Phần thứ nhất - I & II & III & IV CUỐN SÁCH CỦA Ô NHỤC
dịch giả: hằng hà sa và bích ty
Phần thứ nhất - I & II & III & IV
cuốn sách của ô nhục
hiếc xe chở Ante Petrovici và những kẻ tị nạn của các quốc gia đồng minh đi xa dần. Pillat và Marie mới thực sự cô đơn giữa một quốc gia xa lạ chưa bao giờ đặt chân đến và chưa hề quen biết ai cả. Không nhà cửa, không một đồng dính túi. Pillat nói:
- Chúng ta có thể đi đâu và làm gì đây? Chúng mình đã lầm lẫn khi bỏ khu rừng để về đây.
Nhưng tình cờ bỏ tay vào túi quần, Pillat tìm thấy 200 đồng Marks. Chắc là bác sĩ Petrovici trước khi đi đã kín đáo bỏ tiền vào túi chàng. Chàng thấy bạo dạn hơn lên khi cầm tiền trong tay, họ tiến về nhà ga và nhìn bản đồ. Thành phố gần nhất là Heidelberg; Pillat bảo:
- Heidelberg là một trung tâm sinh hoạt trí thức, anh sẽ kiếm việc làm ở Đại học đường, có thể là trong một thư viện nào đó cũng được.
Bước chân xuống Heidelberg; họ dừng chân trên bờ sông Neckar với một lô dự định tương lai. Người ta đang xây cầu trên sông. Pillat vội vã nói:
- Anh sẽ kiếm việc ở đây, làm thợ vậy. Ngay hôm nay, vì chúng ta không thể để mất giây phút nào. Điều còn lại, chúng ta sẽ xét sau.
Chiều hôm đó, để mặc Marie ngồi chờ, Pillat xuống công trường xin việc. Viên đốc công sốt sắng:
- Chúng tôi cần thợ làm và trả tiền công rất hậu. Ngoài số lương, thợ còn được ăn và hút thuốc; ông có thể trở lại đây ngay sáng hôm sau. Chỉ cần mang cho chúng tôi một giấy phép trú ngụ ở Heidelberg, thế là đủ.
Pillat cho là mình gặp hên, cám ơn rối rít và chạy nhanh về báo tin mừng cho Marie:
- Nào chúng mình đi xin giấy cư ngu. Sở cấp giấy gần đây lắm. Marie lại khệ nệ vác xác lên vai. Trong lúc chờ đợi, viên trưởng phòng nhân viên mời Pillat và Marie rất lễ phép. Họ cho biết:
- Ông bà sẽ có giấy phép cư ngụ ngay, nhưng phải có bằng chứng là ông bà đã có công ăn việc làm rồi mới được.
- Tôi đã nói với viên đốc công làm cầu rồi, ông ta bảo rằng sẽ mướn tôi nếu tôi có giấy phép cư ngụ.
- Nhưng trước tiên, ông phải có bằng chứng là ông đã làm việc.
- Thì tôi đã kiếm ra công việc rồi đó, người ta sẽ cấp chứng chỉ cho tôi, mười phút nữa tôi sẽ mang lại cho ông ngay mà.
- Nhưng tôi không thể cấp giấy phép cư ngụ nếu không có chứng chỉ làm việc.
Viên trưởng phòng là một người tị nạn từ vùng Đức bị Nga sô chiếm đóng, ông ta hiểu nổi thất vọng của Pillat và Marie:
- Ông không thể nào kiếm việc nếu không có giấy phép cư trú nhưng không có giấy chứng nhận đã có công ăn việc làm người ta lại không cấp giấy cư ngụ cho ông, không cấp phiếu thực phẩm, không được phép thuê phòng.
- Như vậy thì rõ là họ không cho phép chúng tôi ở Heidelberg chứ gì.
- Trên nguyên tắc thì người ta không cấm. Nhưng trên thực tế thì như vậy đó. Tại sao ông bà không cố sang tỉnh khác xem. Heidelberg bị nhân mãn rồi. Người ta chỉ thuê những người thực sự cư ngụ ở đây mà thôi. Nhưng dù sao, nếu ông đem lại đây bằng chứng là ông đã kiếm được việc, tôi cấp giấy cư ngụ ngay.
- Vậy thì tôi cố trở lại công trường một lần nữa xem sao. Và họ lại trở ra bờ sông Neckar. Viên đốc công không còn ở đấy nữa, Pillat đành vào lều ngồi chờ. Marie mệt lả ngồi chờ ở một cái ghế dài. Nàng dựa đầu lên ghế, tay nắm chặt gói hành lý sợ bị đánh cắp. Bỗng nàng thấy như có ai đặt tay lên vai. Nàng định đứng dậy, nhưng bàn tay đã nắm chặt, bàn tay mang găng của một người cảnh sát Đức. Một người khác cầm xắc hành lý vứt lên xe cam nhông, và cả hai đẩy Marie lên xe luôn thể. Marie muốn gọi Pillat nhưng xe đã nổ máy. Nàng định la lên thì một bàn tay đã bóp miệng nàng lại, bàn tay cũng như sắt, nàng có muốn cắn cũng không ăn thua gì. Có một số người đàn bà khác trên xe, toàn là trẻ đẹp cả. Họ tò mò nhìn Marie, nàng có cảm tưởng bàn tay không phải chỉ ở miệng nàng mà còn đè nặng lên cả cơ thể nàng, nhất là trên vú nàng.
Xe cam nhông đã dừng hẳn. Marie được dẫn vào một căn nhà trống, nàng khóc nức nở. Một người đàn bà ái ngại:
- Lần đầu tiên em đến nhà thương sao?
Marie chùi nước mắt ngạc nhiên:
- Đúng là nhà thương sao? Tại sao họ lại đưa tôi vào nhà thương?
- Thì nếu em không có gì họ sẽ thả ra lo gì.
Marie đứng dựa vào hai xắc hành lý, hai cái xắc chứa hết cả gia tài của nàng và Pillat, chứa luôn cả hương vị cơ thể hai vợ chồng, vì họ vẫn thường dùng làm gối trong hàng tháng. Nghĩ đến chồng, Marie òa lên khóc. Chàng sẽ ra sao nếu lúc trở lại không thấy nàng trên ghế. Nàng muốn van xin người ta để cho nàng đi, nhưng đã hết giờ làm việc, không còn ai ở đó nữa. Suốt đêm hôm đó, nàng khóc liên miên.
Sáng hôm sau, tất cả đều được đi tắm và sắp hàng hai. Một người đàn bà bên cạnh la to:
- Đừng có khóc nữa, tao có hai đứa con ở nhà không ai chăm nom tao còn không khóc đây.
- Nhưng sao họ bắt chúng ta chứ?
- Họ không bắt chúng ta đâu. Chỉ là một cuộc bố ráp thôi. Mày chưa hề bị bố ráp sao?
- Không. Nhưng tại sao lại bị bố ráp?
- Người đàn bà nào cũng bị bố ráp cả. Để họ đừng truyền bệnh cho lính Mỹ. Người đàn bà nào ở ngoài đường cũng có thể truyền bệnh cho lính. Tao đã bị bốn lần, còn mày chưa hả, sao thế?
Marie trả lời:
- Tôi không sống ở thành phố này.
Họ được đưa lên lầu một. Người đàn bà cạnh Marie giải thích:
- Nếu mày ở lại phố thì mày sẽ đến đây mãi. Lần sau mày sẽ quen đi, không khóc nữa.
Sau khi tắm xong, tất cả được dẫn vào một hành lang, và được đưa từng người một vào thăm bệnh. Nghe gọi tên, Marie bước vào. Đã có hai người mặc áo blouse trắng đang khám một người đàn bà trần truồng trên bàn, tay họ đều mang găng. Một người giận dữ la:
- Sao chưa cởi áo quần ra? Cô cởi mau đi.
Marie muốn bị đánh đập hơn là nghe mệnh lệnh đó. Nhưng hai người nữ y tá đã la mắng và cởi áo quần nàng ngay. Marie cố chống cự, nhưng họ đã nhấc bổng nàng lên bàn. Nàng bắt đầu la hét, vùng vẫy, kẹp chân chặt lại. Nhiều người chạy đến giữ kỹ nàng. Sau cùng nàng thấy một đám mây lạnh trên mặt và không biết gì nữa cả. Thân thể nàng đành phải tuân theo ý muốn của những bàn tay xa lạ. Lúc nàng tỉnh dậy, nàng hoảng hốt cố che kín thân thể để đừng trần truồng trước mặt những người lạ. Và trong khi cố che đậy sự trần truồng đó, bàn tay nàng đã bị những mũi nhọn chích nhè nhẹ, thì ra đám lông mềm mại không còn nữa, người ta đã cạo sạch mất rồi. Thất vọng, Marie mặc vội quần áo lại.
Người nữ y tá bảo:
- Cô có thể ra về.
Và Marie cúi đầu mang xắc ra về. Mỗi bước chân nàng cảm thấy những mũi kim châm nho nhỏ. Nàng nghẹn ngào khóc, nàng có cảm tưởng người ta sẽ nhìn qua lớp áo là nàng đã bị cạo lông rồi và cho mình là người đàn bà nhục nhã nhất trần gian.
Muốn kêu cứu cũng chả biết kêu cứu ai, Marie không còn can đảm nghĩ đến Pillat. Như một kẻ không hồn, nàng bước về phía sông Neckar, muốn trầm mình xuống sông tự vận.
Một giọng nói êm dịu vang lên:
- Em đi đâu suốt đêm, để anh kiếm mãi thế.
- Anh Pillat, em không thể nào nói cho anh nghe được, thà chết còn hơn nói rõ điều này cho anh nghe. (Nàng lại khóc nức nở và cảm thấy những đầu mũi kim đang châm chích.)
Lúc Pillat cầm tay, Marie uất ức bảo:
- Em trở về Piatra, em không muốn ở lại đây nữa.
II
Pillat và Marie đành rời bỏ Heidelberg, vì họ không có quyền ở đó nữa. Đến Stuttgart, họ được Petrovici ân cần tiếp đón như bạn bè chí thân. Họ đã chung sống có một đêm thôi, nhưng có những cuộc gặp gỡ đáng giá hơn cả một đời bên nhau.
Petrovici cung cấp thức ăn uống đầy đủ. Tổ chức quốc tế tị nạn đã giúp đỡ họ nơi ăn chốn ở đàng hoàng. Tuy vậy bác sĩ Petrovici vẫn đi cà nhắc nhiều hơn lên, điều đó chứng tỏ ông ta đang khổ tâm.
- Trên bất cứ thành phố nào ở Đức, anh không thể nào trú ngụ mà không có chứng chỉ làm việc, và anh không thể có chứng chỉ làm việc nếu không có giấy phép cư ngụ, đúng là một vòng lẩn quẩn. Trên thực tế, ông bà bị cấm cư ngụ nơi đây nhưng xin phép ra đi cũng không được. Một thước đất biên thùy Đức quốc đều có xe tăng canh gác. Biên giới đã được đóng kín bằng dây kẽm gai. Chỉ còn cách là sống chơi vơi trong không khí. Thật tai hại là con người không thể sống bằng và ở trong không khí.
Marie cắn mẫu bánh mì Ante vừa cho, ông này nói tiếp:
- Để dành quyền sống, Tây phương đã bán cho Sô Viết một nửa Âu Châu. Dân cư ở các quốc gia bị bán đứng cho Sô Viết phải trốn qua Tây phương để tránh nạn khủng bố và chết chóc.
Tây phương là cơ hội thứ hai cho công dân các nước bị Nga Sô chiếm đóng. Những kẻ đào tẩu đó phải băng ngang qua Đức quốc và ở đây họ bị bắt vào các trại tập trung, không thể nào thoát khỏi được nữa.
Marie hỏi:
- Ông nghĩ là không còn lối thoát nào nữa ư? Chúng tôi không đòi hỏi gì nhiều ngoài công ăn việc làm. Tôi thừa biết là chúng tôi không thể có nhà cửa như lúc trước, nhưng tôi chỉ xin họ để chúng tôi sống ra sao thì sống.
- Tôi không phải là nhà tiên tri, nhưng tôi nghĩ là không còn lối thoát nào nữa cả. Âu châu không còn nữa. Chỉ còn lại có Hoa Kỳ và Nga Sô đang chia nhau Âu châu. Cả hai đều gán lối sống của họ cho toàn thế giới. Muốn thế, họ hủy diệt cá nhân. Nga Sô đã loại bỏ hàng triệu người, hủy bỏ nhiều giai cấp trong xã hội. Hoa Kỳ không thế. Nhưng Hoa Kỳ bán đứng con người cho Sô Viết để Sô Viết loại bỏ họ. Giống như những giáo sư ở Đại học Coimbre, Hoa Kỳ tưởng là có thể tránh thiên tai bằng cách nướng người vào lửa, dần dần, Hoa Kỳ đã thiêu sống những tù binh Nga trước mắt chúng ta để tránh mọi trở ngại trong việc bang giao với Sô Viết. Hoa Kỳ đã dâng cho Sô Viết xứ Lithuanie, Lettonie, Esthonie để tránh một bất động chính trị với chính phủ Sô Viết. Hoa Kỳ đã hy sinh Ba Lan để tránh sự rạn nứt ngoại giao với Nga Sô. Sau đó, họ đã hy sinh luôn Lỗ ma ni, Tiệp khắc, Hung gia lợi, dần dần.
Nghe đến đây, Marie òa khóc. Petrovici giải thích tiếp:
- Sự nguy hiểm to tát cho mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, mỗi dân tộc đến độ phải đau đớn tự đánh lừa mình, nhưng thời gian vẫn trôi không ngừng, không còn khúc quanh nào của lịch sử có thể có được nữa. Chỉ có những kẻ mơ mộng mới tin vào các khúc quanh đó.
Chủ nghĩa tin tưởng lạc quan đó là một sự hèn nhát. Chúng ta sinh vào thời đại này và chúng ta có bổn phận can đảm đi trên đường đã vạch sẵn, vì không còn con đường nào khác nữa.
Bổn phận đó đòi hỏi phải tồn tại ngay cả trong một hoàn cảnh bi đát và tuyệt vọng. Phải biết kiên nhẫn như người lính La Mã ngày xưa đã phơi xương trước cửa thành Pompei và bị chôn vùi bởi ngọn núi lửa Vésuve.
Pillat cãi:
- Những cơ quan chính của thân xác con người, như tim phổi đều sinh hoạt tự động, lòng tham sống và hy vọng con người cũng thế. Chấp nhận cái chết chỉ là một sự láo khoét của văn chương. Câu chuyện người lính La Mã của Spengler chờ dung nham núi lửa đến cuốn đi chỉ là một điều tưởng tượng, không đúng sự thật. Khi quân Nga bắt đầu xâm chiếm đất nước chúng tôi như những luồng dung nham, và khi chúng tôi hiểu là họ muốn loại bỏ chúng tôi thì chúng tôi phải trốn đi. Chúng tôi được may mắn thoát khỏi họng núi lửa, thoát khỏi bàn tay Sô Viết và bây giờ chúng tôi sẽ tìm cách để thoát khỏi cái nồi súp de Đức quốc này. Trên bình diện con người, bác sĩ hãy nói thật cho chúng tôi biết là bác sĩ có tìm cách để cứu lấy mạng sống của mình và thoát khỏi nơi này không?
- Có chứ.
Petrovici trả lời thế và chỉ những lọ mực, cục tẩy, khuôn dấu để la liệt trên bàn, rồi nói tiếp:
- Tôi cố để thoát hiểm bằng một lối duy nhất, đó là di cư. Các quốc gia bên kia Đại tây dương thường gởi đến nước Đức những phái đoàn thương mại để tìm nhân công giữa hàng ngàn người tị nạn. Họ chọn người như chọn súc vật và chỉ giữ lại những món hàng hảo hạng. Nghĩa là họ thích những thanh niên trẻ trung, tôi thì vượt quá giới hạn của tuổi trẻ rồi, vì thế cho nên tôi phải sửa lại giấy khai sinh. Và đó là điều tôi đang làm. Tôi lại tàn tật nữa, thiếu mất vài mi li mét dưới bàn chân phải, tôi thấp hơn người hảo hạng mà họ muốn, vài mi li mét nữa mới đủ 1m60. Tôi lại theo đạo Hồi giáo. Người hảo hạng mà họ muốn phải có đạo Thiên Chúa mới được. Tôi sắp cạo sửa tất cả điều đó, phải làm giấy tờ giả mạo mới mong thoát khỏi mạo hiểm được. Nhưng sự khó khăn thực sự là ở điểm khác, là làm sao để tách rời được khỏi nấm mồ Âu châu. Âu châu đã chết rồi. Và cũng như tất cả giai cấp trí thức trưởng giả tôi cũng biết phụng thờ các ngôi mộ. Thú thật khi phải rời bỏ Âu châu là một điều khổ tâm cho tôi. Âu châu đã bắt đầu chết lúc mà các trại tập trung quốc xã được dựng lên.
«Âu châu đã chết với mỗi tù nhân bị quốc xã thiêu sống, Âu châu chết một phần cùng với cái chết cháy của vợ tôi, nhưng sự thật Âu châu đã thở hơi thở cuối cùng ở Torgau, ở đó có ngôi mộ chôn Âu châu, ở đó có một thành phố nhỏ trên bờ sông Elbe đánh dấu nơi quân đội Nga Mỹ gặp nhau vào năm 1945. Ở đó, trước thi hài Âu châu, lính Nga và lính Mỹ đã ôm nhau hôn và uống Whisky cùng Vodka. Tang lễ của Âu châu đã được tưới bằng rượu ngoại quốc, Vodka, Whisky. Cũng như anh và vợ anh không cho nơi nào êm ái hơn là ở Piatra của xứ Lỗ ma ni, tôi cũng chỉ mến Âu châu thôi. Chính vì thế, mà tôi xem cơ hội này, cơ hội mà tôi đã tranh đấu và tìm cách sửa đổi giấy khai sinh là cơ hội thứ hai. Sự lưu đày ra khỏi quê hương chỉ là một khúc giáo đầu cho sự lưu đày ra khỏi Âu châu...»
Vừa lúc đó, một người lịch sự bước vào, bắt tay Petrovici, lạnh lùng chào Marie và Pillat.
- Tôi vừa mới được cử giữ chức cố vấn chính trị và các vấn đề eo biển Balkan bên cạnh Bộ chỉ huy Hoa Kỳ ở Âu châu.
- Thành thật mừng ông.
Trả lời thế và Petrovici quay qua giới thiệu Marie và Pillat:
- Đây là một trong những đồng bào của ông bà, ông Aurel Popesco.
- Hân hạnh được biết ông bà.
Và ông ta vội vã bước đi, đến ngưỡng cửa ông ta còn quay lại:
- Phái bộ Gia nã đại đến đây ngày mai để tuyển lựa những người được di cư lúc 8 giờ sáng, vậy bác sĩ muốn trình diện thì phải dậy sớm nghe.
Petrovici nói cho Pillat biết:
- Aurel Popesco thuộc thành phần được ưu đãi vì hắn có một giấy chứng nhận là «nạn nhân của phát xít» và chính nhờ đó mà hắn được làm việc cạnh bộ chỉ huy Hoa Kỳ. Trước đây hắn là một trong những tên chỉ huy của phong trào phát xít ở Lỗ ma ni, chắc là anh biết rồi chứ. Hắn ta đã gây nhiều tội ác man rợ. Hắn đã trốn qua Đức. Người Đức nhốt hắn ở Buchenwald với những tên phát xít khác từ Lỗ ma ni trốn sang. Rồi người Mỹ giải thoát tất cả tù binh ở trại Buchenwald cấp cho họ chứng chỉ «nạn nhân của phát xít» và trong thành phần đó có lũ phát xít quá khích đó là trường hợp của Aurel Popesco.
Ngừng ở đó, Petrovici quay qua Pillat:
- Anh cứ trình diện với phái bộ Gia nã đại ngày mai, tôi không thể đến đó vì giấy tờ cạo sửa chưa xong. Tôi rất tiếc vì không hiểu bao giờ mới có phái bộ thứ hai tiếp theo. Nhưng anh thì cứ trình diện. Anh ngủ đây đi và mai tôi dẫn đi.
III
Sáng hôm sau khoảng 7 giờ Marie và Pillat sắp hàng trong đám người chờ phái bộ Gia nã đại, đám người khốn nạn thuộc nhiều hạng tuổi và nhiều quốc tịch khác nhau. Nhưng họ cùng chung một ước mơ là được trở thành người tiều phu ở Gia nã đại.
Toàn là những người trước đó có nhà cửa, gia đình, nghề nghiệp đàng hoàng, nhưng vào ngày chiến thắng, tổ quốc của họ đã rơi vào tay Sô Viết, họ buộc lòng phải trốn đi, từ bỏ nhà cửa, gia súc, gia đình tất cả. Giờ đây họ trở thành những kẻ vô sản chính hiệu. Trên thế giới có đến hơn trăm triệu người như thế rải rác trên các đường phố.
Mặt luôn luôn cúi gầm xuống đất, họ chờ đợi cơ hội được đi Gia nã đại, nhưng khó khăn lắm. Trong hàng triệu người vô sản đó, Gia nã đại chỉ chọn một số giỏi dang mà thôi.
Chín giờ xe của phái bộ Gia nã đại mới đến, còi vang inh ỏi. Họ gọi tên thí sinh ngay tức khắc. Cứ gọi đến hàng chục người một lần. Lúc đến trước bàn giấy, Pillat ngửi thấy mùi nước hoa Cologne, mùi thuốc lá và xà phòng, dấu hiệu của tình trạng toàn hảo của các thương gia. Ba người Gia nã đại nhìn chăm chăm từng thí sinh, từ đầu đến chân như là lúc đi mua ngựa, vì họ phải trả tiền di chuyển cho ai được di cư.
- Anh ở quốc gia nào?
- Lỗ ma ni. Pillat trả lời.
Phái bộ Gia nã đại chỉ thích người Bắc âu vì họ cao lớn và cần cù hơn, với lại họ ít ngoan cố và sống lâu.
- Anh làm nghề gì?
- Cựu thẩm phán.
Trả lời như thế Pillat thấy hình như họ không bằng lòng, vì ai cũng nhìn chàng một cách khó chịu. Một người hô ngay:
- Gọi người tiếp theo.
Rồi bảo Pillat ra ngoài. Chàng hỏi lại:
- Các ông không nhận tôi sao?
- Trường hợp anh thế là xong rồi.
- Tôi muốn biết là tôi được nhận hay không?
- Không. Chúng tôi không nhận anh.
- Các ông thấy tôi có gì không vừa ý?
- Chúng tôi không dùng những người trí thức. Anh có thể ra ngoài. Hai chữ trí thức được phát ngôn một cách hằn học và dữ dằn. Pillat hỏi ráng:
- Các ông nghĩ là một người trí thức không đốn ngã một cây ở Gia nã đại sao?
Và giọng nói của chàng có vẻ van nài:
- Xin các ông rộng lòng nhận tôi đi.
- Không.
- Các ông chê giới trí thức ở chỗ nào? Chúng tôi có thể làm công việc như những người khác vậy chứ.
- Không, anh không làm được như họ. Người trí thức không làm được việc lao động, vì không có bắp thịt. Anh có thể ra ngoài đi, anh bị từ chối rồi.
Pillat bỏ đi, không còn gì để hỏi nữa, lý do đã quá rõ ràng cho chàng hiểu rồi. Chàng bỏ đi, rời khỏi văn phòng mà không hiểu phải đi đến nơi nào. Marie đợi chàng ở ngoài đường. Nàng nhảy chồm đến Pillat, hót lấy cổ chàng và khóc.
- Em được họ chấp nhận rồi. Có 100 người mà chỉ một mình em được nhận mà thôi.
Marie ôm cứng lấy Pillat, nàng chưa bao giờ sung sướng như thế từ ngày bỏ Piatra mà trốn đi. Nhưng trong cơn hạnh phúc đó nàng có cảm tưởng là vai, mặt, cổ của chồng lạnh ngắt như người chết. Nàng hoảng hốt.
- Họ không nhận anh sao?
- Không, họ không thích người trí thức. Người trí thức không có bắp thịt.
IV
Lúc Pillat và Marie bỏ đi, thì trong một toán mười người khác bước vào văn phòng phái đoàn Gia nã đại, có một người đàn ông vạm vỡ đứng tuổi bước vào trước ba người Gia nã đại. Ông ta hơi cảm động nhưng bước đi vững chắc, đến trước bàn giấy ông nghiêng mình chào như đã có thói quen nghiêng mình trước vị linh mục trong làng.
- Ông thuộc quốc gia nào?
Người nông dân rụt rè một chút rồi trả lời:
- Tôi tên là Ion Kostaky, người Lỗ ma ni, 40 tuổi, tôi là dân cày ruộng và ngoài ra tôi không biết một tiếng Đức nào nữa cả.
Kostaky đọc thuộc lòng câu trên bằng tiếng Đức, không sai tí nào như ông đọc một câu thơ. Đọc xong, ông nhìn kỹ ba người lạ để xem họ quyết định tối hậu như thế nào.
Cả ba người rũ ra cười. Người ngồi giữa hỏi:
- Ông học câu đó ở đâu thế?
Ion Kostaky muốn đoán câu hỏi đó có nghĩa gì, nhưng không thể được. Tuy nhiên, ông thấy ba người đó nhìn mình kỹ càng và không tỏ ý chê bai. Buộc lòng ông ta lập lại:
- Tôi tên là Ion Kostaky, người Lỗ ma ni, 40 tuổi. Tôi là dân cày ruộng, và ngoài ra tôi không biết một tiếng Đức nào nữa cả.
- Hoan hô, tuyệt hảo (họ cười ngất), đúng là một công dân tương lai tài ba của Gia nã đại, ông được nhận.
Ion Kostaky nhìn họ, trông thấy họ cười đùa nhưng không hiểu họ nói gì. Ông trưởng phái đoàn nói:
- Du Kanadian, verstanden? (ông là người Gia nã đại, hiểu chưa?) Kostaky thấy ngón tay ông ta chỉ về phía mình và nghe tiếng «Gia nã đại» ông Kostaky biết là mình được chấp nhận; ông thầm cám ơn trời, rồi nghiêng mình trước phái đoàn như đã nghiêng mình trước cha Thomas Skobay ở Piatra.
Viên thư ký cầm tay ông và giải thích:
- Ông dễ thương lắm. Ông cứ ăn và ngủ ở đây. Sau đó ông sẽ đi Gia nã đại với mấy ông này. Trong lúc chờ đợi, ông được chấp nhận vào phái đoạn rồi đó.
Sau đó, Kostaky được đưa xuống ăn uống và hút thuốc, bao nhiêu khó khăn trở ngại đều không còn nữa. Nhưng đang lý biểu lộ niềm hạnh phúc đó, Kostaky lại bật khóc. Iliéna, nhà cửa ở Piatra, Marie và Pillat, tất cả chỉ còn là hình bóng trong ký ức ông mà thôi. Không nhà cửa, làng mạc, gia đình, ông không thể nào vui được, và không ăn uống gì được nữa. Qua cửa sổ, qua làn nước mắt, ông muốn thấy lại làng mạc, nhà cửa, gia súc, tất cả những người thân yêu; nhưng sự thực chỉ là những người xa lạ đang qua lại trước cửa sổ.
Dù xuất phát từ đâu, tất cả những người tị nạn đều gặp nhau ở Đức Quốc. Pillat gặp lại Motok, ăn mặc rất lịch sự, tay đeo đồng hồ vàng, xách cặp da và hút thuốc Mỹ. Cùng với Aurel Popesco, Salomon, Motok buôn chợ đen rồi giàu to. Nhưng hắn vẫn muốn bỏ đi.
Ở Đức, người ta có thể chết đói hay là buôn lậu rồi bị bắt giam vì thế mà Motok đến trình diện cùng một lượt với Marie, Varlaam, Pillat và Petrovici trước phái đoàn Úc Châu vừa mới đến Stuttgart.
Bác sĩ Petrovici, như thường lệ, lên tiếng tố cáo hiện đại.
- Âu Châu là lục địa biến đổi nhiều nhất. Âu Châu bán công dân theo kích thước và sức nặng cho các lục địa khác. Tất cả phái đoàn đó đến đây chỉ nhìn chúng ta theo kích thước và sức nặng. Không có gì nữa trong con người liên quan với họ trừ trọng lượng và bề cao.
Mọi người được yêu cầu điền vào tờ giấy kể lại cuộc đời mình từ trước đến nay, xong họ được đưa vào một căn phòng rộng đầy đủ dụng cụ y khoa để căn đo, khám nghiệm. Đàn ông đàn bà ở hai phòng khác nhau. Phần thí nghiệm kỹ càng như ở trong một bệnh viện. Cô ý ta người Anh lễ phép nói:
- Các ông đừng để giấy tờ xuống đất, vi trùng nhiều lắm đó.
Ante Petrovici cắn giấy vào miệng và cởi áo quần. Tất cả thí sinh đều trần truồng trước ba người nữ y tá tóc vàng cùng với những dụng cụ y khoa trắng tinh. Ở đằng trên những dụng cụ đó, những người tị nạn có thể trông thấy xứ Úc đại lợi như là một mảnh đất hứa hẹn.
- Nắm hết sức đi.
Người nữ y tá bảo Petrovici nắm chặt một dụng cụ như nắm gươm.
- Trời, ông chưa bao giờ đo sức mạnh bắp thịt sao?
Sau đó, cô ta đưa dụng cụ đó cho Pillat. Con đường đi Úc đại lợi phải đi qua quả nắm đó.
Sau khi đo sức mạnh bắp thịt, mười người trần truồng đó được trích máu đầu ngón tay nhỏ lên từng tấm kiếng nhỏ. Không thể qua Úc châu nếu không cho một giọt máu.
Petrovici run sợ. Pillat bình thản nhìn những mảnh kiếng đựng máu chàng và đồng bạn.
Rồi sau đó lại bị lấy máu ở mạch máu bỏ vào các ống nghiệm. Chưa hết, mỗi thí sinh phải thổi mạnh vào một ống cao su để đo dung tích buồng phổi.
Và đến phần quyết định cho Petrovici. Mặt ông ta tái nhợt khi bước chân đến cái thước đo bề cao. Pillat thấy ông ta thóp bụng nhón chân cao lên một chút. Người y tá ra lệnh:
- Ông đứng thẳng như thường đi.
Petrovici đành phải đứng yên, nhưng vẫn cố nhón lên chừng 2cm. Nên khi người nữ y tá hô to độ cao của mình, Petrovici sung sướng thấy mình đã thắng cuộc, ông ta nói nhỏ với Pillat:
- Tôi chỉ cần 2cm thôi, và thế là được rồi đó.
Sau khi cân đo, tất cả lại được đưa vào rọi kiếng. Pillat, Motok, Petrovici sắp hàng chờ. Bàn tay mang găng của bác sĩ sờ soạng từng người trong bóng tối. Mọi người chừng 10 phút. Đến lượt trung úy Varlaam, người tráng kiện nhất trong bọn. Bác sĩ hỏi:
- Ông nằm nhà thương bao lâu?
- Tôi chưa bao giờ nằm nhà thương cả. Varlaam quả quyết trả lời như thế.
Vị bác sĩ chỉ vết sẹo trên ngực Varlaam rồi bảo:
- Ông đã bị thương ở đây, vì sao ông nói là không bao giờ nằm nhà thương cả?
- Tôi chưa bao giờ nằm nhà thương, chỗ bác sĩ chỉ đó là một vết trầy da. Tôi là phi công, một hôm tôi bị một mảnh đạn nhưng không hề bị thương nặng. Áo tôi bị cháy và da tôi bị trầy đôi chút. Hồi đó họ băng sơ cho tôi và ngày hôm sau tôi lại nhận công tác như thường. Tại sao bác sĩ cứ đinh ninh là tôi bị thương?
- Ông có một vật lạ trong phổi ngay nơi chỗ có vết sẹo, rất có thể là một mảnh đạn.
Varlaam mỉa mai trả lời:
- Nếu tôi có mảnh đạn trong ngực thì tôi đã có cảm tưởng là nó ghim vào phổi chứ?
- Tôi sẽ chụp hình và ông sẽ thấy nó tận mắt.
Varlaam lại được đưa vào phòng tối. Mấy người khác lo mặc áo quần.
Bác sĩ bảo Varlaam mặc áo quần lại, trong lúc đợi rửa phim, Varlaam lại biện minh cho lý lẽ của mình:
- Nếu tôi có mảnh trong phổi, tôi đã không hoàn thành hàng ngàn phi vụ trên đất địch, ở Nga Sô và tôi đã không nhận hàng nửa tá huy chương.
- Thì ông nhìn đây.
Vị bác sĩ cầm phim đưa ra trước cửa sổ, Varlaam nhìn mà không quan tâm đến những bóng mờ trên phim. Bác sĩ giải thích:
- Ông thấy rõ chấm đen nầy chứ, đúng là một vật lạ trong phổi ông rồi đó.
- Nếu thật sự có mảnh đạn, điều đó đối với tôi không quan hệ gì. Nó không có gì làm tôi khó chịu cả. Vật lạ đó không cản trở tôi trong hai năm trời, ngày cũng như đêm, bay trên nền trời của xứ địch. Vật lạ đó không cấm tôi ăn, ngủ, nhẩy đầm, tôi hoàn toàn khỏe khoắn, cho nên nó không phiền hà gì tôi và tôi đã từng bay cao hàng ngàn thước qua các giàn trọng pháo mà tôi cũng không thấy khó chịu gì cả. Với mẫu kim khi đó trong ngực, tôi đã trở thành anh hùng của không quân, thi cùng với nó tôi sẽ trở thành người chăn cừu, người làm ruộng hay phu quét đường phố ở Úc châu, vì tôi cho là các ông không có công việc gì khác cho các người tị nạn.
- Chúng tôi chỉ nhận những người di cư có những buồng phổi tốt, lành lặn.
- Tôi cũng mong là tất cả những dân Úc châu đều có bộ phổi như tôi là cùng.
Nói xong, Varlaam hằn học gài nút áo và rời phòng khám không cần ngoái cổ lại chào ai cả.
Vị bác sĩ còn tiếc rẻ:
- Chúng tôi có thể cho hắn cái may mắn là sẽ mổ cho hắn mảnh dạn nầy. Nếu hắn muốn nghe lời tôi khuyên nhủ, hắn sẽ trình diện lần khác nhưng với thái độ đó...
Mấy người tị nạn lại được vào phòng tối khác để nha sĩ khám răng bằng quang tuyến. Vị nha sĩ nói với Petrovici:
- Ông cần chụp phim hàm răng. Có lẽ điều nầy không làm ông ngạc nhiên. Ở Úc châu, chúng tôi có mức sống mà các ông không thể tưởng tượng nổi ở Âu châu. Cô thể là Âu châu có trình độ văn hóa cao hơn nhưng về mức sinh sống thì chúng tôi cao hơn nhiều. Cũng thường tình vì chúng tôi ở trên một lục địa còn mới mẻ.
Rồi vừa chụp hình hàm răng Petrovici, vị nha sĩ nói thêm:
- Khoa xã hội học chúng tôi không giống các ông ở Âu châu. Ví dụ Khoa vệ sinh xã hội chúng tôi tân tiến hơn. Chúng tôi đã giải quyết vấn đề chủng tộc rất khoa học, vì ở Úc châu ai cũng có tinh thần khoa học cả. Nhờ tinh thần đó mà trong vài năm nay ở Úc châu chúng tôi có một dân tộc rất khá; sở dĩ thế là nhờ chúng tôi biết săn sóc kỹ lưỡng các cuộc hôn nhân, các cuộc pha giống, các vấn đề di cư, nghĩa là bằng các phương pháp rất ôn hòa và khoa học. Chúng tôi không giải quyết vấn đề chủng tộc như các ông ở Âu châu, bằng cách thức man rợ như Hitler như việc đốt cháy người Do thái và các nòi giống thấp kém khác. Chúng tôi cư xử với các nòi giống thấp kém đó bằng các phương pháp khoa học chứ không đốt họ đi. Vấn đề chủng tộc cũng có dưới nhãn quang khoa học, nhưng chúng tôi không giải quyết trong các trại tập trung. Chúng tôi nghiên cứu vấn đề đó trong các phòng thí nghiệm và các văn phòng để đưa đến một giải pháp nhân đạo.
Petrovici muốn bịt tai lại. Từ khi bà vợ Lidia của ông bị đốt cháy, Petrovici không chịu nổi những bàn cãi về chủng tộc cao sang và thấp hèn. Từ lúc mà Milan Paternik đã nhân danh các nguyên lý của hắn để giết chết chính mẹ hắn cũng như 800 người Serbes và Do Thái, ông không muốn nghe ai nói đến vấn để chủng tộc nữa, ngay cả một giải pháp ôn hòa.
Petrovici thấy ngã bệnh chỉ vì nghe nói đến chữ chủng tộc, bởi vì nhân danh chữ đó, Lidia đã bị đốt. Thân thể Lidia đã từng ngủ bên cạnh ông, những ngón tay Lidia đã từng uyển chuyển trên phím đàn vĩ cầm cũng đã bị đốt nhân danh chủng tộc. Petrovici thấy tim mình khắc khoải vì chữ chủng tộc đồng nghĩa với lò sát sinh, sát nhân. Ở cửa miệng ông nha sĩ người Úc đó, sự pha giống y hệt như ở súc vật, Petrovici muốn trốn khỏi căn phòng. Vị nha sĩ đã đưa phim về phía cửa sổ và mỉa mai:
- Nào, ông nhìn xem, bộ răng của ông đấy.
Petrovici lại gần nhìn hình bộ xương đầu của mình. Một cái gì đăng đắng đầy miệng ông ta. Không ai muốn người ta chỉ cho mình xem một bộ xương và bảo rằng đó là cái đầu của chính mình. Chỉ còn cái xương đầu y hệt như bộ xương của người chết.
- Ông có thấy bộ răng của ông chưa?
Petrovici tái mặt, trong lúc vị nha sĩ nói tiếp:
- Ông thấy rồi phải không? Vậy thì ông không thể nào đến Úc châu với bộ răng như thế được.
Petrovici định không trả lời nhưng ông ta nhẫn nại:
- Tôi sẽ chữa răng, ông xem bao nhiêu là biến cố vừa mới đổ lên đầu dân Âu châu.
- Nhưng trong lúc này, ông không thể di cư sang Úc châu. Không thể nào được cả. Trên nguyên tắc, chúng tôi không chấp nhận những người mang hàm răng giả, nhưng ông cứ ráng xem sao. Chúng tôi không chấp nhận hàm răng giả, Úc châu như thế đó. Mà ông nhìn xem, ông thì chắc chắn phải cần một hàm răng giả rồi đó.
- Nhưng các phần khám nghiệm khác tôi đã qua được cả rồi.
Nói thế và Petrovici xiết chặt cái cà vạt như muốn tự xiết cổ cho chết vì cái ô nhục này to tát quá.
- Phần hàm răng là chính yếu, hoàn toàn chính yếu. Tôi không hiểu là điều này đối với Âu châu thế nào, chứ với Úc châu, bộ răng có phận sự đặc biệt, ưu tiên, trong nghĩa chính xác của nó.
Petrovici điếng người vì những tư tưởng đó. Ông ráng cãi:
- Nếu giả thử tôi là một người tài ba, như Michel Ange hay Goethe chẳng hạn, liệu ông có từ chối quốc tịch Úc đại lợi chỉ vì tôi thiếu vài cái răng không? Tôi đặt câu hỏi này hoàn toàn vì tò mò mà thôi. Bởi vì nếu như thế thì chúng tôi cho là kỳ dị quá. Tôi muốn nói là những giá trị nơi con người như luân lý, trí thức, nghề nghiệp, có những thiên tài về tình thần có giá trị hơn vài cái răng chứ.
- Không có gì bằng và thay thế được một bộ răng tốt cả. Những khám phá khoa học mới đây rất chính xác, và khi chúng tôi được giao trọng trách về vấn đề di cư, chúng tôi cứ y theo những nguyên tắc khoa học. Ông nói đến những giá trị luân lý ư? Tất cả đều phải đi qua cửa miệng. Tất cả nền luân lý đều phải thế, ông chấp nhận như thế không nhỉ? Và từ của miệng hôi thối, chỉ phát xuất những điều xấu xa. Răng xấu thì vấn đề tiêu hoá cũng xấu. Tiêu hóa xấu thì năng lực làm việc kém đi và hay bị cáu kỉnh, điều này gây ra bất mãn và từ bất mãn sẽ đi đến xung đột, đi đến việc không tôn trọng hợp đồng làm việc chẳng hạn. Hợp đồng đó mà không tôn trọng thì sẽ gây ra nạn thất nghiệp; có nghĩa là nạn nghèo đói và phản động, con đường dẫn đến tội ác hỗn loạn và những âm mưu chính trị và nếu ông hỏi tại sao thì câu trả lời đã sẵn sàng. Chỉ vì ông thiếu mấy cái răng. Một quốc gia mà công dân toàn mang bộ răng yếu ớt là một quốc gia suy yếu về tất cả khía cạnh tinh thần và kinh tế. Tôi nói với ông giản dị có thế thôi, chứ vấn đề thật ra đã được nghiên cứu kỹ càng hơn nhiều.
Tất cả yên lặng. Vị nha sĩ vẫn cầm cái phim đầu của Petrovici nơi tay. Motok, Pillat, Petrovici không nói nửa lời.
- Tạm thời ông không thể nào di cư được, Chúng tôi buộc lòng từ chối ông. Pillat cầm tay Petrovici kéo ra đường. Marie chờ trước cửa có vẻ hài lòng, nàng chỉ sợ Pillat bị từ chối nên hỏi ngay.
- Anh được nhận không?
Pillat gật đầu. Nàng phóng lại ôm chầm lấy chồng nhưng Pillat không hôn trả, chàng đứng yên như bức tượng. Petrovici nói:
- Hy vọng là việc tôi bị từ chối không làm phiền lòng ông bà. Đương nhiên là ông bà đang vui sướng rồi đó nghe.
Đánh máy: Nguyễn Đ Thanh & Ct.Ly
Nguồn: Nhà xuất bản Lá Bối ngày 7- 10- 1968
casau - VNthuquan.net
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 15 tháng 10 năm 2014