XII & XIII & XIV & XV
dịch giả: hằng hà sa và bích ty
XII & XIII & XIV & XV
nte Petrovici từ chối không đóng đinh vào chiếc thùng đựng Motok. Nhưng anh chàng nầy đã nhờ được một người bạn khác làm công việc đó. Đúng 7 giờ sáng chiếc thùng có Motok ở trong đến phi trường, được đặt cạnh chiếc máy bay đi Nữu Ước, cùng với các kiện hàng chiến lợi phẩm khác. Không ai khám phá được Motok đang ở trong, hắn lắng tai nghe được tiếng chong chóng quay, tiếng hành khách nói chuyện với nhau.
Hai người đàn ông đến gần thùng đựng Motok, họ nói với nhau bằng tiếng Nga. Motok đoán họ cũng là những hành khách bắt buộc như mình, nên hắn lắng nghe xem họ nói những gì. Một người tên là Igor và một người tên là Anatole Barsov. Hai người nầy đang cãi cọ với nhau. Theo dõi câu chuyện, Motok mới biết họ là hai phi công Sô Viết đã đào ngũ và những người Mỹ đang chở họ về Hoa Kỳ. Igor bảo:
- Mầy thật ngu độn. Nếu mầy cứ tiếp tục nói với tụi Mỹ là mầy trốn đi không vì những lý do chính trị thì tụi hắn sẽ trả mầy về nhà mầy ngay.
- Nhưng tao không thể nói dối được.
- Nhưng ít nhất mầy cũng phải nói những gì mà tụi Mỹ thích chứ. Bởi vì người Mỹ không cần những sĩ quan Sô Viết trốn qua xứ họ vì đã cãi nhau với vợ hay vì không thể trả hết nợ được. Người Mỹ nhận chúng mình và hậu đãi như những ông hoàng bởi họ cho là chúng mình trốn đi vì thù ghét chế độ. Cho nên thay vì nói với báo chí về những tàn bạo của Staline, của Boris, của cả chế độ cộng sản, mầy cứ lập lại như một thằng ngu là suốt ngày mầy cãi với vợ con, với cấp chỉ huy không đoàn và mầy đã bị thương ở chiến trường như thế nào. Mấy chuyện đó không liên hệ gì với tụi Mỹ cả, họ muốn mầy nói về Staline hơn.
- Tao không biết gì về Staline cả. Tao cũng chưa bao giờ thấy ông ta nữa, làm sao mầy bảo tao kể chuyện ông ta được.
- Thì mầy cứ bảo với họ là mầy có thấy Staline trong một cuộc duyệt binh, thấy ở đằng xa, rằng không ai có thể lại gần ông ta vì chung quanh toàn là lính gác người Caucase cao đến hai thước và trang bị vũ khí đầy đủ. Như là tao đã bảo với họ như thế. Mầy không để ý là tụi Mỹ thích những câu chuyện như thế lắm sao.
- Tao không thể làm như thế được.
- Thì cứ nói với họ là mầy trốn đi vì những lý do chính trị, rằng sự khủng bố đang ngự trị trên đất Sô Viết, rằng không ai muốn sống ở Nga Sô cả. Ít nhất là mầy cũng nói với họ là sĩ quan Sô Viết hút toàn thuốc lá dở ẹt, và chúng mình ăn uống không đầy đủ.
- Ừ, tao có thể nói với họ là ăn uống, thuốc men không đầy đủ, vì điều đó có thật.
- Bảo với tụi Mỹ là mầy đã chóa mắt vì xe cộ của họ, vì áo quần, sự ăn uống của họ, mầy thích thú đến cả với miếng sô cô la thơm ngon của họ, nói với họ là những thứ đó không có ở Nga Sô. Tụi Mỹ là những kẻ buôn bán, nên họ thích ai ca tụng họ là những quân nhân và nhà ngoại giao giỏi. Nếu mầy nói với họ như thế thì kể như sự nghiệp mầy đã tạo dựng xong xuôi rồi đó.
Barsov trả lời:
- Tao có lương tâm, tao không phải là một thằng nói dối. Mầy thì có thể như thế được.
- Mầy ngu lắm. Nếu mầy không nghe tao, tai họa sẽ đến với mầy, rồi mầy xem.
Nhân viên máy bay đã mang kiện hàng có Motok ở trong nhẹ nhàng đặt lên phi cơ. Họ đã trông thấy trên kiện hàng chữ «chiến lợi phẩm» và họ thừa biết là họ phải cẩn thận đối với các kiện hàng đó.
XIII
Boris Bodnariuk bay đến nước những người Slaves miền Nam. Hai vị đại tá Sô Viết yên lặng không nói, cả Boris cũng thế. Gần như cả ba đang buồn ngủ, nhưng thật sự cả ba đang nghĩ đến kế hoạch ám sát viên thống chế xứ đó.
Viên đại tá to lớn đang ngậm kẹo ho. Đến gần Boris, ông ta mời một viên kẹo và bảo nhỏ:
- Trưa nay sẽ có một bữa ăn khoản đãi đồng chí ở biệt thự tên thống chế đó. Chúng ta phải để súng lục tại phòng thay áo. Nhưng người của chúng ta sẽ trao lại súng khác vào túi chúng ta. Như thế là khi ngồi vào bàn ăn, chúng ta sẽ gồm có năm người được trang bị vũ khí rồi đó.
Yên lặng. Máy bay đang bay vào mây mù. Boris nhổ viên kẹo ho vào khăn tay. Viên đại tá bảo:
- Giờ nầy quân ta đang tiến vào xứ tụi Slaves miền Nam. Đến tối viên thống chế đó sẽ bị giết. Quân ta sẽ chiếm trọn xứ đó, chỉ cách Vatican vài trăm cây số. Công cuộc loại bỏ viên thống chế đó mở đường cho Hồng quân tiến vào Ý Đại Lợi, Ba Lê, Luân Đôn. Cho nên hành động chúng ta hôm nay là một hành động rất quan trọng cho diễn biến của lịch sử. Tất cả tùy thuộc vào sự khéo léo của chúng ta.
Nhìn đồng hồ, viên đại tá cười nói tiếp:
- Từ đây cho đến một giờ trưa, con chó của viên thống chế sẽ bị mồ côi. Một con chó không có thống chế nữa.
Viên đại tá lại ngậm thêm một viên kẹo ho. Máy bay đang bay thật cao, hình như đang nghiêng về bên phải. Boris quá mệt mỏi. Một người trong phi hành đoàn quay lại, la to:
- Cháy.
Boris soát lại dù nhảy, và nhìn qua cửa sổ. Máy bay vẫn tiếp tục bay, nhưng đã hơi nghiêng. Hắn nắm chặt tay định đập vỡ cửa kính. Đáng lý phải hỏi phi hành đoàn xem thử phải làm những gì, hắn ta lại nắm chặt tay như hồi 15 tuổi hắn quyết định bơi qua sông Dniestr, hệt như thế.
Bên ngoài chỉ toàn là mây trắng. Boris không thấy sợ hãi gì cả. Hắn nhét cặp da vào trong áo và quàng áo choàng lên ngực. Hắn đoán là hắn đang ở trên không phận nước Đức. Nếu phi cơ không đáp được, hẳn phải nhảy bằng dù. Chỉ có một điều làm hắn khó chịu là vì kẹo ho trong cổ. Hắn ho đến muốn ói thứ đó ra. Phi cơ đã đầy khói rồi.
Boris đập vỡ cửa kính, nhưng không khí tràn vào lại càng ngột thở hơn nữa. Khói tràn cả phi cơ, hắn đứng dậy tìm cánh cửa lớn, vì cửa sổ nhỏ quá, không nhảy ra ngoài được. Gài chặt áo lại, Boris tức là đã không kiếm của lớn được trước khi khói tràn vào ngập phi cơ. Giờ nầy không thể kiếm được nữa, cái bụng lại bắt đầu khó chịu. Mùi kẹo ho làm hắn buồn nôn. Hắn nghiêng cả người, tưởng như sắp ngạt đến nơi. Có ai la to bên tai, nhưng hắn không trả lời được. Hắn gập người lại, và tưởng như đang ở trong đêm tối mù mịt và trong một cơn buồn nôn vô tận vì chất kẹo ho. Hắn rủa thầm: «Đồ thứ kẹo khốn nạn!».
Cơn buồn nôn đã thu nhỏ cơ thể hắn vào hư vô. Cơ thể hắn đã phản bội hắn. Đâu đâu cũng toàn là chuyện phản bội. Anatole Barsov phản bội. Viên thống chế nuôi con chó đẹp cũng phản bội. Và bây giờ chính cơ thể hắn cũng không tuân lệnh hắn nữa.
Chán nản, hắn nhắm mắt lại. Chỉ còn có mùi kẹo ho trong cổ. Hắn ghét cay cái mùi kẹo nầy cũng như hắn ghét cay lũ phản bội. Ghét hết các thứ phản bội, nhưng nhất là sự phản bội của cơ thể hắn.
Bây giờ chỉ còn lại một cơn buồn nôn, một sự rơi xuống vực thẳm và hư vô.
Lúc hắn mở mắt ra, chung quanh toàn màu trắng. Ánh sáng đó làm hắn chảy nước mắt. Nhắm mắt lại, thì hắn lại có cảm tưởng rơi vào một màn tối dày đặc. Hắn thầm nghĩ «Lại là một thứ phản bội khác nữa đây». Hắn cố nhấc chân lên, nhưng không được. Muốn đưa tay lên, cũng không được nữa. Tay chân hắn đã chết hết cả rồi. Boris nghĩ «Kẻ thù Sô Viết đã biết nhiệm vụ của mình và chúng nó đã gây ra tai nạn».
Boris lại mở mắt ra. Thì ra hắn rơi trên núi tuyết. Hắn muốn nhúc nhích, nhưng thân thể không vâng theo ý muốn hắn nữa. Chỉ còn lý trí và một mắt còn nghe theo hắn, nhưng mắt hắn chỉ còn trông thấy màu trắng, nhắm mắt lại thì toàn màu đen bao phủ.
Chỉ còn một mắt mở được, con kia rất có thể đã rơi mất. Hắn nhắm mắt lại. Đen tối. Lại mở mắt ra, toàn màu trắng. Nhưng không phải toàn là màu trắng của tuyết mà là những người đàn bà mặc quần áo trắng, những người đàn ông trắng, bức tường trắng, nệm trắng... Hắn thầm nghĩ:
- Mình chỉ còn một mắt. Y hệt như Angelo. Với một mắt thì chỉ thấy hoặc đen hoặc trắng. Chỉ thấy có hai màu mà thôi; mà đen, trắng có phải là màu sắc đâu.
Boris cố tìm trong trí nhớ một màu khác, nhưng ngay cả trong trí nhớ cũng chỉ có hai màu đen và trắng. Tất cả dỉ vãng của hắn chỉ là đen hoặc trắng mà thôi.
Vào lúc đó, Boris không biết là hắn đã đạt đến lý tưởng của Đảng và các đồng chí hắn. Tức là chia vũ trụ làm hai màu: đen và trắng. Cũng như hắn nhắm mắt thì thấy đen và mở mắt thấy trắng, nhân loại cũng thấy sự vật trắng hay đen tùy theo nhu cầu của lịch sử. Điều đó đã là lý tưởng rồi. Một vũ trụ trong sáng, chính xác không màu sắc. Màu sắc vừa vô ích vừa rắc rối. Trắng và đen là đủ rồi. Hoặc có hoặc không là đủ rồi. Vũ trụ không cần giải đáp nào khác ngoài hai chữ có hay không. Những câu trả lời khác đều là phản động, hay chỉ là những dị biệt nho nhỏ.
Boris cảm thấy một vật lạ bên tai, sau đó hắn nghe được. Hắn quên là hắn đang có thính giác. Độ sau nầy, hắn không còn nghe gì nữa cả. Hắn đã sống trong câm điếc. Hắn không còn cảm nhận đau đớn, thế mà bây giờ đây mi mắt của hắn cho hắn biết lại thế nào là đau đớn. Bỗng một giọng nói rắn rỏi, bằng tiếng Anh:
- Chúng tôi muốn nói chuyện riêng với bệnh nhân.
Cái máy nghe để bên tai Boris thật lạnh, hình như lần đầu tiên cảm giác lạnh lẽo đó xâm chiếm con người hắn, hắn có nhớ ra rằng đôi lúc cũng có ấm áp, nhưng lúc nầy hắn chỉ thấy toàn là lạnh lẽo.
Mở mắt, Boris trông thấy hai sĩ quan Sô Viết. Những người áo trắng đi hết rồi, hai sĩ quan nọ hình như đang bận áo toàn đen. Một viên sĩ quan nói bằng tiếng Nga:
- Nhờ mũi thuốc, đồng chí sẽ tỉnh táo chừng một giờ. Hãy cho chúng tôi biết là đồng chí có nghe hiểu chúng tôi nói gì không, nếu không, chúng tôi sẽ chích thêm một mũi thuốc nữa. Chúng tôi cần hỏi đồng chí vài điều. Chúng tôi được bộ chỉ huy Sô Viết ở Vienne gởi đến đây.
Họ đưa cho Boris tấm căn cước để xem thử Boris có đọc và hiểu được không. Boris thấy rõ khuôn dấu sở mật vụ Sô Viết và cảm thấy yên tâm hơn. Một người lại bảo:
- Đồng chí đang nằm trong một bệnh viện của người Mỹ. Đồng chí có nhớ những gì đã xảy ra không?
Người kia giải thích tiếp:
- Đồng chí đi từ Piatra bằng phi cơ và rơi trên núi, đồng chí là người sống sót duy nhất sau tai nạn đó, mấy người kia đều chết hết. Người Mỹ mang đồng chí lại đây, và báo tin cho chúng tôi. Suốt hai tuần nay chúng tôi có nói chuyện với đồng chí nhưng vô ích. Người ta bảo là trong cơn mê sảng, đồng chí đã khai đồng chí tên là Boris Neva, và chính người ta đã ghi tên đó vào sổ bệnh viện. Tốt lắm, đồng chí cần giữ nguyên lời khai đó. Cần nhất là đừng để cho tụi Mỹ biết lý lịch của đồng chí. Thế nhưng, đồng chí có nhớ rõ tên của đồng chí không nhỉ?
- Boris Bodnariuk.
- Chúng tôi sẽ cho đồng chí hồi hương trong chừng 10 hôm nữa. Trong lúc chờ đợi, nhớ giữ cái tên Boris Neva. Bây giờ, đồng chí cố lập lại những gì chúng tôi vừa nói.
- Tôi bị tai nạn phi cơ, được chở đến bệnh viện Mỹ với cái tên là Boris Neva. Tôi sẽ được hồi hương trong 10 ngày. Tôi không được để lộ lý lịch của tôi.
Vị đại tá thân mật vỗ vai Boris. Lần đầu tiên, Boris mới nhận biết được vai của mình. Vị đại tá bảo:
- Tôi rất tiếc là không thể mang đồng chí đi ngay được. Người Mỹ bảo là chưa thể di chuyển được, chúng tôi sẽ lại thăm đồng chí đều đều.
Boris hỏi thêm:
- Đây là một vụ phá hoại hay phản bội?
- Thủ phạm sẽ bị trừng phạt và thủ tiêu.
- Nếu chúng bị thủ tiêu thi tốt lắm.
Boris nói thế và nhắm mắt lại. Hắn lại rơi vào một màn đêm đen tối.
XIV
Vài ngày sau, hai viên sĩ quan Sô Viết lại đến thăm Boris. Cả ba nói chuyện rất lâu. Viên đại tá bảo:
- Tai nạn phi cơ vừa rồi thật là một tai họa. Viên thống chế xứ người Slaves miền Nam không bị thủ tiêu thì sự phản bội của hắn ta đã công khai hoá. Sô Viết đã bị mất Địa Trung Hải, cánh cửa mở để đi về phương Tây và vịnh Adriatique. Tai hại quá nhưng chúng ta phải cố hàn gắn những gì có thể hàn gắn được. Bây giờ tên thống chế đó trở thành tên bồi phòng cho lũ Tây Phương. Những rủi ro đó thật cũng tại vì đồng chí không thể giết hắn đúng lúc được. Đồng chí đã làm chủ tình thế nhưng chỉ vì phi cơ bị rớt. Nói cho hợp lý thì việc thay đổi tình thế tuỳ thuộc vào đồng chí. Bây giờ đồng chí đã bị què quặt, nhưng khối óc, trái tim vẫn còn thì đồng chí vẫn có thể tiếp tục phục vụ.
Họ cũng kể cho Boris nghe là Sô Viết không từ bỏ kế hoạch ám sát viên thống chế đó, nhưng bây giờ khó khăn hơn nhiều:
- Công việc thủ tiêu đòi hỏi thời gian. Chúng ta đã thành lập một hệ thống toàn hảo, vì chúng ta sẽ thanh toán tên thống chế đó, chắc chắn như thế, nhưng còn lâu lắm. Lúc này, chúng ta chỉ nuôi ý tưởng thủ tiêu hắn ta mà thôi.
Boris bổ túc thêm:
- Trotzky cũng bị ám sát về phương diện chính trị trước khi hắn bị giết. Trong các trường hợp phản bội, khi kẻ bị ám sát đào tẩu được thì việc kết án tinh thần và chính trị cũng làm cho thủ phạm khổ sở lo âu...
- Muốn kết án Trotzky, chúng ta cần bản cáo trạng năm 1938.
- Thì điều đó cũng có thể tái diễn vậy, rất cần thiết nữa là đàng khác. Các nước tân cộng hòa, như Lỗ ma ni, Hung gia lợi, Bảo gia lợi hoặc kín đáo hoặc lộ liễu đều muốn tạo phản. Bản cáo trạng về viên thống chế mang tinh thần trưởng giả nọ sẽ quét sạch tất cả ám muội chính trị ở các quốc gia đó. Lúc rời khỏi bệnh viện này, tôi sẽ đề nghị một bản cáo trạng kết án lũ âm mưu kia ngay.
Viên đại tá trả lời:
- Bản cáo trạng đó đã xong xuôi. Tháng tới chúng ta sẽ mở ở Bucarest một tòa án kết tội tên thống chế đó. Chúng ta sẽ chứng minh rằng hắn ta đã bị lũ tư bản Tây Phương mua chuộc, rằng hắn đã tìm cách nô lệ hoá những dân tộc đã được Sô Viết giải phóng khỏi ách thống trị của lũ tư bản Anh – Mỹ. Hàng ngàn tội trạng đã được phơi bày. Chúng nó đã thu nhận tất cả. Chỉ còn thiếu một nhân vật chính, một người cộng sản ưu tú đóng vai tội nhân để trình bày những giai đoạn và mặt trái của sự phản bội. Thiếu một người như đồng chí, nguyên phó chủ tịch liên bang Danubienne. Chúng ta còn thiếu một người đóng vai y hệt tên thống chế, để tự thú tội, một người nào đó để bị kết án như là đại diện cho tên thống chế đó. Chúng ta thiếu có bấy nhiêu, còn ngoài ra sẵn sàng hết cả rồi.
Boris bảo:
- Tôi đã không chết trong tai nạn máy bay, bây giờ tôi xin để tùy quyền đồng chí định đoạt.
- Đồng chí muốn đến Bucarest để đóng vai tên thống chế có tư cách trưởng giả đó ư?
- Hắn ta phải bị đào thải về phương diện chính trị. Chúng ta sẽ mang tội nếu để chậm trễ bản án đó. Còn ai hơn tôi trong công việc đâm một nhát dao chí tử vào tên phản bội đó?
Boris nghĩ đến cái may mắn tột cùng của một người công sản so với các người khác. Hắn chỉ là một tên tàn phế, thế mà vẫn còn phục vụ đảng thật phi thường.
Viên đại tá có vẻ nhắc nhở:
- Nạn nhân chính sẽ bị kết án tử hình đấy.
- Dĩ nhiên đó là hình phạt xứng đáng nhất cho sự phản bội.
Nói xong, Boris nhắm mắt lại, và lại rơi vào bóng tối. Hắn nghĩ là một đời người sống toàn với tiểu tiết chỉ là một đời người thấp kém.
Đời sống cao thượng chỉ cấu tạo bằng «có» hoặc «không», bằng «đen» hoặc «trắng», thì mới là một đời hoàn hảo.
- Như thế chúng tôi có thể thông báo là đồng chí tình nguyện đến Bucarest để tự thú tội trên cương vị tên thống chế?
- Nhu cầu của lịch sử đòi hỏi điều đó.
Boris thản nhiên trả lời như thế. Vị đại tá dặn thêm:
- Trong lúc nầy phải cẩn thận đấy, đừng để lộ tông tích.
Ông ta để xuống gối Boris một khẩu súng lục, vổ vai Boris và từ giã. Lúc cánh cửa đã đóng lại, Boris thầm nghĩ:
Sợ hãi cái chết là một thành kiến của tụi trưởng giả. Bây giờ mình đã quyết định chết, mình không còn sợ hãi gì cả, trái lại, mình còn cảm thấy khoan khoái, tỉnh táo, vì mình đang sống trong lịch sử, lần đầu tiên, mình gắn liền với lịch sử, mạnh dạn sống với lịch sử. Sợ chết chỉ là một thành kiến mà thôi.»
XV
Buổi chiều, Boris đứng tựa ở cửa sổ. Tuy chưa bình phục hẳn, hắn cũng đã có thể đi lại được. Hắn sẽ được hồi hương vào trưa mai. Mấy vị sĩ quan trong bộ chỉ huy Sô Viết ở Vienne đã hứa với hắn như thế.
Boris suy nghĩ nhiều về thứ kinh nghiệm sắp đến trong đời hắn lúc hắn trở về thú tội, một thứ tội phản bội mà hắn không hề phạm. Nhờ hành động đó, một số lớn thành phần vô ích, nguy hiểm sẽ bị thủ tiêu và địa vị của đảng sẽ được cũng cố hơn bao giờ hết. Đó là mặt phải của sự thử thách, trong khi mặt trái của nó là sự hủy thể của cá nhân. Boris tự phân tích rất chu đáo và thành thật, bởi hắn muốn tìm hiểu xem mình có sợ chết hay không. Hắn đã từng nói về sự khinh thị của một người công sản đối với cái chết của một cá nhân để cho đảng sống mãi.
Trên nguyên tắc thì Boris đang chấp nhận lý thuyết đó và không ngần ngại xin được xử tử hình. Về phương diện lý trí, cái chết vô nghĩa hơn những gì lịch sử, tôn giáo và văn chương đã đề cập đến. Cho nên lúc hắn muốn tự tử, hắn không sợ hãi gì cả. Động tác vô nghĩa đó không có gì khó khăn đối với hắn cả.
Bây giờ bỗng nhiên hắn khám phá ra một điều gì không ưng ý với hắn, hình như một giọng nói âm thầm đang trổi dậy. «Sau khi giả vờ tự thú, mầy sẽ bị kết án, nhưng mầy sẽ không bị xử tử». Boris lấy làm xấu hổ về ý nghĩ đó, nhưng hắn không thể không nghĩ được, bởi hắn vẫn hy vọng là nếu hắn tự thú, đảng sẽ không xử tử hắn nhưng con đề cao hắn nữa. Hắn tự hỏi: «Hay là vì sợ chết mà mình có cái ảo tưởng đó». Hắn muốn xóa bỏ ý nghĩ đó đi, nên lại bảo thầm: «Mình sẽ được xử tử, mình sẽ bị xử tử, xử tử». Nhưng giọng nói âm thầm lại vang lên: «Đảng sẽ tán dương công lao của mầy và không bao giờ để mầy chết. Hành động tự kết án đó sẽ được khao thưởng, kỷ niệm và tôn thờ».
Boris không muốn có ảo tưởng đó, hắn muốn chắc là hắn sẽ chết, chết thực sự theo chính lời yêu cầu của hắn. Lý trí nói với hắn rằng: «sự việc sẽ xảy ra như thế, nhưng hắn không thể nào làm câm ngay cái giọng nói âm thầm bên trong rằng hắn sẽ sống mãi.
Một chiếc xe ngừng trước cửa bệnh viện. Một người thanh niên vận âu phục, dáng điệu bỡ ngỡ bước xuống xe. Vị y sĩ trưởng đang đứng giữa sân với một bác sĩ khác ngay dưới cửa sổ của Boris. Thanh niên nọ lại gần, Boris lắng nghe câu chuyện. Thanh niên tự giới thiệu:
- Tôi là Milan Paternik, cố vấn chính trị cho bộ chỉ huy các lực lượng Âu châu (hắn đưa căn cước và thư giới thiệu). Tôi mang theo một người đàn bà đã đến kỳ sinh nở.
- Không thể được, ở đây, chúng tôi không có trại sản phụ khoa. Vị y sĩ trưởng trả lời. Nhưng Milan nài nỉ:
- Đây là một trường hợp ngoại lệ. Vị chỉ huy trưởng yêu cầu ông nhận bà ta và săn sóc kỹ lưỡng.
Bác sĩ đọc bức thư. Marie sắp đẻ, đang nằm trong xe. Aurel Popesco đã tìm cách để nàng được nhận vào quân y viện vì không còn bệnh viện nào ở đây nữa. Milan Paternik đích thân đem nàng đến.
- Bác sĩ chúng tôi ở đây không chuyên về sản khoa, đáng lý chúng tôi không nhận, nhưng vì có lệnh trên, chúng tôi sẽ làm theo.
Milan lập lại:
- Xin bác sĩ vui lòng, đây là trường hợp bất khả kháng.
Boris chú ý đến chữ «trường hợp bất khả kháng, ngoại lệ» mà Milan cứ lập đi lập lại mãi. Bác sĩ cáu kỉnh:
- Tôi không hiểu nổi, thật là quá đáng, ai đời lại gởi vào quân y viện người đàn bà sắp sinh, đúng là họ muốn đùa với chúng tôi rồi.
Boris giật mình lẩm bẩm: «Mình hiểu, vâng, mình hiểu tại sao người ta gởi người đàn bà nầy đến đây».
Hắn trông rõ Pillat và Milan Paternik đỡ Marie xuống xe. Trong óc Boris, giả thuyết người Mỹ đã biết lai lịch hắn càng ngày càng rõ rệt. Nép sau tường, hắn nhìn kỹ Marie, nhưng không nhận ra nàng. Boris thầm nghĩ:
« Họ đưa Pillat và người đàn bà nầy đến đây để có thể nhận diện mình. Muốn biết chắc mình có phải là Boris không, tụi Mỹ đã đưa đến đây một người bạn học cũ của mình, cách tốt nhất để nhận diện mình là Boris Bodnariuk, bộ trưởng bộ chiến tranh Lỗ ma ni chứ không phải là công dân Số Việt Boris Neva». Boris nhớ lại lời khuyên của các sĩ quan Sô Viết «Đứng để lộ tông tích». Rồi nhớ lại câu nói của viên bác sĩ «Thật là quá đáng, ai đời lại gởi đến đây một người đàn bà sắp sinh. Tại sao lại đúng vào quân y viện chúng tôi», và câu nói của Milan Paternik «Đây là một trường hợp bất khả kháng, ngoại lệ...».
Thế là Boris chắc rằng Pillat đã được gởi đến đây để nhận diện hắn. Nhẩm tính, còn 16 giờ nữa thì đến lúc hồi hương, nhưng nếu người Mỹ nhờ Pillat nhận diện được hắn thì hắn khó trở về nước được nữa. Bản cáo trạng ở Bucarest kết tội tên thống chế trưởng giả đó sẽ bị hủy bỏ. Boris thầm bảo: «Mình đừng để họ biết tông tích chứ».
Phòng bên có tiếng nói chuyện, lúc đầu bằng tiếng Anh, sau đó bằng tiếng Lỗ ma ni. Milan Paternik đang nói chuyện với y tá, Pillat nói với người đàn bà có thai. Milan nói:
- Chồng bà sẽ ở đây, ông ta ngủ ở ghế nầy.
Boris lắng nghe: «Sao lại ngủ đúng phòng bên cạnh phòng mình? Không còn nghi ngờ gì nữa. Họ gọi Pillat đến đây để nhận diện mình. Chốc nữa hắn sẽ đến phòng mình với một lý do nào đó để nhìn mặt mình đúng theo chỉ thị đã nhận được». Boris bỗng để ý là cửa phòng hắn không khoá: «Lại thêm một lý do nữa, sao họ lại lấy mất chìa khóa phòng mình?».
Boris lại cửa sổ và thấy Milan Paternik lên xe về một mình. Ở phòng bên, Pillat và Marie đang chuyện trò với nhau bằng tiếng Lỗ. Marie đang than phiền. Boris lại thầm nhận xét: «Nghe rõ như họ đang đứng nói chuyện trong phòng mình». Mọi sự xảy ra thật đáng ngạc nhiên nhưng hắn vẫn bình tĩnh, hắn vẫn cố không để bị nhận diện – Pillat thì đang ở phòng bên và hắn còn đến 16 giờ nữa mới hồi hương được. Boris vừa nhìn cửa lớn vừa thầm nghĩ: «Hắn có thể ám sát mình, và bảo rằng đó chỉ là một cuộc trả thù riêng. Đối với công chúng giải thích âm mưu đó như thế thì tạm ổn. Người Mỹ muốn ám sát mình để không cho mình trở về nước thi hành bản án tên thống chế phản bội đó. Chắc thế rồi».
Boris nhìn qua cửa sổ, không có gì đáng ngại, vườn bệnh viện chỉ có tuyết phủ, đường phố cách xa chừng hai trăm thước. Boris quyết định. Tay hắn xiết chặt khẩu súng trong túi áo ngủ. Hắn mở tủ và thấy áo quần hắn họ vẫn để nguyên, áo choàng, quần dài bị cháy. Hắn không tiền, không giấy tờ và không thuộc đường vùng nầy, nhưng không sao, điều chính là hắn phải bỏ đi đêm nay, sau đó sẽ tự liệu lấy, chân lạnh cóng chưa đi được, nhưng hắn vẫn cố nghĩ là hắn sẽ bí mật lên tàu lửa trong đêm.
Nhìn vào tấm kiếng, Boris thấy mình hơi tái. Mặc vội áo quần, giấu khẩu súng dưới gối, Boris lên giường nằm. Lúc bác sĩ và y tá đến khám bệnh, Boris than nhức đầu, và thích ngủ hơn ăn. Boris nghĩ đến kế hoạch trốn khỏi bệnh viện.
Hắn có thể nhảy qua cửa sổ là ra khỏi bệnh viện dễ dàng, nhưng nếu hắn có tiền để mua vé xe lửa thì mọi sự sẽ giản dị, đằng nầy hắn không có lấy một xu, đó là một điều thiếu khôn ngoan, đáng lẽ là hắn phải xin hai viên sĩ quan Sô Viết kia trước mới phải.
Lúc nầy, nữ y tá trực đi ngang, hắn giả vờ ngủ, phòng bên cạnh vẫn còn tiếng nói của Pillat và tiếng rên siết của Marie.
Boris mặc áo trong bóng tối, phải gỡ băng chân ra mới đi được, dù chân còn đau. Xong xuôi hắn nhảy qua cửa sổ xuống vườn bệnh viện còn đầy cả tuyết.
Thế là lúc y tá trực đêm đi kiểm soát bệnh viện lúc hai giờ sáng thấy giường Boris Neva trống rỗng, mặt khác lại có dấu chân trên tuyết dưới cửa sổ, họ bèn báo động tức khắc với cảnh sát và quân cảnh. Điện thoại reo suốt đêm. Người ta lục soát các chuyến xe lửa. Tám giờ sáng, hai viên sĩ quan đến bệnh viện, thì viên y sĩ trưởng giải thích:
- Boris Neva biết là ông ta sẽ hồi hương lúc 12 giờ nên ông ta đã chọn tự do. Ông ta không muốn trở về Nga Sô. Hàng ngàn người đã làm như thế, có gì đáng ngạc nhiên đâu. Ông ta sợ không dám trở về với Sô Viết nữa.
Nhưng hai viên sĩ quan Sô Viết không chấp nhận lời giải thích đó.
- Boris Neva là công dân đã được tẩy não, giả thuyết đào ngũ không thể chấp nhận được. Chúng tôi yêu cầu lập biên bản đàng hoàng.
- Các ông có thể lập biên bản ngay.
Y tá, gác dan được mời đến. Tất cả đều khai là không hề hay biết gì cả. Bệnh nhân người Nga Sô đó có vẻ cau có vào buổi tối. Ông ta từ chối không chịu ăn uống và không chịu để bác sĩ khám bệnh, rồi đòi đi ngủ sớm. Hai giờ sáng thì người ta đoán là ông ta nhảy qua cửa sổ xuống vườn, trèo tường đi ra đường.
Đành phải đợi cảnh sát bắt giữ bệnh nhân mới hỏi được. Nhưng hai viên sĩ quan Sô Viết giận dữ hứa sẽ phản kháng chính thức vụ nầy và đòi một biên bản đặc biệt. Trong lúc đó, máy phóng thanh bệnh viện thông báo: «Trân trọng thông báo với chính quyền và đồng bào là có một công dân Sô Viết đã trốn khỏi bệnh viện quân đội đồng minh sau khi đã được săn sóc các thương tích chu đáo do tai nạn máy bay. Ai biết bệnh nhân trốn ở đâu phải thông báo ngay cho chính quyền. Các điểm đặc biệt của bệnh nhân như sau: một vết sẹo lớn trên trán, vết thương ngực và tai chưa lành. Chân cong chưa đi được nhiều. Áo choàng da màu nâu, ủng đen, khăn choàng đỏ».
Nhưng hai viên sĩ quan Sô Viết bỏ đi không thèm nghe thông cáo. Lúc đó đã 9 giờ sáng. Cửa phòng mổ mở ra đúng lúc họ bước ngang. Người nữ y tá nói với Pillat đang đứng ở hành lang:
- Con gái. Mẹ tròn con vuông rồi đó. Ông có thể đến thăm trong chốc lát.
Pillat đặt tên ngay:
- Doina Australie.
Chỉ có mình chàng là không biết gì về vụ bệnh nhân Sô Viết trốn khỏi bệnh viện. Vì từ lúc đến đây, chàng chỉ có một điều phải lo lắng, đó là Marie, và bây giờ thì phải lo đến hai người. Marie và đứa con đầu lòng Doina Australie. Chàng vui đến rớt nước mắt, muốn ôm choàng cả hai người. Trong lúc chàng lẩm bẩm, «Doina Australie, con và mẹ đều mạnh khỏe cả» thì máy phóng thanh vẫn lập đi lập lại: «Chúng tôi lập lại các điểm đặc biệt: áo choàng da màu nâu, ủng đen, khăn choàng đỏ».
Pillat thì vẫn cứ lẩm bẩm: «Doina Australie. Con và mẹ đều mạnh khỏe cả».
Đánh máy: Nguyễn Đ Thanh & Ct.Ly
Nguồn: Nhà xuất bản Lá Bối ngày 7- 10- 1968
casau - VNthuquan.net
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 15 tháng 10 năm 2014