhớ rất rõ thằng bé Lucas. Nó là một đối tượng xấu của Trung tâm, lúc nào cũng làm phiền, quấy nhiễu mọi người. Mọi đứa trẻ thực không chịu nổi, không uốn nắn được. Không có ai đến thăm nó, không ai quan tâm đến nó. Nếu tôi không nhớ sai thì đó là do một tấm thảm kịch gia đình. Tôi không thể nói gì hơn với cô.
Cô Antonia năn nỉ:
- Sau vụ ném bom, bà có gặp lại nó không ạ?
Bà giám đốc đáp:
- Tôi cũng bị thương trong vụ ném bom đó, nhưng cũng chẳng có ai quan tâm đến tôi. Rất nhiều người đến hỏi tôi về con cái của họ. Không ai quan tâm đến tôi, mặc dù tôi đã phải nằm viện hai tuần sau cái vụ ném bom. Tôi bị sốc, cô hiểu không? Tôi phụ trách tất cả lũ trẻ đó.
Cô Antonia lại hỏi:
- Bà hãy nghĩ lại xem. Bà biết gì về Lucas? Sau vụ ném bom, bà có gặp lại Lucas không? Người ta đã làm gì với những đứa sống sót?
- Tôi không gặp lại nó. Tôi nhắc lại là tôi cũng bị thương. Những đứa trẻ sống sót, người ta đuổi chúng về nhà. Những đứa chết được chôn ở nghĩa trang thành phố. Những trẻ nào không chết mà người ta không biết địa chỉ thì được đưa về các làng, các trang trại, các thành phố nhỏ. Một khi chiến tranh kết thúc những người này phải trả lại đứa bé.
Cô Antonia tham khảo danh sách người chết của thành phố. Cô bảo tôi:
- Lucas không chết. Chúng ta sẽ tìm thấy nó.
Chúng tôi lại đi tầu. Chúng tôi đến một ga nhỏ, đi bộ đến tận trung tâm thành phố. Cô Antonia bế Sarah ngủ trên cánh tay, tôi thì mang va li.
Đến quảng trường Principale, chúng tôi dừng lại. Cô Antonia kéo chuông, một bà già ra mở cửa. Tôi có biết bà già này, đó là mẹ cô Antonia. Bà nói:
- Tạ ơn Chúa! Các con khỏe mạnh và lành lặn. Ta sợ quá đi mất. Ta không ngừng cầu nguyện cho các con.
Bà ôm mặt tôi trong tay:
- Cháu cùng đến với chúng ư?
Tôi đáp:
- Cháu không thể làm khác được. Cháu phải chăm sóc Sarah.
- Nhất định như thế rồi.
Bà xiết chặt lấy tôi, ôm, hôn tôi, rồi bà bế Sarah trong tay:
- Cháu bà xinh quá, cháu bà lớn quá đi mất.
Sarah nói:
- Cháu buồn ngủ. Cháu muốn ngủ với Klaus.
Chúng tôi ngủ cùng một buồng, cái buồng cô Antonia ngủ khi cô còn bé.
Sarah gọi bố mẹ cô Antonia là Bà và Ông, còn tôi gọi họ là dì Mathilda và cậu Andréas. Cậu Andréas là linh mục cậu không bị động viên vì bị bệnh. Đầu cậu lúc nào cũng lắc lư như thể cậu luôn luôn nói: “không.”
Cậu Andréas dẫn tôi đi chơi qua các phố, đôi khi đến tối mới về. Cậu bảo:
- Cậu luôn luôn mong có một đứa con trai. Một đứa con trai mới hiểu được cậu yêu quý thành phố này thế nào. Nó mới hiểu vẻ đẹp của phố xá, nhà cửa, bầu trời ở đây. Phải, vẻ đẹp của bầu trời mà không đâu có. Cháu xem, những mầu sắc của bầu trời này, thật không có từ nào diễn tả nổi.
Tôi nói:
- Như trong mộng vậy.
- Phải, như trong mộng vậy. Cậu chỉ có một con gái. Nó đã ra đi, lúc còn rất trẻ. Nó trở về với một bé gái và với cháu. Cháu không phải là con trai ta, cũng không phải cháu ta, nhưng là thằng bé mà ta đợi chờ.
- Nhưng cháu phải về với mẹ cháu khi bà ấy hỏi, rồi cháu còn phải tìm được em Lucas nữa.
- Phải, nhất định rồi. Ta mong rằng cháu sẽ tìm được họ. Nhưng nếu cháu không tìm thấy thì cháu có thể ở lại đây. Cháu có thể đi học và chọn một nghề phù hợp với cháu. Khi nào cháu lớn cháu muốn làm nghề gì.
- Cháu muốn lấy Sarah.
Andréas cười:
- Cháu không thể lấy Sarah. Chúng mày là hai em, không thể lấy nhau được. Luật pháp cấm việc đó.
Tôi nói:
- Thế thì cháu chỉ ở cùng nhà với nó thôi. Không ai có thể cấm cháu ở cùng nhà với nó cả.
- Rồi cháu sẽ gặp rất nhiều cô gái khác mà cháu muốn cưới cho mà xem.
- Cháu không nghĩ vậy.
Chẳng bao lâu, đi chơi ngoài phố trở thành nguy hiểm và tối đến cấm không được ra ngoài. Khi có báo động và ném bom thì làm gì? Ban ngày tôi dạy Sarah học. Tôi dậy nó đọc và viết, tôi bắt nó làm tính. Trong nhà có rất nhiều sách, có cả những sách trẻ em và sách giáo khoa của cô Antonia trên buồng áp mái.
Ông Antonia dạy tôi đánh cờ. Khi đàn bà trong nhà đi ngủ, chúng tôi chơi một ván đến tận khuya. Lúc đầu, ông Andréas luôn luôn thắng. Khi ông bắt đầu thua, ông mất luôn cái hứng chơi cờ. Ông bảo tôi:
- Cháu quá mạnh đối với ta. Ta không muốn chơi nữa. Ta không còn muốn gì nữa. Ta không còn những giấc mơ đẹp, ta chỉ còn nhưng giấc mơ tầm thường.
Tôi cố dạy Sarah chơi cờ, nhưng nó không thích. Nó chán, nó cáu, nó thích những trò chơi những trò chơi đơn giản có đông người, và hơn tất cả nó thích tôi đọc truyện cho nó nghe, bất kể truyện gì, ngay cả truyện đã đọc đến hai mươi lần rồi.
*
Khi chiến tranh rời sang nước kia, cô Antonia nói:
- Chúng ta có thể trở về thủ đô, về nhà rồi.
Bà mẹ cô bảo:
- Rồi các con sẽ chết đói. Hãy để Sarah ở lại đây một thời gian đã, ít ra cho tới khi con tìm được việc làm và một chỗ tử tế một chút.
Ông Andréas nói:
- Hãy để thằng bé với chúng ta. Trong thành phố có những trường tốt. Khi nào tìm được em nó, chúng ta cũng giữ luôn nó lại.
Tôi nói:
- Cháu phải trở về thủ đô để xem mẹ cháu ra sao.
Sarah nói:
- Ông đã để ý đến nó một năm nay. Nó sống với bà nó ở đầu kia thành phố. Đó là một người đàn bà cực kỳ nghèo. Đứa bé chắc là mồ côi. Nó thường chơi kèn trong các quán rượu để kiếm chút ít tiền. Mọi người quen có nó bên cạnh nên không ai làm gì xấu cho nó. Nó thuộc về quyền bảo trợ của thành phố và của Chúa.
- Chắc nó phải sung sướng lắm.
- Nhất định rồi.
Ba tháng sau, cô Antonia về đón chúng tôi. Bà Mathilda và ông Andréas không muốn để chúng tôi đi.
Bà Mathilda nói:
- Hãy để con bé lại đây. Nó sung sướng và chẳng thiếu thứ gì.
Ông Andréas nói:
- Hay ít ra cũng để thằng bé lại. Bây giờ tình hình đã khá hơn, có thể bắt đầu tìm thằng em nó.
Antonia nói:
- Bố có thể tìm một mình. Con mang cả hai đứa đi, chúng nó phải ở với con.
*
Tại thủ đô, chúng tôi có một căn hộ bốn phòng. Ngoài các buồng còn có một phòng khách và một phòng tắm.
Buổi tối hôm đến, tôi kể chuyện cho Sarah nghe, tôi vuốt tóc nó cho đến khi nó ngủ. Tôi nghe tiếng có Antonia và bạn cô nói chuyện trong phòng khách.
Tôi xỏ đôi gi