V & VI & VII & VIII
dịch giả: hằng hà sa và bích ty
V & VI & VII & VIII
rước khi đi Úc đại lợi, Pillat đến hội Hồng Thập Tự ở Francfort:
- Chúng tôi sẽ di cư sang Úc châu, và sẽ khởi hành trong vài tuần nữa. Nhưng trước khi đi, chúng tôi muốn biết là ở Đức hiện có một người Lỗ tên là Ion Kostaky xin tị nạn đến không? Ông ta là cha vợ tôi. Tôi tin là Hồng Thập Tự có đầy đủ danh sách những người tị nạn. Nếu ông ta không đến Đức thì chắc là chết hay bị người Nga bắt rồi.
Viên thư ký trả lời:
- Ông bà không còn hy vọng gì gặp lại Ion Kostaky nữa, tại sao ông bà lại không đến tìm sớm hơn, ông ta đã di cư qua Gia nã đại cách đây 15 hôm rồi. Chưa chắc chắn, viên thư ký còn đọc rõ tên họ, sinh quán, nghề nghiệp của Kostaky cho Pillat nghe. Marie khóc ròng:
- Đúng là ba rồi chứ còn ai nữa.
Và họ buồn rầu đi bộ đến ga xe lửa. Tàu đi Stuttgart vừa mới chạy, chuyến sau cũng phải đến ngày mai mới có, họ đành ở lại phòng đợi nhà ga cho qua đêm, cả hai đều ân hận là không kiếm Kostaky sớm hơn. Trên đầu họ một bản thông cáo dán sẵn: «Nhà ga đóng cửa lúc 10 giờ. Không được ở lại trong phòng đợi hay trên sân ga». Bên cạnh đó một bản thông cáo khác: «Ai đi ngoài đường sau mười một giờ sẽ bị bắn».
Họ đành lại phải đứng dậy đi. Khách sạn không còn nữa, nhà cửa bị dội bom nát hết cả rồi. Một người qua đường cho biết là có một nhà trú ẩn ở trước nhà ga. Họ bước vào trong một căn hầm đổ nát có giường cho thuê. Mệt mỏi, cả hai nằm xuống giường, lấy xách kê đầu. Marie vẫn khóc tỉ tê vì không còn hy vọng gặp lại cha, rồi lại nghĩ đến đứa con còn trong bụng. Pillat bảo:
- Em biết không, anh đã tìm ra tên đặt cho con rồi. Nếu là con gái, chúng ta cứ gọi là Doina Australia. Doina có nghĩa là tên một bài hát Lỗ ma ni nói về sự lưu đày não nề. Còn Australia thì để kỷ niệm tổ quốc mới của chúng ta.
Marie sung sướng nghĩ rằng họ sẽ đến Úc châu và con nàng sẽ sinh ra trong một quốc gia chứ không ở trên bước đường lưu lạc như bây giờ. Như thế họ thiếp đi trong giấc ngủ có tên Doina Australia ám ảnh.
Lúc họ tỉnh dậy, ánh sáng đã chiếu vào căn hầm. Cái áo Marie để trên đầu và đôi giày biến đâu mất. Không còn ai trong hầm nữa, nên họ chẳng biết phàn nàn cùng ai cả. Pillat xổ xách tay ra chỉ còn kiếm được một đôi giày lính. Marie mang vào, rộng thênh thang, nàng nức nở khóc. Xổ xách tay Marie ra, Pillat tìm thấy một gối mềm. Thì ra đó là một cái áo trắng bằng Voile.
- Áo cưới của mẹ đó. Em mang theo lúc đi. Em nghĩ là...
Trong nước hồi đó không còn tục đám cưới theo nghi lễ tôn giáo nữa. Marie mang theo với hy vọng một ngày nào họ sẽ lại làm đám cưới ở nhà thờ. Pillat bảo:
- Thôi em cứ mặc đỡ áo này đi. Thắt chặt dây lưng một tí sẽ ngắn bớt lại ngay.
Marie đành phải mặc áo cưới vì không còn cách nào khác. Giày rộng thênh, áo cưới, và xách mang trên vai, Marie vừa đi vừa khóc, nhưng không ai nhìn nàng cả. Không còn ai ở đây ngạc nhiên về điều gì nữa cả.
Họ đến sở cảnh sát. Viên cảnh sát trưởng lắng nghe rồi bảo:
- Tôi có thể cấp cho ông bà một giấy chứng nhận là ông bà đã khiếu nại bị mất cắp. Với giấy chứng nhận đó, ông bà đến trình ở sở cấp phát quần áo và xin phiếu mua áo. May là ông bà chỉ mất quần áo thôi đó, lần sau đừng có vào trong nhà trú ẩn đó nữa. Mỗi đêm người ta thường thấy người bị ám sát chết trong hầm đó là thường.
Sở cấp quần áo ở ngay bên cạnh. Người ta mời ngồi và cùng lắng nghe câu chuyện sau đó, viên công chức hỏi giấy cư ngụ. Pillat trả lời:
- Chúng tôi có giấy tờ, chứng nhận di cư và, một giấy khác chứng nhận bị mất cắp.
- Chúng tôi không thể cấp phiếu mua áo quần nếu không có giấy cư ngụ.
- Nhưng đây là trường hợp đặc biệt. Ông nhìn xem, vợ tôi không thể lên đường bằng bộ áo cưới và giày lính thế này được. Ông nghĩ lại xem. Tôi van ông cấp cho, trong trường hợp đặc biệt này, vì ngoài cái áo cưới này, vợ tôi không còn cái nào khác.
- Đối với luật lệ, vợ ông trần truồng. Áo cưới không được xem như là áo quần mặc thường ngày. Trước mặt tôi và trước mặt pháp luật, bà đang ở trần, hoàn toàn trần truồng, nhưng dù thế nào đi nữa, chúng tôi không thể cấp phiếu mua áo được, cần phải có chứng chỉ cư ngụ.
Pillat nhớ lại là muốn có giấy cư ngụ phải có giấy làm việc và muốn có giấy làm việc phải có chứng chỉ cư ngụ và bây giờ...
Biết van nài vô ích, họ lên tàu đi Stuttgart, Marie mang áo cưới và giày lính với đôi mắt đỏ hoe. Niềm an ủi duy nhất cho nàng là chẳng ai trên tàu thèm để ý đến nàng cả. Không ai chú tâm đến cái áo cưới kỳ dị đó, bởi con người không còn để ý đến nhau nữa.
Không còn gì phi thường, lạ lùng đối với họ nữa. Và đó chính là điều phi thường nhất: phi thường ở chỗ không còn gì đáng cho là phi thường nữa.
VI
Lúc Pillat đi rồi, một phái đoàn Argentine đến Stuttgart. Tất cả ai bị các phái đoàn trước từ chối đều đến trình diện.
Có cả Motok, Varlaam và bác sĩ Petrovici lúc nào cũng mang theo giấy tờ giả mạo.
Lúc họ được đưa vào phòng, ai cũng ngạc nhiên. Phái đoàn Argentine không có dụng cụ máy móc gì cả, không máy đo bắp thịt, máy quang tuyến. Chỉ có hai người đàn ông và một người đàn bà mặc đồ đen có mang thánh giá bằng vàng trước cổ – người đàn bà là trưởng phái đoàn và hình như gốc Tây Ban Nha, và có vẻ cương quyết lắm. Bà hỏi Motok:
- Ông làm nghề gì?
- Công chức hỏa xa.
- Công chức gì?
- Kiểm soát viên. Tôi biết bốn thứ tiếng, có mười hai năm thực hành.
- Trong lúc này, chúng tôi chỉ chọn những người có nghề tay chân thôi, thợ may, thợ mộc, thợ luyện kim, sau này, chúng tôi sẽ chọn người có nghề khác. Nhưng ông đừng thất vọng. Hãy tin ở Chúa. Chúa phán xét con người và giúp người thành công và chỉ có Chúa mới mang lại vinh quang.
Motok nhìn đôi mắt lạnh lùng của người đàn bà. Hắn ngửng đầu nhìn và bắt gặp đôi mắt Chúa từ trên thánh giá. Chúa Giê su muốn giữ Motok lại, muốn để cho hắn nói, nhưng người đàn bà đã dõng dạc ra lệnh:
- Người tiếp theo.
Đến lượt Varlaam.
- Tôi là phi công.
- Chúng tôi có đủ phi công rồi. Tất cả phi công của các nước thất trận đều tị nạn ở Argentine. Trong lúc này chúng tôi chỉ cần thợ máy bay thôi. Tiếc thay ông không phải là thợ máy.
Rồi đến lượt Petrovici.
- Tôi là giáo sư trường sửa đồng hồ Iéna.
Vừa nói Petrovici vừa để lên bàn chứng chỉ có chữ ký của vị chủ tịch hiệp hội các nhà sửa đồng hồ ở Thuringe và mười hai người giáo sư khác. Có ghi bằng chữ vàng là hiệp hội thợ sửa đồng hồ chấp nhận bác sĩ luật khoa và toán học Ante Petrovici là giáo sư sửa đồng hồ của hội.
Thế là người đàn bà mỉm cười, thiện cảm, Petrovici tự giới thiệu thêm:
- Lúc tôi còn là sinh viên, tôi đã học sửa đồng hồ ba năm tại một tiệm ở Iéna. Hồi đó, sinh viên vẫn thường tự học thêm thủ công nghiệp. Năm tôi đổ tiến sĩ luật và toán, tôi lấy luôn chứng chỉ sửa đồng hồ. Tôi có thể tháo ráp một đồng hồ tay trong ba mươi phút. Lấy được chứng chỉ đó khó lắm.
- Và đó mới là điều quan trọng. Argentine hiện đang cần giáo sư sửa đồng hồ. Bây giờ ông hãy qua khám nghiệm y khoa đi. Tôi tin chắc là ông hoàn toàn có sức khỏe; người nào có nghề thủ công cũng là người khỏe mạnh cả.
Ante Petrovici thầm nghĩ: Không ngờ vận hội của mình lại là cái mảnh bằng học một cách tài tử hồi còn trẻ. Argentine không muốn mảnh bằng tiến sĩ luật hay thạc sĩ toán, cũng không thích khả năng hành chánh dồi dào của một cuộc đời công chức dài đăng đẳng của mình. Argentine chỉ thích mình ở chức vụ giáo sư sửa đồng hồ, thế mà từ lâu mình bỏ quên hình dạng đó nơi con người mình, người thợ sửa đồng hồ trong ông thạc sĩ toán và tiến sĩ luật Ante Petrovici. Mảnh bằng duy nhất còn giá trị: sửa đồng hồ.
Trong lúc người đàn bà đang viết phiếu khám nghiệm y khoa, Petrovici tiếp tục nghĩ về mình.
- Đó là điều còn lại sau cùng của mình, một người sắp làm nghề sửa đồng hồ ở Tân thế giới, một thợ thay lò xo đồng hồ, thay mặt kiếng vỡ, sửa con lắc và chuông báo trong các đồng hồ đánh thức của xứ Argentine, cho những người ở Tân thế giới. Và đó là điều mà Tân thế giới tìm được nơi mình. Hoan hô bác sĩ Petrovici. Tân thế giới chỉ đòi hỏi một điều thôi: nghề sửa đồng hồ. May mà mầy còn có cái nghề sửa đồng hồ nếu không thì mầy chết rồi. Vì chính Tân thế giới điều khiển vũ trụ và Tân thế giới không cần người trí thức mà chỉ cần thợ sửa đồng hồ. Điều duy nhất mà Âu châu mang lại cho con cháu là đem bán chúng ta theo thước tấc và sức nặng, bán từng lá phổi, từng phân mét cho Tân thế giới. Và Tân thế giới chỉ chọn những gì họ thích, nơi mình, họ chỉ chọn có nghề sửa đồng hồ.
Người đàn bà hỏi:
- Ông có đạo Thiên chúa?
- Vâng, đương nhiên là có đạo Thiên chúa rồi.
Petrovici nuốt nước bọt, choáng váng rồi cố rướn cổ lên để tìm một ít không khí để thở. Ở đàng sau phái đoàn, tượng Chúa trên Thánh giá hình như xoắn lại, không vì đau đớn mà vì thương hại cho Petrovici bị bắt buộc phải nói dối. Petrovici sinh ở Bosnie dưới thời lệ thuộc Thổ nhi kỳ, dân Bosnie bị bắt buộc theo đạo Hồi giáo. Ông nội Petrovici tuyên thệ bỏ đạo Thiên Chúa vì sợ bị chặt đầu và đành theo Hồi giáo. Đó là lý do tại sao Petrovici theo Hồi giáo như đa số dân Bosnie.
Bà trưởng phái đoàn hài lòng nhìn chứng chỉ rửa tội mà Petrovici tự tạo ra để được phép sửa đồng hồ tại Argentine:
- Chúng tôi chỉ nhận người có đạo Thiên chúa thôi. Ông đi khám nghiệm y khoa xong trở lại đây. Tuổi giới hạn là 40, ông hình như chưa quá 40. Với là chắc ông không bị tàn tật?
Người đàn bà nhìn giấy tờ. Toàn là đồ giả mạo hết, nhưng bà không hề biết. Petrovici nghĩ đến vài phân mét còn thiếu, nhưng ông ta thừa biết phải thóp bụng, nhón chân làm sao rồi. Ông ta nghĩ đến cái răng sâu, đến bàn chân phải không có lòng bàn chân và lo sợ hết sức. Nhưng người đàn bà nói:
- Những người thợ giỏi. Những người sùng đạo và khỏe mạnh. Đó là tiêu chuẩn của xứ Argentine. Ông hội đủ tất cả các điều kiện.
Petrovici lại khó thở, cố tìm không khí nào cho dễ thở. Ở trên cao có lẽ không khí trong sạch hơn. Ông ta ngẩng đầu lên. Trên thánh giá, Chúa Jésus đang nhìn vào đôi mắt Petrovici và hình như bảo: Chúa sẽ giúp đỡ cho những ai không có lòng bàn chân ở chân phải. Và giúp đỡ những ai cao không đầy 1m60. Ante Petrovici, con đừng sợ gì cả, bởi vì dù con theo Hồi giáo, Chúa cũng giúp đỡ người Hồi giáo như thường. Chúa ở bên cạnh con, ngay cả khi giáo hội của ta không thừa nhận con.
Petrovici bước ra ngoài mà không hề đi cà nhắc, đi như là ông ta không có một chân thấp hơn chân kia. Chúa đã nâng Petrovici lên một chút để cho người đàn bà đó không thấy Petrovici đi cà nhắc.
VII
Về đến nhà, Petrovici đã thấy Pillat trong phòng, Marie mặc áo cưới từ Francfort trở về một cách ô nhục. Họ kể cho Petrovici nghe về Kostaky và vụ mất cắp áo quần. Cầm một miếng biscuit nhai, Petrovici hứa hẹn:
- Chờ đây, tôi sẽ đi kiếm cho bà một cái áo và một đôi giày. Petrovici đi cà nhắc đến ngọn đồi trên cao của Stuttgart. Khu phố trên đồi là khu phố duy nhất không bị dội bom. Những biệt thự ở đó đã bị người Mỹ tịch thu và nhường lại cho người Do Thái còn sống sót ở trại tập trung. Đó là một xóm Do Thái bị quản thúc theo lối mới. Ở đó, hằng ngày tiêu thụ hàng triệu tiền marks. Mỗi đồ hộp vừa mới ở nhà hàng bán ra đều đã tung vào khu Do Thái đó, trước khi qua hàng chợ đen. Tất cả những tác phẩm nghệ thuật, vàng bạc, tất cả vật dụng có giá của Đức quốc phải đi qua khu phố đó trước khi đến Hoa Kỳ. Mỗi điếu thuốc của lính Mỹ phải qua khu phố đó trước khi đến tay người dân. Ở đây không thiếu gì cả. Một số người trở thành triệu phú trong vài ngày. Ở đây có cả áo lông, tranh ảnh nghệ thuật, thức ăn, trái cây ngoại quốc, thuốc lá. Điều duy nhất mà người Do Thái ở đây không được phép giữ đó là tiền đô la. Quân cảnh lùng bắt rất thường để tịch thu đô la. Nhiều triệu phú trong vài phút trở lại nghèo nàn như lúc vừa mới bước chân từ trại tập trung ra.
Petrovici bước vào nhà bà Salomon. Ông không biết bà Salomon nguyên là cô Eddy Thall, bạn thân của Lidia, vừa ở miền núi Oural đến, đã làm trong chương trình thay đổi khí hậu ở Sô Viết. Ông cũng không biết là đứa con của Salomon vừa mới bị giết ở Varsovie.
Không ai biết gì về hành tung của ông bà Isaac Salomon cả trừ chuyện họ là nạn nhân của chủ nghĩa phát xít và bà Salomon là một trong những người đàn bà giàu nhất khu Do Thái ở Stuttgart. Petrovici ngỏ ý:
- Tôi đến xin bà một cái áo cho vợ một người bạn vừa bị mất cắp và không còn gì để mặc nữa.
Bà Salomon mở va ly và trao cho Petrovici hai cái áo đã cũ. Trong phòng, chỉ có một giường nằm, hai ghế, một bàn gỗ với nhiều va ly chồng chất lên nhau.
- Tôi đã được di cư sang Argentine.
Bà Salomon chỉ bức ảnh một trang trại đặt trên đầu giường bảo:
- Tôi cũng sắp di cư. Đó là một trang trại tôi mua được ở Gia nã đại. Chúng tôi hy vọng sẽ khởi hành trong vài tuần nữa.
Trang trại có ngôi nhà hai tầng và nhiều phòng rộng.
- Isaac đang lo chạy áp phe. Chiều mai anh ấy mới về với số tiền cần đủ cho chúng tôi đi Gia nã đại. Chắc là lần áp phe chót của anh ấy đó. Sau đó chúng tôi sẽ đi xa và yên ổn sinh sống.
Petrovici biết là Motok cùng đi với Isaac Salomon để lén lút bán mấy chiếc cam nhông hàng hoá trong vùng Sô Viết, nếu họ không bị bắt họ sẽ giàu to. Petrovici muốn về, nhưng bà Salomon cản lại:
- Aurel Popesco sẽ đến đây. Ở lại đây chơi chút đã.
Salomon bắt đầu nói về trang trại của bà ở Gia nã đại qua bức ảnh. Nàng ăn mặc thật sang với toàn đồ trang sức đắt tiền, giày dép đều đắt giá và theo kiểu Mỹ.
- Tôi nóng lòng rời bỏ người Mỹ cũng như hồi xưa tôi muốn trốn thoát trại tập trung. Thật ra người Mỹ đã chiến đấu để giải phóng người Do Thái ra khỏi các trại tập trung và hủy bỏ chủ nghĩa chống Do Thái. Ngày chiến thắng đã đến rồi. Và chúng tôi lại được quản thúc trong khu phố này, được ăn ở miễn phí, được tự do làm gì thì làm. Chúng tôi có thể trở nên triệu phú nhưng vừa lúc chúng tôi kiếm được tiền là người Mỹ đến đây để tịch thu ngay. Isaac đã nhiều lần giàu có. Nhưng đều bị quân cảnh lấy không còn một xu dính túi. Chưa đủ, lúc mà một đô la đến tay người Do Thái thì nó không còn giá trị gì nữa cả. Người Do Thái chúng tôi không trả tiền để du lịch được, không thể mua nhà được vì họ cấm chúng tôi trả tiền bằng đô la; chỉ còn một cách là mỗi khi kiếm được tiền chúng tôi đem chôn đi.
Nhưng chúng tôi cũng kiếm cách để giải quyết nỗi lo ngại đó, bằng cách là chúng tôi chia đôi tiền có được với một người Mỹ nào đó để họ chuyển cho chúng tôi sang Gia nã đại. Vài tuần nữa chúng tôi sẽ bỏ khu phố này mà đi.
Vừa lúc đó thì Aurel Popesco và Varlaam đi vào. Bà Salomon dấu vội tấm hình trang trại, nhìn hai người vừa đi vào và nhận ra Varlaam ngay. Đúng là viên sĩ quan đã đến Bucarest đòi cư ngụ trong ngôi nhà của bà bị chánh phủ tịch thu, nhân danh những luật lệ về chủng tộc. Nhưng Varlaam không nhận ra bà Eddy. Bà cố nhắc:
- Hình như chúng ta đã gặp nhau rồi thì phải.
Varlaam nhìn thật kỹ và không thể nhận ra nổi. Bà Salomon chắc chắn:
- Tôi chắc là chúng ta đã gặp nhau một lần.
Nhưng sau đó, bà không nhắc câu nói đó nữa mà chỉ nghĩ «Mình già đến độ người ta không nhận ra nữa ư?» cũng với ý tưởng đó, nỗi buồn to tát xâm chiếm tâm hồn bà. Varlaam quả quyết:
- Tôi không nghĩ là chúng ta đã gặp nhau. Với lại trí nhớ tôi khá lắm.
- Thôi chả quan hệ gì. Nói về công việc thì hơn. Ông bạn Aurel Popesco có nói với tôi là ông muốn di cư, nhưng ông bị tất cả các phái đoàn từ chối. Tôi có thể cho ông một cơ hội để trở về làm phi công như cũ. Muốn thế ông phải ký hợp đồng với Israel. Ông sẽ gia nhập không quân Do Thái với cấp bậc cũ mà ông đã có, nghĩa là trung úy phi công. Với tiền lương đầy đủ cộng với phụ cấp công vụ. Hợp đồng có giá trị trong suốt thời gian có chiến tranh giữa Do Thái và Ai Cập.
Bà Salomon giải thích thêm:
- Thay vì phải ở lại Đức lén lút bán bơ và thuốc lá với viễn tượng mỗi ngày là sẽ vào tù với những tên du đãng, ông nên làm chiến sĩ thì hơn. Về phương diện tinh thần thì thật là một vinh dự khi chiến đấu để bảo vệ cho Thánh địa Palestine.
Nghĩ đến các nước bên kia Đại dương không thèm chấp nhận mình làm thợ đốn củi, hay là quét nhà, Varlaam đáp ngay:
- Tôi nhận lời.
- Nhận lời thôi chưa đủ. Ông phải ra đi ngày mai tức khắc.
- Chả có gì giữ tôi lại nơi đây cả.
Bà Salomon chỉ thêm vài thủ tục cần làm, phải đi đến văn phòng quân sự trước mặt để ký hợp đồng, hay chụp hình và may quân phục.
- Ông sẽ ra đi trong bộ đồng phục sĩ quan của Do Thái, nhưng đừng mang tên cũ nữa.
- Nhưng có cần đổi tên lắm không?
- Ông cần có một tên Do Thái, lúc mà ông mang quân phục Do Thái.
Để tôi kiếm cho. Ông thích tên David không, tên có vẻ chiến sĩ lắm đó. Tiếp theo là Ozias, tên hay đó, phi công David Ozias của không lực Do Thái.
Bà Salomon đưa cho Varlaam 500 đô la, như là tiền đặt trước. Trước khi đi, Varlaam sẽ nhận lương một tháng bằng đô la. Bà Salomon hỏi:
- Ông biết giá tiền trên thị trường chứ nhỉ? Nói vậy chứ về tiền tệ đổi chác chắc với ông là một việc lạ lùng. Hiện nay giá trị con người ở ngân hàng Mạc tư khoa là một con số không. Ở Nữu Ước cũng không hơn không kém. Các phái đoàn bên Đại Tây Dương đến Đức mua người với một giá rẻ mạt, rẻ hơn cả một vé tàu hạng ba trên tàu thủy. Vì thế mà họ mua theo kích thước và sức nặng rồi chở lên tàu như súc vật. Trước khi đi ông sẽ nhận hơn hai ngàn đô la. Như vậy là tại ngân hàng Tel Aviv nhân vị cao hơn hết. Tôi nghĩ là hiện tượng đó có được là vì Israel là một quốc gia có tín ngưỡng. Trong một quốc gia như thế thì con người còn một chút giá trị. Tiếc thay Israel là quốc gia sùng đạo duy nhất trên thế giới.
Varlaam đã muốn đi. Nhưng bà Salomon gạn hỏi:
- Nhìn kỹ tôi một lần nữa xem có nhận ra tôi không?
Varlaam nhìn mái tóc đã bạc, đôi mắt đã nhăn chung quanh và trả lời:
- Thưa bà, tôi chưa bao giờ gặp bà.
Bà Salomon ứa lệ, nhưng ráng vui:
- Đừng quên tên ông đó nghe, David Ozias.
Cùng lúc, nàng nghĩ «Mình đã già lắm rồi».
*
Aurel Popesco bắt đầu nói chính trị như thói quen của ông ta.
- Trong vài ngày nữa sẽ có hội nghị của những quốc gia Âu châu bị Nga Sô chiếm đóng. Tôi đã cho người Hoa Kỳ biết rằng hội nghị đó là một biến cố chính trị hết sức quan trọng của thời đại này. Những lãnh tụ đảng Cộng sản Đông Âu muốn tách rời Nga Sô để thành lập một liên minh các nước Cộng sản quanh sông Danube. Chủ tịch liên bang sẽ là vị thống chế những người Slaves miền Nam. Mạc tư khoa đã biết rõ kế hoạch đó, và đã dùng Boris Bodnariuk trong công tác ám sát vị thống chế đó, trong lúc đó Hồng quân sẽ đổ bộ lên bờ Địa Trung Hải, có thể Hồng quân sẽ tiến đến Ý Đại Lợi. Tôi đã báo động cho Hoa Kỳ, và như thế không những tôi đã cứu Ý Đại Lợi và Vatican mà cứu cả nền văn hóa Tây phương; nhờ tôi mà quân đội Mỹ biết được đà tiến của Nga Sô. Chính tôi và ông bạn Milan Paternik đã có công cứu vớt Tây phương khỏi sự xâm lăng của Nga Sô.
Ante Petrovici chua chát:
- Ông bỏ thì giờ để cứu vớt một nền văn hóa và để giết người luôn thể. Ông giết người đã cứu nền văn minh, cứu văn hóa, cứu giáo hội ư? Hãy cứu người đi đã, và điều đó đáng hơn là cứu nhân loại. Bởi vì không có nhân loại, chỉ có người và con người mà thôi, ông bạn Aurel Popesco!
Nói xong, Petrovici cám ơn Salomon về hai cái áo, và ra về, ông ta đi cà nhắc hơn bao giờ hết.
VIII
Aurel Popesco thì cố giải thích cho bà Salomon vì sao các vị lãnh tụ cộng sản các quốc gia bị Nga chiếm đóng muốn chống đối Mạc Tư Khoa, vì sao Sô Viết sẽ giết thống chế những người Slaves miền Nam và lợi dụng cơ hội đó để tiến vào Đông Âu.
Trong lúc đó bà Salomon chỉ nghĩ đến trang trại của bà ở Gia nã đại. Bà lơ đãng nhìn ra cửa sổ thấy Varlaam ở văn phòng quân sự đi ra.
- Chính trị không liên quan gì đến tôi cả.
Nói xong, bà mời Aurel Popesco xuống lầu. Trời xẩm tối. Tất cả người Do Thái đều ra đường trước nhà. Trong tất cả khu phố của người Do Thái, đâu đâu cũng có hiện tượng đó. Lúc hoàng hôn xuống, người Do Thái nào cũng bỏ nhà, xuống phố để nghe ngóng tình hình. Sợ hãi đã thấm tận xương tủy. Cho nên trước khi vô nhà, gài cửa đi ngủ, họ phải ra đường để lấy tin tức về giá cả tiền tệ, về chính trị, về các phong trào chống Do Thái. Họ hỏi hết tất cả vấn đề để xem thử nên ngủ hay cần phải thức trắng đêm, để tính toán xem thử có gì đến với họ trong đêm, và họ có thể ngủ yên hay không. Aurel Popesco nhìn những người Do Thái đang tụm năm tụm ba trên đường phố. Bỗng nhiên xe cam nhông và xe quân cảnh Mỹ xuất hiện, bao vây khu phố. Bà Salomon giải thích:
- Họ lại đi kiếm đô la đó. Cứ mỗi tuần hai, ba lần, quân cảnh Mỹ xuất hiện nơi đây khi người ta báo cáo là có một vụ làm ăn mang lại khá nhiều đô la. Họ đến tịch thu hết đô la xong rồi lẹ làng chuồn đi. Ngoài đô la ra, họ không thèm để ý đến điều gì khác nữa.
Lính Mỹ đã bao vây một vài căn nhà. Bà Salomon nói tiếp:
- May mà Isaac không có nhà. Các vụ vơ vét đó đã làm chúng tôi điên đầu.
Cho nên ông thấy là tôi khoái bỏ đi lắm, chỉ khi nào đi khỏi đây chúng tôi mới sống tự do được. Isaac cũng thế, anh ấy không thể chịu đựng nổi. Đã nhiều lần họ lấy hết tiền của chúng tôi, lấy sạch sành sanh chẳng còn đô la nào cả. Bây giờ, họ có lên phòng tôi thì cũng chỉ tìm thấy áo quần dơ thôi.
Bà Salomon và Popesco đành đứng lại nhìn, không bước lên được, đường xá bị ngăn chặn hết.
- Chúng tôi sẽ được yên ổn ở Gia nã đại, ở đó chúng tôi có thể sống như bao nhiêu người khác.
Vào lúc đó có tiếng một vật gì lớn rơi xuống, đám đông la hét om sòm. Lính Mỹ tăng cường hàng rào ngăn chặn. Aurel Popesco nhón chân lên nhìn và bảo:
- Hình như có ai nhảy qua cửa sổ tự tử.
Đám đông vây quanh căn nhà có người tự tử, nhưng không ai đến gần được. Bà Salomon tái mặt, phải vịn vai Aurel Popesco.
- Tôi không còn chịu đựng nổi cảnh tượng này nữa. Giá mà tôi được rời khỏi nơi này càng sớm càng hay.
Xe hồng thập tự chạy đến, vài y tá đem xác chết lên xe. Mọi việc chỉ xảy ra trong vài phút.
Eddy Thall nhờ Aurel Popesco dẫn về phòng:
- Tôi kiệt sức rồi, không lên lầu một mình được nữa.
Họ rẽ đám đông đang bàn tán về vụ tự tử để trở về phòng.
Bà Salomon cảm thấy cái gì trơn ướt dưới chân. Thì ra bà đang đi trên vũng máu, đúng chỗ mà người chết vừa lao xuống. Eddy Thall muốn hỏi thử ai vừa mới tự tử, nhưng cặp mắt bà cứ trơ tráo nhìn vũng máu trên đường nhựa, vũng máu mà bà vừa bước chân lên, đôi giày hoa mỹ kiểu Hoa Kỳ đã dính máu. Vừa bước lên lầu, bà vừa thấy trước mặt hình ảnh vũng máu, chiếc xe hồng thập tự và đám đông đang vây quanh bà.
Một người Do Thái vừa nhảy qua cửa sổ tự tử, và điều đó xảy ra sau ngày chiến thắng. Vào lúc mà người Do Thái đã là sở hữu chủ những trái bom nguyên tử và viên giám đốc kỹ nghệ nguyên tử, Lilienthal, lại là một người Do Thái cùng quê hương với Lidia. Bà Salomon vẫn nói:
- May mắn là chúng tôi sẽ đi Gia nã đại.
Bà ta đã chóng mặt phải tựa lên tay Aurel Popesco mà đi. Bà muốn rửa đôi giày trước khi vào nhà để máu đỡ dính nền nhà.
- Ai tự tử đấy nhỉ?
- Tôi không biết. Người Mỹ chở ông ta vào nhà thương nhưng hắn chết rồi.
Vào phòng, bà Salomon nằm dài xuống giường.
- Làm ơn cho tôi thức gì uống, lạnh càng tốt. May là chúng tôi rời bỏ nơi nầy, từ giã cái xứ bạc bẽo nầy. Sung sướng mà đi được. Nếu Isaac có thể về sớm hơn được nhỉ? Nhưng mà Isaac chỉ trở về vào ngày mai khoảng 6 giờ và từ đây cho đến 6 giờ chiều mai, tôi phải ở đây một mình, cô đơn quá.
Bà khóc nho nhỏ. Qua làn nước mắt, bỗng bà thấy cái mũ của Isaac trên ghế. Bà mở to mắt ngạc nhiên. Rồi trên giường có cả áo choàng của Isaac đó nữa. Bà vùng dậy tưởng mình mê ngủ:
- Isaac về rồi hả? Anh ấy đâu rồi?
Cửa phòng xịch mở, và hai cảnh sát Do Thái bước vào. Bà Salomon hỏi:
- Isaac về rồi sao?
Hai người cảnh sát vẫn yên lặng. Bà Salomon nhảy chồm về phía họ với bộ áo vết trên tay, liên hồi hỏi Isaac ở đâu, nhưng hai người cảnh sát vẫn không trả lời. Họ bất động cho đến lúc bà Salomon ngả dài trên sân nhà với bộ áo của chồng bà còn trên tay. Hai người cảnh sát ẩm bà lên giường và giải thích:
- Tụi Mỹ ở lầu một, Isaac vội vã bước lên lầu. Rồi tụi Mỹ thấy ông ta bước vào phòng. Vài giây sau, ông ta lao mình qua cửa sổ.
Aurel Popesco hỏi:
- Nhưng mà đúng là Isaac hả?
Hai người cảnh sát cẩn thận nhìn lại bà Salomon đang bất tỉnh.
- Vâng, đúng là Isaac tự tử. Ông ấy là bạn ông? Hình như ông ấy có nhiều đô la và sợ bị tịch thu.
Hai người y tá vào phòng và bắt đầu đánh gió cho bà Salomon đang nằm sấp trên giường.
- Hình như Isaac Salomon bị mệt mỏi quá sức. Điều đó ông là bạn chắc ông hiểu rõ. Vâng, ông ta bị giao động quá mức, nên không thể trách ai về vụ này được. Đúng ra tụi Mỹ không có ý định khám xét nhà ông ấy. Họ rất ngạc nhiên về vụ tự tử này, và đã ngừng ngay cuộc bố ráp.
Trên giường, dưới người bà Salomon có cái cặp của Isaac Salomon đầy ắp cả đô la.
Hai người y tá lật bà nằm ngửa ra cho dễ chịu. Trước khi rời phòng, hai người cảnh sát nói với Aurel Popesco:
- Chào ông. Không phải lỗi của ai cả. Lỗi của người Mỹ lại càng không đúng mấy. Chúng tôi có chứng kiến vụ này. Ngay lúc mà Isaac nhảy qua cửa sổ, người Mỹ đã ngừng cuộc bố ráp.
Đánh máy: Nguyễn Đ Thanh & Ct.Ly
Nguồn: Nhà xuất bản Lá Bối ngày 7- 10- 1968
casau - VNthuquan.net
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 15 tháng 10 năm 2014