XI & X & XI
dịch giả: hằng hà sa và bích ty
XI & X & XI
guồn tin của Aurel Popesco đúng ngắt. Vào buổi chiều Isaac tự tử, Boris Bodnariuk đã nhận được lệnh ám sát vị thống chế những người Slaves miền Nam.
Sau khi đã loại bỏ hẳn giai cấp trưởng giả, Boris Bodnariuk được thăng chức bộ trưởng bộ chiến tranh.
Hắn đến Niamtz vài ngày bằng phi cơ riêng do ông bạn phi công Anatole Barsov mà hắn đã làm quen trong bệnh viện lái. Phi cơ hạ cánh ở phi trường Piatra được thành lập trên khu đất của nhà Pillat và vườn rau của Ion Kostaky. Nhà Kostaky dùng làm văn phòng. Làng Piatra đã thay đổi rất nhiều. Bodnariuk lên xe hơi. Trước khi tạm biệt, hắn bắt tay Anatole Barsov và viên phi công phụ Igor Poltarev, cầu chúc cả hai vui vẻ.
Đường sá Piatra nay đã rộng rãi và lát gạch. Trong làng đã có một xưởng kỹ nghệ. Giữa thành phố Molda và làng Piatra có một nhà gạch lớn dùng làm nhà tù. Người ta cũng đã quốc hữu hóa đất đai. Đa số nông dân làm việc trong xưởng kỹ nghệ, ăn ở quán, chỉ về nhà ngủ thôi. Nhà của Piatra gần như bỏ hoang. Không còn khói thổi cơm mỗi chiều, vì nông dân từ xưởng về muộn vội vã đi ngủ rồi lại ra đi vào tảng sáng. Không còn ống khói trên nhà, không còn rào dậu quanh nhà. Chó mèo cũng vắng bóng, hoa cỏ hiếm hoi. Người cũng ít khi xuất hiện trong làng, trừ ngày chủ nhật. Ngay cả vào ngày nghỉ, họ cũng phải đến phường hội họp, nên nhà nào cũng vắng vẻ cả.
Xe Boris đã lên đến khu rừng thông. Boris hài lòng:
- Lần đầu tiên, nhờ Sô Viết mà con người không phấn đấu riêng rẻ cho đời sống. Cá nhân không còn lo âu cho ngày mai nữa. Bởi tất cả đều chung lưng làm việc. Thật là một công trình vĩ đại hữu ích cho con người. Thế mà họ lại chống đối. Cho nên lũ đó phải bị loại bỏ để cho cuộc cách mạng đầu tiên vĩ đại trong lịch sử có thể hoàn thành được.
Trong một biệt thự ở khu rừng thông, Boris phải soạn một bài diễn văn cho hội nghị các quốc gia Đông Âu. Và hắn được nghỉ ngơi ba ngày, trong cái yên tĩnh của khu rừng. Boris quấn chặt khăn cổ, gài nút áo, chui vào mền đắp kín chăn. Chưa bao giờ hắn được nghĩ ngơi. Đây là lần đầu tiên dưỡng sức trong đời. Trong ba ngày, hắn được ở một mình trong núi rừng yên tĩnh.
Trong lúc đó thì Anatole Barsov và Igor Poltarev nghỉ ở trong làng Piatra, thong thả uống rượu Vodka.
Barsov được xa vợ ít hôm là một điều hạnh phúc, bởi vợ hắn cãi vả suốt ngày làm hắn đâm ra chán nản. Hắn không trách gì Olga, chỉ nghiệt là bà ta cứ kiếm chuyện rầy la hắn mãi. Vợ hắn như là chong chóng, quay mãi không bao giờ ngừng. Igor mở chuyện:
- Tối nay mầy sẽ không cãi cọ với Olga nữa đâu. Không tối nay và không tối nào nữa cả. Bà ta chỉ còn cãi vả với mấy bức tường, vì chúng mình sẽ đi tối nay.
- Đi đâu mầy?
- Như là tụi mình đã định. Đã có đủ xăng. Bay từ sân bay Piatra này thì cũng dễ như ở Bucarest. Xăng có đó, tao sẽ chỉ cho mầy xem.
Barsov nhớ rõ từng câu nói của họ mấy tháng trước. Một hôm, cả hai cùng đi công tác chung. Poltarev đã từng đi công tác ngoại quốc. Hắn biết rõ Luân Đôn, Ba Lê, Nice, Bá Linh... kể chuyện xong, Poltarev hỏi thẳng Barsov:
- Mầy muốn trốn với tao sang Mỹ không?
Barsov giận dữ:
- Tao không muốn làm một kẻ phản bội.
- Tao cũng thế, tao không phải là kẻ phản bội. Tao đặt vấn đề cho mầy xem trước đã. Mầy không đồng ý với vợ mầy và với cấp chỉ huy mầy ở không đoàn. Mầy là bạn của ông bộ trưởng Bodnariuk, đúng đấy, nhưng hắn ta bận việc hoài không bao giờ nói chuyện với mầy cả. Tao hỏi mầy thử mầy có muốn lấy máy bay trốn đi, xa Olga, xa không đoàn, xa nợ nần, xa luôn cả chương trình hằng ngày không? Xa tất cả. Bay sang một xứ xa lạ nào đó, tự do làm giàu, không còn ràng buộc vợ con, cấp chỉ huy.
Barsov nhớ rõ mồn một câu chuyện đó: «Tao thì nghĩ mãi vấn đề này, Poltarev nói tiếp, tưởng tượng là tao lên máy bay với người bạn thân đi đến một nơi nào xa lạ. Nghĩ thế và tao thấy được một viễn ảnh đẹp nhất đời tao như là lúc uống rượu, tắm nắng».
- Mầy không hiểu đó là những giấc mơ phản động sao? Tao sẽ tố cáo mầy lên cấp chỉ huy.
- Mầy là bạn thân của tao, mầy không tố cáo tao đâu.
- Nhưng trước tiên tao là một người lính và một công dân Sô Viết, bạn mầy chỉ là điều thứ yếu.
- Mầy sẽ không tổ cáo tao, không có gì xấu xa trong câu chuyện tao nói với mầy cả. Tao biết mầy cũng ước mơ được ra đi trên một chuyến bay đến tận cùng thế giới. Phi công nào cũng mơ ước như thế.
- Tao có mơ ước chứ, cũng mơ ước bay thật xa, nhưng cùng lúc đó, tao cũng mơ ước trở về, đáp trên mảnh đất Sô Viết mà tao yêu mến và nguyện trung thành.
Poltarev bình thản nói thêm:
- Tao cũng thế, tao thích trở về trên mảnh đất Sô Viết, bởi vì tao cũng trung thành và yêu mến tổ quốc nhưng mầy phải công nhận là sau những giờ bay trên nền trời xanh thẩm, lúc mà tất cả đều ở dưới chân mầy, thì thật là khổ tâm nếu phải trở lại trái đất, chịu đựng những cặp mắt xoi bói của tên chỉ huy trưởng vì mầy không gài nút áo đàng hoàng.
Poltarev khéo nói lắm:
- Mầy thấy chưa, trở lại trái đất là một điều khổ tâm cho một người phi công. Trái đất xấu xa, chật hẹp và dơ bẩn. Trái đất không giống bầu trời tí nào cả. Sau mỗi lần bay, tâm hồn mầy sẽ bực bội với ý nghĩ là sẽ trở về trái đất trong một căn hầm, trả nợ, làm tiền, thi hành những mệnh lệnh ngu xuẩn, cãi vả với chỉ huy trưởng, với bà mẹ vợ và vợ mầy, chịu đựng những mỉa mai của bạn bè. Trở lại với tất cả những điều đó thì chán lắm, nhất là sau khi đang bay bổng trên trời mà mầy làm chủ hết mọi việc, mà các ngôi sao nở trên vai mầy như là huy hiệu thống chế. Thành ra mầy không thể không có cùng những ý nghĩ như vậy. Tất cả phi công nào cũng mơ ước như thế cả.
Bây giờ ngồi trước Poltarev, Anatole Barsov nhớ rõ mồn một buổi nói chuyện hôm đó, sở dĩ thế là vì từ sáu tháng nay hắn cũng nghĩ nhiều về điều đó, nghĩ về từng câu nói trao đổi giữa hai bên. Hắn đã trả lời Poltarev như thế này: «Trên quan điểm của mầy thì mầy có lý lắm, nhưng chúng mình trước tiên là những công dân Sô Viết, thứ đến mới là phi công chứ».
Cuội nói chuyện chấm dứt ngang đó, sau này lại chính Barsov đã khơi mào trở lại câu chuyện:
- Mầy biết là tao cũng muốn lái máy bay trốn đi, với một người bạn và không bao giờ trở lại không đoàn nữa.
Poltarev hỏi lại cho chắc ăn:
- Mầy nghĩ là nên làm thế hả?
- Vâng, tao nghĩ đến điều đó mỗi tối, và tao phải công nhân đó là những giờ phút đẹp nhất trong ngày.
- Đúng là mầy đã tìm thấy một thứ hạnh phúc trên đời. Dạo này mầy it uống rượu và mập ra, ít cáu kỉnh. Người ta bảo một giấc mơ cũng làm cho cuộc đời êm đềm hơn.
- Nếu ai nghe chúng mình nói thế, cả hai đều bị bắt mất. Chúng mình sẽ bị khổ sai chung thân, vì điều nầy quan hệ lắm.
- Mơ mộng mà cũng bị tội nặng sao?
- Tất cả tội ác và phản bội đều bắt nguồn từ giấc mơ. Vì thế mà đồng chí Boris Bodnariuk đã bảo là giấc mơ cũng bị trừng phạt nặng như hành động. Từ giấc mơ qua sự thật chỉ có một bước ngắn ngủi, nên công lý phải trừng phạt giấc mơ cũng như hành động, phải trừng phạt tội ác trong giấc mơ và tội ác đã phạm ngang nhau. Vả lại, tao nhận thấy là công lý Sô Viết đã bắt đầu làm như thế rồi. Cho nên, trong lúc mơ mộng tao có cảm tưởng là đã phạm trọng tội.
Poltarev thúc giục:
- Nếu vậy thì mầy có đủ can đảm thực hiện điều đã mơ ước không nghĩa là leo lên máy bay và lái đi xa?
- Không, không bao giờ tao phản bội.
- Nhưng nếu mầy đã mơ ước thì có ngày mầy sẽ hành động, đã phản bội trong giấc mơ thì có ngày sẽ phản bội trong hành động.
Cuộc cãi cọ đã đến hồi gay gắt. Barsov dọa sẽ trình lại với Boris. Poltarev khéo léo nói:
- Nhưng, mầy cũng phải khai trước tòa án là mầy đã mơ ước trốn đi mỗi tối, phải khai là mầy mơ ước làm sao đánh cắp một chiếc máy bay để đào ngũ. Và khai như thế có nghĩa là thế nào mầy biết không? Đào ngũ bằng tưởng tượng nhưng chưa thực hiện vì thiếu phương tiện. Quan toà thừa biết là nếu mầy đã đủ xăng nhớt, mầy sẽ thực hiện giấc mơ ngay. Và họ sẽ kết án mầy như tao.
- Không, tao không phải là kẻ phản bội. Mầy là một thành phần nguy hiểm. Tao không tố cáo mầy, nhưng tao tránh không nói chuyện với mầy nữa kể từ chiều nay. Tao không muốn phản bội.
Poltarev lại bào chữa:
- Không phải là một điều phản bội. Đó là chuyện thường tình của một phi công. Phi công thường mơ ước bay thật xa. Cho nên không thể cho điều đó là phản bội đất nước Sô Viết. Ông bạn Barsov ơi, đó là lòng trung thành của phi công với trời cao. Phi công chúng ta gần với trời cao hơn. Nếu bảo chúng ta phản bội thì tất cả phi công đều phản bội cả vì phi công nào cũng mơ ước như thế. Vài phi công mơ ước bay xa, họ phản bội không riêng gì quê hương mà phản bội tất cả trái đất. Và dĩ nhiên, trời xanh thì đẹp đẽ, còn đất thì dơ bẩn và xấu xí. Vì vậy nên tại sao mầy là một phi công thực thụ, mầy sẽ bay xa với tao. Hơn nữa, mầy cũng thích xa hoa, tiền bạc, âm nhạc, đàn bà, tất cả những gì đẹp đẽ, mầy sẽ bay với tao để thực hiện giấc mơ mỗi tối của mầy.
Barsov giận dữ:
- Để thực hiện giấc mơ phản quốc?
- Tao cũng yêu tổ quốc chứ, đi đâu thì tao cũng yêu nhớ về tổ quốc. Nhưng tao sẽ đi với mầy như tao đã từng mơ ước. Tao sẽ tổ chức đời sống của tao tùy theo sở thích. Tao muốn biết các nước khác như thế nào, tao muốn có tiền, muốn nhảy đầm, nghe nhạc, có người yêu trẻ đẹp, lịch sự. Và chuyện đó có phải là chuyện phản bội đâu.
- Mầy không phải là công dân Sô Viết, mầy là một tên phản quốc.
- Tao đã trữ 100 lít xăng. Lúc nào tao có đủ, tao sẽ cho mầy biết. Tao sẽ gọi mầy, mầy nhớ đến ngay.
Tối đó, Barsov không tố cáo Poltarev, ngày sau cũng thế. Nếu gặp lại Boris thì hắn đã kể hết, nhưng Boris đã đi xa. Barsov không thể thổ lộ với ai cả. Vài ngày sau, Poltarev bảo:
- Chúng ta sắp đi rồi. Tao rất mừng là mầy đã nhận lời. Bay với người bạn thân thì thích lắm. Với lại tao cũng không thể bay một mình được.
- Ô hay, tao đã nhận lời gì đâu.
- Mầy không tố cáo tao dù mầy đã thấy tao trữ nhiều xăng có nghĩa là mầy nhận lời trốn đi với tao. Bây giờ, tố cáo tao thì cũng trễ rồi. Nếu mầy tố cáo tao, mầy cũng sẽ bị bắn.
Poltarev cười to, và khuyên Barsov lấy xăng thêm nữa. Barsov vẫn từ chối. Hắn vẫn vừa suy nghĩ vừa nhìn những ngôi nhà vắng vẻ ở Piatra, rồi uống thêm một ly rượu. Poltarev vội thu chai rượu đi.
- Đừng uống nữa. Vài giờ nữa phải đi rồi. Tất cả đều sẵn sàng. Tao đã có đủ xăng.
- Nhưng tao không muốn đi, tao muốn chết hơn là phản bội.
Poltarev chỉ máy bay đậu trên sân và nói:
- Từ chối bây giờ thì quá chậm. Ở bên kia, hạnh phúc đang chờ chúng mình. Mầy biết là phi công lương tháng bao nhiêu ở Mỹ không? Hơn cả tiền mình kiếm được ở đây một năm. Và nếu mầy biết là cuộc đời ở đó đẹp lắm, chắc mầy sẽ cám ơn tao nhiều.
- Nhưng tao không nhận lời phản bội.
Barsov vừa nói vừa nhìn chiếc phi cơ và lập lại:
- Tao không thể phản bội được.
- Tao đã giấu xăng trong mấy hộp thức ăn ở hầm máy bay. Có đủ để bay xa rồi.
- Nhưng nếu tụi Mỹ bắt hai đứa mình và trả lại cho Sô Viết?
- Thôi đừng sợ nữa. Tao bảo đảm với mầy là tám ngày nữa tụi mình đã ở trung tâm Nữu Ước với thuốc lá trên môi và túi đầy ắp tiền.
- Mầy bảo đảm thế à? Làm sao mầy chắc chuyện đó được?
- Bởi vì tao đã ở ngoại quốc và tao biết chuyện rõ lắm rồi.
Cả hai cùng yên lặng ngắm chiếc máy bay. Barsov nghĩ đến Olga và nói:
- Tao đi với mầy.
- Nếu có chuyện gì xảy ra tao tự tử. Và thế là đúng lắm. Một kẻ phản quốc phải chết. Tao đã là một kẻ phản quốc, phản quốc từ ngày đầu tiên tao bằng lòng nói chuyện với mầy cách đây sáu tháng.
Và hai giờ sau họ bước lên máy bay thì Barsov mới cảm thấy sung sướng. Hắn ta nói với Poltarev:
- Tao sung sướng đã trốn đi thế này, như chưa bao giờ sung sướng thế.
- Hạnh phúc sẽ có trong tương lai. Cuộc đời chỉ mới bắt đầu thôi. Mầy không hiểu là đời đẹp lắm đấy. Mọi người mơ ước được bỏ đi. Mầy có may mắn lớn lao đã được đi như mầy đã từng mơ ước.
Thế là chiếc máy bay của ông bộ trưởng chiến tranh Boris Bodnariuk của Lỗ ma ni hướng về phương Tây, phía Áo quốc. Barsov bảo: «Đây là giờ trọng đại nhất của đời tao». Bởi vì lần đầu tiên trong đời phi công, hắn mới cảm thấy hắn bay thật sự bay trong tự do, như những con chim bay theo ý muốn - Một chuyến bay thực sự.
X
Bốn giờ sau cuộc đào ngũ của hai phi công đó, Boris vẫn không hay biết gì cả, bởi vì Boris vẫn còn nằm trong biệt thự trên đồi thông. Cho dù có giường nệm êm ái, hắn vẫn không thể ngủ được. Hắn còn phải thảo bài diễn văn phải đọc trước hội nghị Bucarest nhân lễ kỷ niệm nữ anh hùng Tinka Neva và sự thành lập liên ban các nước cộng hòa nhân dân Sô Viết quanh sông Danube. Không chịu nổi tiếng tích tắc của đồng hồ, hắn đứng lên cho đồng hồ dừng lại. Nửa đêm, bỗng có xe đậu lại trước biệt thự, hai vị đại tá Sô Viết đi vào, Boris đoán là có việc hệ trọng xảy ra. Một người bảo ngay:
- Sô Viết lại bị phản bội một lần nữa. Thống chế những người Slaves miền Nam từ chối không đến Bucarest để dự hội nghị các nước cộng hòa nhân dân quanh sông Danube, hắn vẫn ở yên trong dinh có hai trung đoàn canh gác. Trong vài ngày hắn sẽ hủy bỏ hòa ước với Sô Viết.
Boris giận run lên. Hắn đã thông báo cho Mạc tư khoa bao nhiêu lần về việc thống chế những người Slaves có liên lạc với Tây phương, về việc ông ta bỏ hội nghị liên bang để xa rời hẳn Sô Viết và liên hiệp với các nước tư bản. Boris thừa biết là việc phản bội này không phải vì tiền cũng như vì dị biệt ý thức hệ, mà chỉ vì vị thống chế đó là một kẻ kiêu ngạo, hắn muốn trở thành quan thầy, một kẻ độc tài. Trong khuôn khổ các nước cộng hòa của liên bang Sô Viết, điều đó không thể nào có được, nên ông ta phải đánh ván bài Hoa Kỳ vậy.
Người Mỹ đã hứa với ông ta (với điều kiện là ông ta đoạn giao với Sô Viết) là sẽ để cho ông ta làm chủ tịch liên bang các nước Lỗ, Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi, Nam Tư, Albanie, Áo Quốc. Và lúc ông ta đã được bảo đảm trở thành quan thầy nhờ người Mỹ, ông ta đã phản bội. Boris vừa mời nước vừa cáu kỉnh nói:
- Tôi đã chắc là tên thống chế đó sẽ phản bội. Hắn với tôi là bạn thân, nhưng ngày mà tôi thấy hắn nuôi con chó trong nhà một cách đam mê, tôi biết chắc hắn sẽ phản bội trong tương lai. Người nào có đam mê một điều gì đương nhiên sẽ là một kẻ phản bội. Người nào đam mê một con chó không thể là một người cộng sản. Với lại, hắn ta còn có một đời sống quá xa hoa. Hắn mặc y phục còn sang hơn cả Goering. Khăn choàng viền vàng, áo quần bảnh chọe, biệt thự huy hoàng. Cho nên đương nhiên là có ngày hắn sẽ phản bội. Hắn đã phản bội giai cấp công nhân. Chỉ cần nhìn bộ áo và con chó là biết ngay hắn sẽ phản bội. Mỗi lần tôi trông thấy con chó của viên thống chế đó, tôi muốn rút súng ra bắn chết con vật trước mắt hắn. Tên đảng viên cộng sản gan dạ đó chỉ vì con chó mà phản bội, bởi vì các đam mê khác sẽ tiếp theo cái đam mê đầu tiên là lòng yêu thích con chó.
- Mạc tư khoa muốn đồng chí đến xứ Slaves miền Nam. Tên thống chế đó phải bị bắt hay bị giết trước khi hắn công bố kế hoạch phản bội.
Ông đại tá kia nói tiếp:
- Chúng ta hiện có năm sư đoàn trong nước, ngày mai nhiều sư đoàn khác từ Lỗ ma ni, Áo Quốc và Hung Gia Lợi sẽ vượt sông Danube. Đồng chí có quyền sử dụng một phi đội đã sẵn sàng. Tùy theo nhu cầu, chúng tôi có thể điều động số máy bay mà đồng chí yêu cầu. Mạc tư khoa muốn đồng chí có mặt ở biệt thự tên thống chế đó. Ngay trong biệt thự đồng chí có sẵn một tiểu đội cảnh sát, một tiểu đoàn nhảy dù và một phân đội nghĩa quân Albanie mà đồng chí có thể tin cậy được. Tất cả đều đã được huấn luyện kỹ càng và sẽ đột nhập vào biệt thự. Tôi sẽ cung cấp đầy đủ chi tiết của kế hoạch lúc đi trên máy bay. Mạc tư khoa rất tin tưởng khi trao nhiệm vụ này cho đồng chí. Tên thống chế đó là bạn thân của đồng chí, hắn chưa hề nghi ngờ gì đồng chí cả. Dù sao hắn ta phải bị bắt hay bị ám sát trong 48 giờ tới đây, nghĩa là trước khi âm mưu phản bội của hắn được công khai hóa.
- Tên thống chế đó biết là đồng chí sẽ đến thăm hắn ngày mai, và hắn đã xác nhận trên đài phát thanh là hắn đang chờ đồng chí. Đồng chí là con người duy nhất có thể vào được cái ổ đó để giết con rắn độc. Bây giờ phải hành động gấp.
Boris vội vã mặc áo, vừa nghĩ thầm: «Một người cộng sản thực sự không được có một đam mê nào cả, phải vươn lên khỏi đời sống nô lệ, nhất là không còn bản năng bảo thủ. Phải hy sinh đời sống của chính mình cũng dễ dàng như hy sinh một chiếc áo, một ống điếu, vì tất cả đều thuộc về Sô Viết, kể cả mạng sống.
Boris suy tính về chương trình loại bỏ tên thống chế. Trong gian nhà bên cạnh, hai đại tá đang đùa giỡn với con ở, Boris bực mình. Hắn ghét đàn bà, vì đàn bà có thể là một đối tượng đam mê của người cộng sản, đàn bà vốn là kẻ thù của hắn, của đảng và của Sô Viết. Bỗng một người dừng trước cửa, đưa cho Boris một điện tín:
«Phi cơ của đồng chí đã vượt biên giới và đáp xuống khu vực người Mỹ ở Đức. Đào ngũ có tính toán trước của hai viên phi công Igor Poltarev và Anatole Barsov. Xem lại các tài liệu có bị mất hay không.»
Boris xé bức điện tín và đốt đi. Hắn muốn bình tĩnh nhưng không thể được. Vốn đã căm thù kẻ phản bội nhưng chưa bao giờ hắn ghét kẻ phản bội bằng đêm nay. Hắn mơ ước có một điều là bóp cổ viên thống chế có con chó nuôi trong nhà để trả thù cho tất cả những vụ phản bội từ trước và sắp xảy ra, từ Natacha đến Barsov, Poltarev và mọi người.
Và chính với bầu máu nóng đó mà hắn bước lên máy bay cùng hai tên đại tá Nga Sô. Họ cùng bay về biệt thự tên thống chế phản bội, bay đến ổ rắn độc. Lúc máy bay cất cánh từ phi trường Piatra, Boris nói:
- Tôi muốn là chỉ một viên đạn sẽ giết một lúc tên thống chế và con chó của hắn.
XI
Vài ngày sau hôm Isaac Salomon tự tử, bác sĩ Ante Petrovici đến nhà Daniel Motok. Ông này bảo:
- Tôi mới bác sĩ đến đây để nhờ một việc. Tôi buôn lậu với Isaac Salomon, bây giờ cảnh sát đang truy tầm, thế nào tôi cũng phải đi. Nếu Gia nã đại, Úc, Argentine nhận tôi thì tôi đã không đi buôn lậu. Bây giờ nếu tôi bị bắt, tôi bị năm năm tù. Hôm nay tôi phải trốn qua Hoa Kỳ trong hai giờ đồng hồ nữa và mong bác sĩ giúp cho tôi.
Phòng Motok đã sắp đặt có thứ tự. Một va ly để trên giường và chiếc tủ gỗ lớn ở đằng sau cửa. Motok nhìn đồng hồ và bảo:
- Họ đã mời tôi trình diện nhiều lần rồi, nên họ có thể đến đây bất cứ lúc nào. Tôi có biết là lính Mỹ có quyền gởi về nhà những chiến lợi phẩm lấy được ở Âu châu. Họ có toàn quyền gởi bất cứ thứ gì để ghi lại chiến công của họ trong cuộc thánh chiến giải phóng Âu châu, để trang hoàng nhà cửa. Và tôi đã tạo được một kiện hàng này.
Motok chỉ một cái két mới nguyên có đề tên: Bà Blanche Schmith New York City N.Y.
- Tôi sẽ chui vào két này. Người lính Mỹ John Schmith khoảng sáu giờ sẽ đến đây nhận kiện hàng và gởi ra phi trường. Tôi nằm ở trong, nhưng bên ngoài sẽ có chữ chiến lợi phẩm. Nếu tôi không bị chết ngột lúc đi đường thì tôi sẽ đến Hoa Kỳ an toàn. Lúc tôi đã chui vào trong, xin nhờ ông đậy nắp kỹ càng và giao gối hàng này cho John Schmith. Khi hắn đã mang lên xe Jeep xong, ông giao cho hắn ta năm trăm đô la. Tôi chỉ nhờ ông từng ấy việc.
Búa, đinh và đô la đã để sẵn trên bàn. Motok chờ bác sĩ Petrovici trả lời. Ông này hỏi lại:
- Người lính Mỹ có biết là ông nằm trong két không?
- Không, hắn ta nhận các điều kiện sau đây: Tôi cho hắn năm trăm đô la để trả tiền cước chuyên chở, kiện hàng không được nặng quá 500 kg và không được chứa đồ quốc cấm, một người nào đó phải mang kiện hàng từ nhà ra đến xe Jeep. Tôi đã hứa với hắn là tôn trọng tất cả điều kiện trên. Sáu giờ hắn sẽ đến đây. Bà Blanche Schmith là mẹ hắn, nhưng kiện hàng này sẽ đến phi trường Nữu Ước và có người đến nhận ngay.
- Như vậy anh tự xem như là chiến lợi phẩm mà lính Mỹ có quyền gởi về nhà trong trận thánh chiến ở Âu châu?
- Những két chiến lợi phẩm không bị mở ra kiểm soát ở phi trường. Sự kiểm soát hoàn toàn bằng quang tuyến X, tụi Mỹ biết ngay thứ gì ở trong.
- Nếu vậy thì vô lý và nguy hiểm cho anh lắm. Anh quên rằng thân thể con người có chất kim khí và chất mà quang tuyến X có thể thấy được sao? Thân người có bộ xương. Cảnh sát sẽ trông thấy bộ xương anh, dù họ không nhìn được tim, máu cùng nổi tuyệt vọng của anh, mà họ chỉ cần nhìn bộ xương thôi, tất cả những gì còn lại nghĩa là thịt, máu, bộ óc, da con người không quan trọng gì đối với họ cả. Cảnh sát không đánh giá con người ở các thứ đó. Chỉ có bộ xương là quí thôi. Họ sẽ khám phá ra bộ xương sống, xương hàm, xương đầu của anh. Chính quyền sẽ không nhìn thấy trái tim anh, tôi đồng ý, nhưng cảnh sát nhờ dụng cụ tối tân để nhìn được bộ xương anh trong kiện hàng, và không bao giờ họ cho anh lên máy bay. Một bộ xương người không thể nào vượt qua biên giới được.
Motok mở nắp két ra, ở bên trong được lót một lớp giấy thiết lấy từ các gói thuốc lá và chocolat:
- Bộ xương của tôi sẽ được thứ giấy nầy che chở ông khỏi lo. Ante Petrovici đành yên lặng. Motok nói tiếp:
- Két nầy do tôi làm lấy. Tôi có trữ đủ cà phê, sinh tố và rượu Cognac, nghĩa là có đủ cho một cuộc hành trình. Kiên nhẫn thì tôi có thừa, chỉ cần một ít may mắn nữa mà thôi. Tôi nghiên cứu kỹ kế hoạch nầy từ nhiều tuần nay rồi. Ý nghĩ nầy xuất hiện khi tôi đọc báo thấy một thiếu nữ đi Hoa Kỹ bằng cách trốn trong một kiện hàng. Nhưng trước khi máy bay cất cánh, cô ta ngột thở và phải kêu cứu.
Petrovici chán nản:
- Tôi không nhận giúp anh. Tôi không thể làm điều anh yêu cầu được. Giả tỉ anh đến Hoa Kỳ mà anh còn sống và không bị phát giác dù là điều nầy khó xảy ra được, thì anh sẽ làm gì ở Nữu Ước? Chỉ vài giờ sau anh sẽ bị bắt và cho hồi hương ngay. Hoa Kỳ đã cho hồi hương hàng triệu người di cư một cách bí mật. Ngày nào cũng có tàu chở loài người đó rời bến tàu Mỹ đi về phía Âu châu. Sau bao nhiêu cố gắng, anh sẽ bị đưa xuống tàu có kẽm gai bao quanh và trở về nhà lại. Bao nhiêu tàu như thế đang đi trên đại dương, đang chở tù nhân bồng bềnh trên nước để đi về phía Âu châu. Từ ngày chiến thắng, tù nhân không những ở trên đất mà còn ở trên mặt biển, trên đại dương nữa. Anh có muốn trốn một nhà tù trên đất liền để bị nhốt trong hầm giam nổi trên nước?
- Ông từ chối thì thật tôi khó xử quá. Ngoài ông ra tôi không còn nhờ ai đóng đinh trên nắp két nầy được nữa. Bạn bè tôi biến mất hết rồi. Isaac Salomon thì đã tự tử. Varlaam đã đi Palestine rồi. Aurel Popesco đã trở thành một công chức cao cấp không thể nào gặp được. Pillat thì quá đa cảm, không nhờ việc nầy được. Tại sao bác sĩ nỡ lòng từ chối?
- Bởi vì, đối với tôi việc nầy đồng nghĩa với tự tử. Tôi không thể hoàn thành việc làm như thế được. Motok, anh tha thứ cho tôi. Tôi cảm thấy thương hại cho con người, không những chỉ riêng anh, riêng tôi, mà xót thương cho tất cả con người đã bị đẩy đến những giải pháp tuyệt vọng như thế. Không những riêng chúng ta, trên hoàn cầu, có hàng trăm triệu người phải nghĩ đến lối thoát tuyệt vọng cuối cùng như anh. Anh nghĩ lại xem, hàng trăm triệu người như thế. Nghĩa là một nửa dân số Hoa Kỳ, hai lần dân số nước Pháp, toàn là những người lang thang, tuyệt vọng, mất hết quyền sống. Chưa bao giờ có một giai cấp vô sản như thế hiện hữu trên thế giới. Chúng mình là những kẻ vô sản đau đớn nhất trên trái đất. Chỉ vì những hiệp ước, hội nghị giữa Tây phương với Quốc xã, với Sô Viết sau đó, mà hiện giờ có hàng trăm triệu người cù bơ cù bất trên khắp nẻo đường đang đi kiếm một lối thoát cuối cùng trong tuyệt vọng. Cho nên tôi không có can đảm để giúp anh một việc như thế.
Trước khi bỏ ra về Ante Petrovici nói tiếp:
- Cũng có thể chính quyền sẽ cho phép gởi kiện hàng nầy đi cho dù họ khám phá ra bộ xương ở trong đó. Bởi vì những người lính can đảm có thể gởi về nhà những chiến lợi phẩm như là một chiếc gươm, một bộ áo, những hạt nút của địch quân bị ngã gục để trang hoàng nhà cửa thì tại sao họ không có thể gởi về một chiếc sọ hay một bộ xương người như là một chiến lợi phẩm? Gởi như thế lại càng chứng tỏ lòng can đảm tột độ của họ đối với cha mẹ hay người yêu của họ chứ sao. Chiến lợi phẩm thường hay được gởi về tổ quốc nhất là những sợi dây người lính dùng để treo cổ các tướng lãnh của quân thù. Đã thế tại sao họ lại không gởi những bộ xương cho tiện việc. Vì thế anh có thể không bị ho phiền hà gì trong chiếc hòm bay đó vì họ xem anh như một chiến lợi phẩm. Rất có thể tôi đã bị lòng căm hờn chi phối nhiều quá. Motok, anh tha lỗi cho, tâm hồn tôi đã quá nhiều lần nổi loạn.
Motok nhìn đồng hồ bảo:
- Nếu ông không giúp tôi, tôi đành kiếm người khác vậy. Tôi phải vào trong hòm nầy trước 6 giờ. John Schmith sẽ đến đây đúng 6 giờ.
Đánh máy: Nguyễn Đ Thanh & Ct.Ly
Nguồn: Nhà xuất bản Lá Bối ngày 7- 10- 1968
casau - VNthuquan.net
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 15 tháng 10 năm 2014