← Quay lại trang sách

Vụ Án Thứ 14 Đứa Trẻ Trong Cát-Phần 1

Điều bi thảm nhất trong cuộc đời không gì bằng mất con, tất cả mọi thứ đều sụp đổ, không bao giờ còn trở lại được như trước.

- Dwight David Eisenhower -

Mùa mưa ở miền Nam, mưa như trút nước.

Rất nhiều thành phố phải gấp rút tu sửa hệ thống thoát nước trước khi những đợt mưa rào kéo đến, nhưng vẫn có một số lãnh đạo thành phố tự tin thái quá, cho đến khi mưa bão sầm sập giáng xuống đầu.

Mây đen bao phủ suốt gần một tuần lễ, mưa cơn to tiếp cơn nhỏ, cứ dầm dề mãi không dứt. Cống ngầm các nơi bị quá tải, đường phố nào cũng thấy công nhân vệ sinh đô thị đang hối hả tu sửa đường ống nước dưới trời mưa.

Lại qua một đêm mưa gió, hệ thống thoát nước thành phố bị tê liệt hoàn toàn, nước ngập mỗi lúc một cao, nắp cống ngầm ở những nơi thấp trũng bị nước cuốn bật tung, nước phun ồ ạt. Đúng là khắp tỉnh đâu đâu cũng thấy đài phun nước.

Khu đô thị Thịnh Thế là một hạng mục kiến trúc mới được thi công ở vùng ngoại ô tỉnh lỵ, rộng gần mười hecta, sau khi xây xong, đây xứng đáng được coi là khu đô thị hàng đầu trong tỉnh. Vì mưa to gió lớn nên suốt một tuần nay, các hạng mục lớn đều phải tạm dừng thi công, trên công trường thi thoảng mới vọng lên tiếng ồn ào của các công đoạn lặt vặt.

Mưa xối xả mấy ngày liền, đã cuốn tung đống rác xây dựng ở đằng tây công trường. Con đường phía tây công trường ngập ngang bắp chân. Bong bóng và bao xi măng nổi lềnh bềnh trên mặt nước.

Ông Vương là công nhân phụ trách thu dọn rác xây dựng ở công trường, mưa bão khiến ông phải nghỉ vài ngày, vì ăn lương theo giờ làm nên mấy hôm nay ông cũng không có thu nhập. Sắc trời âm u khiến tâm trạng của ông cũng nặng nề theo. Ngày nào ra khỏi nhà, ông cũng không tài nào lái nổi chiếc xe ba bánh cũ nát, đành phải dò dẫm đi bộ trong nước ngập lạnh buốt. Cho nên, mấy hôm nay, ông luôn bực bội trong lòng.

Lại một đêm mưa gió bão bùng, mãi khi trời sáng mới bắt đầu có vẻ mây tan nắng hiện. Ông Vương bước ra ngoài lán, nhìn về phía vầng mặt trời ẩn hiện phía chân mây, thở phào một hơi. Ông nhìn con đường phía tây ngập úng những nước, băn khoăn không biết hôm nay đã có thể bắt đầu công việc được chưa. Rồi ông lội xuống nước, muốn thử xem, nước sâu chừng nào, mặt đường có hỏng nhiều không.

Cứ thế bước thấp bước cao đi được chừng hai mươi phút mới đến được bên bãi rác. Đột nhiên, ông thấy chân mình giẫm phải thứ gì đó mềm mềm khiến ông giật nảy mình.

“Nước đọng mà cũng có rắn nước à?” Ông Vương nhìn xuống mặt nước ngầu bùn đang chảy lừ đừ dưới chân, muốn nhìn cho rõ thứ gì dưới đó.

Nhưng, chẳng có thứ gì động đậy.

Ông Vương lập cập thò chân ra dò thử lần nữa.

Không sai chút nào, đúng là có vật gì mềm giống như con rắn!

Sau khi giẫm giẫm đá đá vài lần, ông Vương nhận ra nó không phải là vật sống. Ông mò được một cành cây bên đường, khều thử cái vật mềm mềm dưới nước.

“Ái chà, nặng gớm nhỉ.” Cành cây bị gãy đôi, ông thở mấy cái, rồi thò tay xuống mò thử.

“Hóa ra là một cái túi vải.” Ông Vương đã sờ thấy vật đấy, liền đoán.

Hết cả sợ, ông Vương nắm lấy 'cái túi', ráng sức nhấc lên khỏi mặt nước.

“Thình!” Ông Vương chợt thấy tim mình như bị ai bóp một cái thật mạnh. Thứ ông đang cầm trên tay nào phải túi với bao gì, mà là cánh tay của một đứa trẻ. Theo đà kéo của ông, cả người đứa bé đã bị lôi lên khỏi mặt nước. Cơ thể nó mềm oặt, rũ xuống, bộ mặt tím xanh trông vô cùng ghê rợn.

Tay ông Vương run lên lẩy bẩy, buông đứa bé rơi tõm xuống nước. Ông ngã ngồi xuống, miệng há hốc, không thốt được một lời.

* * *

Mưa vẫn tuôn dầm dề, thời tiết này không ai có thể vui nổi, huống hồ còn có một ông cụ đang gào khóc ầm ĩ trong phòng làm việc.

Một tháng trước, ông cụ bị người ta đập cờ lê vào đầu. Căn cứ theo tiêu chuẩn giám định thương tật phần mềm của cơ thể, vết thương tày trên da đầu có độ dài lên đến 6 centimet sẽ được coi là thương tích nhẹ. Vết sẹo trên đầu ông cụ dài đến 20 centimet nhưng báo cáo giám định pháp y của Công an huyện lại cho là thương tích không đáng kể.

“Pháp sư Tần ơi!” Ông cụ gào khóc: “Lũ pháp sư chỗ chúng tôi đúng là táng tận lương tâm, chỉ biết ăn tiền. Người nghèo như chúng tôi thật khổ hết chỗ nói, bị người ta đánh mà chỉ biết ngậm đắng nuốt cay. Anh xem, sao thói đời lại có thể đổi trắng thay đen như thế chứ? Thật đáng thương cho những người thấp bé cổ họng chúng tôi!”

“Là pháp y!” Tôi đính chính: “Thôi bác đừng than khóc nữa, để tôi xem, vết thương thế nào.”

Vết sẹo trên đầu ông cụ là một đường thẳng và mảnh, rìa mép phẳng phiu, lượn thành một vòng cung nhỏ trên mặt da tại vùng chẩm. Xem xong, tôi bỗng bật cười, lại là một chiêu trò không đủ tầm.

Theo chính sách hiện nay, với những vụ tranh chấp dân sự dẫn tới cố ý gây thương tích tạo thành tổn thương nhẹ, có thể xử lý bằng cách hòa giải. Do khoản tiền đền bù hòa giải ngày càng tăng lên, nên các vụ ngụy tạo thương tích (không bị thương mà giả vờ bị thương) và tự tạo thương tích (tự gây tổn thương cho mình) càng ngày càng nhiều. Điều này, đòi hỏi bác sĩ pháp y phải có con mắt tinh tường, phân biệt chuẩn xác mới có thể bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của đương sự trong vụ án.

Đây lại là một vụ thông đồng với bác sĩ để ngụy tạo vết thương giả nhưng tay nghề quá kém. Ai chẳng biết, vết thương do cờ lê đập vào kiểu gì cũng không thể thẳng thớm ngay ngắn được, càng không thể mảnh như thế này. Hơn nữa, diện tích tiếp xúc của cờ lê quá nhỏ, không thể đập một cái mà gây ra một vết thương kéo dài đến nửa vùng chẩm. Cho nên, vết sẹo trên đầu ông cụ chắc chắn là được rạch bởi vật sắc nhọn như dao phẫu thuật.

“Bác cho rằng cái cờ lê có thể tạo ra vết sẹo giống như trên đầu bác được à?” Tôi hỏi.

Ông cụ ngước mắt nhìn tôi: “Pháp sư Tần, ý anh là sao? Anh bảo tôi làm giả ấy à? Tôi mà làm giả được sao? Tôi có giống loại người ăn gian nói dối không?”

“Là pháp y!” Tôi chau mày: “Có làm giả hay không, bản thân bác biết rõ hơn ai hết. Kết quả tái khám nghiệm của bác vẫn là tổn thương không đáng kể.”

Ông cụ há hốc miệng, im bặt một hồi lâu mới nói: “Thật không ngờ đấy, pháp sư Tần ạ, đến sở Công an tỉnh các anh cũng bị hắn mua chuộc cả rồi.”

Tôi cười nhạt, lắc đầu: “Bác muốn nói thế nào cũng được, chúng tôi không thể buộc tất cả mọi người đều phải hài lòng với chúng tôi, chỉ cần đảm bảo khách quan công bằng, không thẹn với lương tâm mình là được. Bác có thể về được rồi. Ngoài ra, về phía đơn vị thụ lý vụ án, tôi thấy các anh có thể điều tra sự vụ này về tội ngụy tạo chứng cứ.”

Vừa nghe tôi nói vậy, ông cụ đã mặt đỏ phừng phừng: “Công bằng cái rắm thối ấy! Vết sẹo trên đầu tao dài mười mấy phân mà chúng mày dám bảo là tổn thương không đáng kể, chẳng phải là ăn tiền bóp méo sự thật còn gì? Ông mày về sẽ lên mạng vạch mặt chúng mày!”

“Bác cứ việc!” Ông ta càng sừng sộ, tôi lại càng thêm bình tĩnh: “Người chửi chúng tôi trên mạng đâu chỉ có một mình bác, thêm một người cũng chẳng sao. Mời bác về cho!”

“Reng reng reng…”

Tôi chau mày xua tay: “Tôi phải nghe điện thoại đây, chào bác nhé!”

Điều tra viên bèn đưa ông cụ ra khỏi phòng làm việc.

“Bây giờ là 8 rưỡi, trước 9 giờ phải đến công trường khu đô thị Thịnh Thế.” Trong điện thoại vang lên mệnh lệnh của sư phụ.

* * *

“Ờ… hiện trường thế này, khám nghiệm thế nào được đây?” Đại Bảo đứng trong nước ngập, nhìn ngang nhìn ngửa, rồi kêu lên: “Toàn nước là nước.”

Lâm Đào cũng lắc đầu hoang mang: “Biết khám nghiệm thế nào, chẳng còn chút dấu vết nào nữa.”

Tôi đưa mắt nhìn quanh. Tuy nước đọng đang từ từ rút đi, nhưng cảnh tượng xung quanh đúng là tan hoang như một bãi chiến trường. Đủ loại rác xây dựng bị nước xối ngổn ngang, những đụn cát và đụn đất đều bị sạt lở nham nhở, trôi theo dòng nước đục ngầu về phía cống ngầm ở chỗ trũng.

Nước ngập chỉ còn đến mắt cá chân, một nửa thi thể đứa bé đã lộ trên mặt nước, khe khẽ dập dềnh theo dòng nước chảy. Nếu không có sắc mặt tím xanh ghê rợn thì đứa bé trông như đang nằm ngủ trong nôi, khuôn mặt xinh xắn trông thật đáng yêu.

Đau lòng nhất là phải nhìn cái chết của trẻ thơ. Tôi bước lại bên đứa trẻ, quan sát một chốc, trong lòng tràn đầy xót thương.

“Đây là con cái nhà ai thế?” Đại Bảo hỏi bác sĩ Vương đứng bên cạnh.

“Thế mà cũng hỏi!” Trong lòng đang sẵn bực bội, tôi trút cả lên đầu Đại Bảo: “Biết là con cái nhà ai thì cần chúng ta tới đây làm gì nữa?”

Bác sĩ Vương gật đầu nói: “Đúng vậy! Kỳ lạ thật, khu vực này ngoài công trường thi công và mấy xóm làng lân cận chưa phải di dời thì không còn gì khác nữa. Nhưng, đồn công an khu vực lại không hề nhận được tin báo trẻ con mất tích. Nếu đứa trẻ nhỏ tuổi thế này đi lạc, người nhà kiểu gì cũng phải báo công an chứ.”

“Các anh thấy thế nào?” Tôi hỏi.

Bác sĩ Vương thở dài, ngồi xuống, nhấc cánh tay nhỏ bé của đứa trẻ lên, nói: “Em xem này!”

Trên tay đứa trẻ chi chít những vết trầy xước li ti.

Tôi cúi đầu ngẫm nghĩ một lát, rồi bước tới bên đống cát đã bị xối mất một nửa ở bên cạnh, lấy từ trong hòm đồ nghề ra một cái xẻng nhỏ, bắt đầu đào bới.

“Sao lại có tổn thương thế này được nhỉ?” Đại Bảo lẩm bẩm tự hỏi: “Những vết trầy xước rất nhỏ, rõ ràng không phải là bị đánh đập, cũng không phải là do chà xát với mặt đất.”

Bác sĩ Vương rất giàu kinh nghiệm, nghe anh ta nói thế thì phì cười, chỉ về phía tôi đang hì hục đào cát, nói: “Tần Minh đoán đúng rồi đấy!”

“Cát?” Đại Bảo đẩy gọng kính trên sống mũi, nói: “Ồ, là do nghịch cát gây ra à? Nhưng, hiện trường đã bị hủy hoại hoàn toàn, muốn tìm ra dấu vết thì hơi bị khó đấy!”

“Đứa bé chắc mới hơn một tuổi, đi còn chưa vững mà nghịch cát nỗi gì?” Tôi hơi áy náy vì lúc nãy đã tức giận vô cớ, bèn dịu giọng nói: “Còn nữa, anh đã bao giờ trông thấy đứa trẻ nào nghịch cát đến nỗi trầy trụa khắp người chưa?”

“Thì chính vì nhỏ quá nên mới bị thương mà.” Đại Bảo làu bàu.

Tôi chẳng nói gì thêm, tiếp tục cắm cúi đào cát. Đào được một lúc, tôi trông thấy một sợi vải nhỏ màu trắng. Tim tôi thắt lại, vội lôi ra xem, là một chiếc khăn quàng của trẻ nhỏ.

Cơn phẫn nộ âm ỉ tích tụ trong lòng khiến tôi chợt thấy da đầu tê dại, hai tai ù đặc. Tôi nói: “Đứa trẻ bị chôn ở chỗ này.”

Bác sĩ Vương gật đầu đồng tình: “Đúng là loại người không bằng cầm thú. Đến trẻ con cũng không tha.”

Đại Bảo chớp chớp mắt, cuối cùng cũng đã bừng tỉnh: “Mọi người…. Mọi người đang nói… em bé bị chôn sống à?”

Hồi nhỏ đọc truyện diễn nghĩa hay có cảnh chôn sống người ta, nhưng giờ đã sang thời đại văn minh, tình trạng này đã cực kỳ hiếm gặp, vì người bình thường sẽ chẳng ai ngoan ngoãn chịu trận. Nhưng, trẻ nhỏ thì khác, vì trẻ nhỏ hoàn toàn không có năng lực phản kháng.

Bác sĩ Vương chuyển thi thể đứa bé lên một bệ xi măng sạch sẽ, lấy kẹp cầm máu vạch mí mắt ra: “Anh xem này, trong mắt đứa bé có các, niêm mạc bị xung huyết, cho thấy lúc nạn nhân bị vùi xuống, mắt vẫn còn cử động. Vậy thì những vết trầy xước trên tay chính là phản ứng sống khi nạn nhân nắm chặt lấy cát.”

Đại Bảo gật đầu.

Tôi đưa mắt nhìn quanh, vì đây là nơi hẻo lánh nên không có đám đông nào kéo tới xem. Tôi quay sang nói với cảnh sát khu vực: “Các anh hãy canh giữ không cho ai tới gần, chúng tôi sẽ giải phẫu tử thi ngay tại đây.” Vừa nói tới hai chữ 'giải phẫu', tôi bỗng cảm thấy như có khối đá tảng đè chặt xuống tim mình, thở không ra hơi. Rạch dao mổ vào cơ thể non nớt của đứa bé, đó quả là một sự giày vò tâm lý ghê gớm đối với một bác sĩ pháp y.”

“Theo em thì liệu có phải là ai đó vứt bỏ con mình không?” Đại Bảo hỏi.

Tôi lắc đầu, nói: “Nếu là vứt con, người ta thường sẽ bỏ trước cửa cô nhi viện hay cổng nhà người khác. Con ai chẳng phải rứt ruột đẻ ra? Cho dù, phải vứt bỏ vì bất kỳ lý do gì cũng sẽ vô cùng đau đớn, đâu có lý gì lại còn đem chôn sống? Hơn nữa, nếu như muốn bỏ, người ta đã bỏ luôn từ lúc mới sinh ra. Còn em bé này đã hơn một tuổi, lại được ăn mặc chỉnh tề, áo quần cũng không phải loại rẻ tiền, chắc chắn không phải là bị bố mẹ bỏ rơi đâu.”

“Nếu hơn một tuổi mới phát hiện ra em bé bị bệnh thì sao?” Đại Bảo nói.

“Tần Minh đã nói rồi, áo quần không phải loại rẻ tiền, gia cảnh chắc cũng không đến nỗi.” Bác sĩ Vương nói: “Nên không có chuyện không chạy chữa cho con mà lại mang giết con đi.”

“Có bệnh hay không, giải phẫu xong, sẽ biết ngay thôi.” Tôi nói.

Con dao mổ trong tay tôi run rẩy đặt trước khoang ngực bé nhỏ, lấy can đảm đến mấy lần mà tôi vẫn không thể rạch xuống nổi. Bác sĩ Vương huých cùi chỏ vào tôi có ý an ủi, sau đó cầm lấy dao mổ, rạch mở lớp da trên bụng ngực đứa bé.

Khi những xương sườn trắng rợn phơi ra trước mắt, một dòng máu nóng bỗng xộc thẳng lên đầu tôi. Tôi tự thề với lòng mình, nhất định phải đưa bằng được con người cầm thú kia ra trước vành móng ngựa.

Khung xương đứa bé vẫn chưa phát triển hoàn thiện, da rất mỏng nên công việc giải phẫu diễn ra khá nhanh. Tôi và bác sĩ Vương đứng hai bên đứa trẻ, nhanh chóng khám nghiệm các cơ quan nội tạng trong khoang bụng ngực. Khi sắp kết thúc, chợt nghe Đại Bảo kêu toáng lên: “Dừng lại! Mọi người nhìn xem, em bé cử động kìa!”

Đứa Trẻ Trong Cát

Phần 2

Đầu óc tôi mụ đi sau tiếng hét kinh hãi của Đại Bảo, tay tôi khựng lại, tôi trợn mắt nhìn: “Cử động gì đâu, anh hét cái gì thế?”

Bác sĩ pháp y đều là những người tôn sùng khoa học, tôi cảm thấy nỗi kinh hãi của chính tôi khi nãy thật là nực cười.

“Lúc chúng ta đến đây đã thấy vết hoen tử thi, thi thể cũng cứng đờ rồi.” Bác sĩ Vương nói: “Chắc chắn là đã tử vong.”

Có rất nhiều bạn bè từng hỏi tôi, lúc các anh mổ xẻ người ta ra, không sợ nạn nhân vẫn chưa chết à? Tôi đã nói với họ, khi bác sĩ pháp y khám nghiệm tử thi, thường phải đợi nạn nhân tử vong được vài tiếng đồng hồ mới mổ, tức là khi đã xuất hiện vết hoen tử thi và hiện tượng co cứng tử thi. Vì vết hoen tử thi và co cứng tử thi chính là tiêu chuẩn quan trọng để xác định tử vong, khác về bản chất so với việc bác sĩ kết luận ai đó đã chết. Bác sĩ không thể đợi đến mấy tiếng sau, khi người chết xuất hiện các dấu hiệu tử vong mới tuyên bố họ đã chết, mà thường là khi không còn đo thấy các dấu hiệu sống nữa, liền lập tức tuyên bố tử vong. Thế nhưng nếu gặp phải hiện tượng 'chết giả', sẽ xuất hiện tình trạng 'xác chết sống dậy'. Còn pháp y bao giờ cũng phải đợi đến khi nhìn thấy triệu chứng tử vong mới bắt đầu khám nghiệm, cho nên không thể xảy ra khả năng 'giải phẫu người sống' được.

Tôi di chuyển con dao mổ trong tay và đã hiểu chuyện gì vừa xảy ra, nói: “Anh đúng là nhìn gà hóa cuốc, tại người em bé nhẹ quá, khi chúng ta di chuyển dao mổ, thi thể sẽ động đậy. Còn người lớn đủ nặng nên mới không động đậy theo động tác của chúng ta.”

Đại Bảo cười ngượng nghịu: “Tại anh chưa giải phẫu trẻ nhỏ bao giờ.”

Sau khi khám nghiệm tử thi, chúng tôi xác nhận đứa bé đúng là đã bị chôn sống trong đống cát, tử vong do ngạt thở. Ngoài những triệu chứng bên ngoài mà chúng tôi nhìn thấy, trong đường hô hấp và thực quản của đứa bé có ít cát, đặc biệt là trong dạ dày có khá nhiều sữa trộn lẫn với cát. Nuốt là phản ứng chỉ có ở người sống. Ngoài ra, không phát hiện ra bất kỳ tổn thương hay bệnh lý gì. Đây là một bé trai đáng yêu và khỏe mạnh. Ngoài ra, thi thể vẫn còn hiện tượng co cứng, căn cứ vào đó, có thể suy đoán em bé tử vong vào khoảng ba mươi tiếng đồng hồ trước đó, tức là rất có thể bị chôn sống vào sáng sớm hôm kia.

“Nếu là mưu sát.” Đại Bảo nói: “Thì khả năng bị người thân sát hại là rất nhỏ, như vậy sẽ dễ dàng tìm ra lai lịch thi thể.”

“Còn có một khả năng nữa.” Tôi đờ đẫn nhìn thi thể đứa bé vừa được khâu xong, đang nằm im thanh thản, nói: “Là cả nhà đứa bé đều đã bị giết hại.”

“Điều này thì phải dựa vào kết quả điều tra vòng ngoài.” Bác sĩ Vương nói: “Một đứa trẻ bé tí thế này, có khi còn chưa đăng ký hộ khẩu, ngoài việc tìm kiếm manh mối từ quần áo thì không còn cách nào để tìm ra lai lịch nạn nhân nữa. Nếu đến cuối cùng mà vẫn không tìm ra được là con cái nhà ai thì mất mặt lắm đấy.”

“Tóm lại, đây là một vụ mưu sát.” Tôi nói: “Trước tiên cứ lập hồ sơ vụ án đã, sau đó điều tra vòng ngoài, em không tin trong một khu vực phạm vi không lớn lại không thể tìm ra manh mối về một đứa trẻ mất tích. Còn nữa, hãy đưa vật thể dạng sữa trong dạ dày đứa bé đi xét nghiệm ADN.”

* * *

Lực lượng điều tra hình sự của tỉnh mạnh hơn các khu vực khác không chỉ nhờ có nguồn lực kinh tế hùng hậu, mà quan trọng hơn là mỗi một thành viên đều là những chiến tướng tinh nhuệ đã được tuyển chọn kỹ lưỡng. Chiều hôm đó, khi tâm trạng tôi còn chưa kịp bình ổn trở lại, bác sĩ Vương đã gọi điện đến.

“Đã phát hiện ra một manh mối cực kỳ giá trị.” Bác sĩ Vương nói: “Cách hiện trường năm cây số có một ngọn núi tên là Thanh Diên.”

“Em biết chỗ đó.” Tôi sốt ruột muốn biết ngay manh mối là gì.

“Dưới chân núi có một ngôi làng.” Bác sĩ Vương nói: “Theo phản ánh của dân làng, trong làng có một nhà họ Thân sinh được hai đứa con một gái một trai. Tối hôm qua, họ nghe thấy tiếng cãi vã của hai vợ chồng nhưng không nghe thấy tiếng khóc của trẻ con. Theo xác nhận của người này, quần áo của nạn nhân giống hệt như quần áo của cậu con trai nhà họ Thân.”

“Được!” Tôi đập mạnh xuống bàn: “Chúng tôi và bộ phận điều tra sẽ cùng đến đó.”

Thân Tuấn là một người đàn ông gầy gò trạc 40 tuổi, ngoại hình hết sức khó coi.

“Đây là con anh phải không?” Điều tra viên giơ bức ảnh chụp đứa bé cho Thân Tuấn xem.

Thân Tuấn nhìn tấm ảnh, khẽ run lên một cái, rồi gật đầu.

Phản ứng của anh ta khiến tôi kinh ngạc. Một người cha nhìn thấy ảnh chụp xác chết của con mình thì không thể nào bình thản như vậy được. Nhìn vẻ sửng sốt của điều tra viên, tôi biết họ cũng đang nghĩ như tôi.

“Vợ anh đâu?” Điều tra viên hỏi.

Thân Tuấn không trả lời, lắc đầu, tỏ ý không biết.

“Nghe nói anh còn một con gái lên năm.”

“Hai mẹ con đi cả rồi.”

“Đi đâu?”

“Con mất, chúng tôi cãi nhau, cô ấy dẫn con gái bỏ đi rồi.”

“Con trai chết mà anh không buồn à?”

“Buồn thì có tác dụng gì?” Thân Tuấn cúi gằm mặt nói: “Hôm qua, thấy con trai mất tích là tôi biết nó đã đến số rồi. Thằng bé còn nhỏ như vậy, làm sao mà tìm được?”

“Vợ anh là người thế nào?” Điều tra viên nói: “Sao chúng tôi không điều tra ra thông tin kết hôn của anh?”

Tin này tôi vẫn chưa được biết, giờ nghe nói, tôi mới giật mình. Hiện giờ, ở nông thôn đúng là có rất nhiều người không đăng ký kết hôn nhưng đã chung sống với nhau, sinh con đẻ cái như thường.

“Cô ta là người Tây Bắc đến đây làm thuê.” Thân Tuấn nói: “Mấy năm trước tôi bán cát phất lên, cô ta theo đuổi tôi, sau đó tôi và cô ta về ở với nhau. Nhưng, cô ta là trẻ mồ côi, không có hộ khẩu nên các anh không tra ra được.”

Điều tra viên đang định hỏi tiếp thì tôi vỗ vai anh ta, ra hiệu đưa người đàn ông này về đồn thẩm vấn tiếp.

“Em nghi ngờ anh ta à?” Lúc lên xe cảnh sát, Đại Bảo hỏi tôi.

Tôi gật đầu: “Vẻ bình thản khác thường của anh ta khiến em không thể không nghi ngờ. Còn nữa, vợ anh ta mồ côi thì có thể dẫn con đi đâu được? Cô ấy không đủ điều kiện để giận chồng bỏ nhà ra đi.”

“Là vì lý do này à?” Đại Bảo hỏi: “Chẳng phải em đã nói người bình thường chẳng ai lại sát hại vợ con mình tàn nhẫn đến thế?”

“Ngộ nhỡ thằng bé không phải con đẻ của anh ta thì sao?” Tôi vặn lại.

* * *

Kỹ thuật giám định ADN hiện đại ngày càng trở nên hoàn thiện, mẫu xét nghiệm có quá trình xử lý sơ bộ khá đơn giản, ví dụ như vết máu, chỉ khoảng năm tiếng là đã cho ra kết quả ADN.

Đến tối, xét nghiệm ADN được gửi tới tổ chuyên án, chứng minh phán đoán của tôi đã sai lầm.

“Nếu nạn nhân là con ruột của Thân Tuấn thì khó mà nghi ngờ anh ta được.” Tôi cúi đầu nhận sai: “Thả người trước đi.”

“Nếu như con trai bị lạc mất, chắc không có chuyện người dưng đem chôn sống đứa bé chứ?” Đại Bảo nói: “Chẳng lẽ là tai nạn ngoài ý muốn? Ví dụ như mưa lớn cuốn trôi đống cát, vừa hay chôn vùi đứa bé?”

Lâm Đào gật đầu tán đồng.

Tôi lắc đầu, nói: “Tử vong vào khoảng 4, 5 giờ sáng ngày 29, tôi đã xem thông tin thời tiết, lúc đó đang mưa to gió lớn, hiện trường nước ngập lút cẳng chân. Một đứa bé mới hơn một tuổi đầu, chỉ cao mấy chục phân, không thể đến đó được.”

“Thân Tuấn nói, sau khi vợ anh ta để lạc mất con, về nhà hai vợ chồng cãi vã, chị vợ đã bỏ đi.” Anh Trương, phân đội trưởng phân đội Cảnh sát hình sự Công an huyện nói: “Giờ chúng ta có hai con đường, một là phải điều tra mối quan hệ của hai vợ chồng, đặc biệt là xem có nhân tình hay không. Hai là tìm kiếm vợ của Thân Tuấn là Khương Phương Phương, mồ côi, không có hộ khẩu, tìm thấy chị ta sẽ rõ được nhiều điều.”

“Thế Khương Phương Phương không nói cho Thân Tuấn biết tại sao lại lạc mất con à?” Tôi hỏi.

“Nghe Thân Tuấn nói, sau khi Khương Phương Phương về nhà mặt mày đờ đẫn, chỉ nói lạc mất con rồi, không nói thêm gì nữa.”

“Không hợp lý cho lắm.” Tôi nói: “Các anh cứ điều tra trước đi, có thể cho tôi tờ lệnh khám nhà được không? Tôi muốn đến khám nhà Thân Tuấn.”

Đội trưởng Trương gật đầu.

Trước khi thả Thân Tuấn trở về nhà, chúng tôi đã lặn lội trong đêm mang đèn khám nghiệm tìm tới nhà Thân Tuấn khám xét.

Cùng với tốc độ xây dựng rầm rộ của tỉnh lỵ, do nhu cầu rất lớn từ các công trình kiến trúc nên nghề bán cát gần đây rất phất. Thân Tuấn nhờ đó mà phát tài, cất được căn nhà hai tầng khang trang, nội thất lịch sự.

Tôi, Đại Bảo, Lâm Đào chia nhau khám xét các phòng, công việc tiến hành rất khẩn trương nhưng chẳng có phát hiện gì giá trị. Đồ đạc trong phòng rất bình thường. Đột nhiên, chúng tôi nghe thấy tiếng kêu của Đại Bảo, liền chạy tới phòng ngủ chính nơi anh ta đang khám xét.

“Kêu cái gì thế?” Tôi hỏi: “Không biết thế nào là khám xét bí mật à?”

“Đúng là có bất thường thật đấy.” Đại Bảo cầm một cuốn sổ nhỏ đưa cho tôi.

Đó là cuốn sổ y bạ của bệnh viện tâm thần thành phố, tên bệnh nhân là Khương Phương Phương. Kết quả chẩn đoán: tâm thần phân liệt gián đoạn, rối loạn cảm xúc lưỡng cực.

“Khương Phương Phương bị tâm thần!” Lâm Đào kêu lên.

“Em nghĩ liệu có phải Khương Phương Phương lên cơn thần kinh, rồi chôn sống con trai mình không?” Đại Bảo hỏi.

“Vậy tại sao Thân Tuấn lại giấu chi tiết Khương Phương Phương bị bệnh tâm thần?” Tôi nói.

“Tại sao em cứ nghi ngờ anh ta thế? Anh thấy anh ta cực kỳ bình thường.” Bác sĩ Vương nói: “Dù sao, anh ta cũng là một ông chủ, nói ra chuyện vợ bị tâm thần cũng mất mặt lắm chứ.”

“Đúng thế!” Đại Bảo nói: “Mỗi người đều có cách suy nghĩ riêng, nên chúng ta không thể dùng lẽ thường tình để suy đoán về suy nghĩ hoặc động cơ của mỗi một con người, đây là lời sư phụ đã nói.”

Tôi gật đầu, nói: “Có lý. Vậy bây giờ càng phải tìm bằng được Khương Phương Phương.”

* * *

Trên đường trở về, chúng tôi và bác sĩ Vương chia tay nhau. Lực lượng pháp y của tỉnh quá ít ỏi, nhưng lại phải đảm đương toàn bộ các vụ án mạng bất thường trong toàn thành phố. Bác sĩ Vương vừa nhận được mệnh lệnh của trung tâm chỉ huy 110, yêu cầu đến bờ sông cạn gần đó để khám nghiệm hiện trường án mạng bất thường.

Trong giấc ngủ, ác mộng liên tiếp kéo đến. Tôi nằm mơ thấy cậu bé đáng yêu ấy, mơ thấy em bị chôn vùi trong đống cát, ra sức giãy giụa. Tôi giơ tay ra, nhưng không thể chạm được vào em, tôi càng gắng sức vùng vẫy, lại càng rời xa em… đột nhiên, tôi lại quay về phòng giải phẫu, đứng trước mặt tôi chính là kẻ thủ ác trong vụ án Vân Thái. Hắn bước từng bước lại gần tôi, ngoác rộng cái miệng đỏ lòm, hàm răng trắng rợn sáng lên lấp lóe dưới ánh đèn không bóng. Tôi vớ lấy bộ còng tay lao bổ về phía hắn, nhưng lại vồ trượt. Hắn đứng ngay cạnh tôi, nhưng tôi không tài nào bắt được hắn. Hắn quay đầu, chạy ra khỏi phòng giải phẫu. Tôi co chân định đuổi theo, nhưng không tài nào nhúc nhích được. Tôi cuống quýt, mồ hôi vã ra đầm đìa.

Tôi bật dậy khỏi giường, khắp người ướt đẫm mồ hôi, khiến Linh Đan đang ngủ ngon giật mình choàng tỉnh. Tôi ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, trời đã sáng.

“Anh lại mơ thấy ác mộng à?” Linh Đan dụi mắt hỏi: “Thế này thì không ổn rồi, ngày nào anh cũng áp lực thế này, làm sao chịu nổi?”

Tôi xoa xoa mặt, lắc đầu: “Anh không sao, chỉ vì trong lòng anh vẫn còn có một nút thắt chưa thể gỡ được.” Tôi cầm cuốn sổ ghi chép ở đầu giường lên, lật giở những ghi chép về vụ Vân Thái. Vì vụ án này mà tôi đã viết kín đến nửa cuốn sổ, ghi chép lại toàn bộ tình hình điều tra, phân tích hiện trường, tổn thương thi thể, những điểm khó khăn và nghi vấn của cả năm vụ án trong chuỗi vụ án Vân Thái. Cứ rảnh rỗi là tôi lại giở ra xem, chỉ mong phát hiện ra được vấn đề nào đó mà tôi bỏ sót. Không phá được vụ án này, những cơn ác mộng sẽ vẫn bám riết lấy tôi.

“Em ngủ thêm chút nữa đi.” Tôi nói với Linh Đan: “Anh đến tổ chuyên án.”

* * *

Toàn bộ thành viên tổ chuyên án, bao gồm cả bác sĩ Vương, đều suốt đêm không ngủ. Phòng họp của tổ chuyên án như sắp bốc cháy đến nơi, tôi vừa bước vào cửa, mùi khói thuốc đặc quánh đã khiến tôi phải ho sặc sụa.

“Tới rồi à?” Phân đội trưởng Trương mặt nặng như chì: “Khương Phương Phương chết rồi.”

“Chết rồi?” Tôi quên bẵng cả bầu không khí sặc sụa: “Sao lại chết được?”

“Tối qua, anh tới hiện trường tử vong bất thường, nạn nhân chính là Khương Phương Phương.” Bác sĩ Vương nói.

“Sao anh biết?”

“Cũng vừa biết mới đây. Tối qua, phòng Giám định ADN đã làm việc thâu đêm, xét nghiệm thấy ADN của nạn nhân tối qua trùng khớp với ADN trong mẫu sữa lấy từ dạ dày của con trai Thân Tuấn.”

“Thế còn nguyên nhân tử vong, anh có biết không?” Tôi hỏi.

Bác sĩ Vương gật đầu: “Theo khám nghiệm sơ bộ bên ngoài thi thể, tử vong do rơi từ trên cao xuống.”

Tử vong do rơi từ trên cao xuống thường là do sơ ý hoặc tự sát, rất ít khi là do bị sát hại.

“Giết con, rồi tự sát.” Đại Bảo nói: “Nếu là như vậy, thì có thể giải thích được vụ án này.”

“Tử thi vẫn chưa giải phẫu phải không?” Tôi hỏi.

Bác sĩ Vương lắc đầu nói: “Lúc anh tới khám nghiệm hiện trường đã tìm được một bức ảnh trong túi áo nạn nhân, chụp nạn nhân đang bế con. Anh ngờ rằng đó chính là con trai của Thân Tuấn cho nên mới cho giám định ADN ngay trong đêm. Anh định đợi xác nhận xong, mới tiến hành giải phẫu tử thi.”

Tôi gật đầu tán thành: “Chúng ta tới xem hiện trường trước nhé.”

Đứa Trẻ Trong Cát

Phần 3

Hiện trường nằm bên bờ một con sông cạn ở lưng chừng núi Thanh Diên. Nói là sông nhưng chính xác thì đó chỉ là một khe nước. Trong khe quanh năm khô cạn nhưng do mưa lớn suốt cả tuần, nghe nói lúc nước lên cao nhất cũng đến hai mươi phân.

Dưới đáy khe đá nhọn lởm chởm. Khi được dân làng phát hiện, thi thể đang nằm trên một tảng đá khá cao, phía trên tảng đá là cây cầu đá vắt ngang qua lòng khe. Hai bên thành cầu có lan can khá cao, đề phòng người qua lại sảy chân ngã xuống. Tôi đứng trên cầu đá, bám chặt vào thành lan can nhìn xuống, thấy rõ hình người vẽ bằng phấn trên tảng đá dưới đáy khe. Đó là hình đánh dấu vị trí ban đầu của thi thể trước khi được nhân viên khám nghiệm hiện trường chuyển đi.

“Cao thế này, xuống thế nào được?” Tôi vốn mắc chứng sợ độ cao, từ đây xuống đáy khe cũng phải hơn hai chục mét.

“Tay vịn xây bằng xi măng trắng, bẩn lắm!” Bác sĩ Vương kéo tôi ra, giúp tôi phẩy đi vệt vôi trắng dính trên quần tôi, nói: “Tối qua bọn anh phải đu dây xuống đấy.”

Đu dây, tức là buộc sợi dây thừng to bằng cổ tay ngang lưng, sau đó mấy người trên bờ cùng hợp sức kéo, từ từ thả nhân viên khám nghiệm hiện trường xuống dưới chân cầu.

Bình thường, chỉ thấy bộ đội đặc chủng trên ti vi thực hiện kỹ thuật này, nào ngờ bác sĩ pháp y cũng có lúc phải làm người nhện. Nghe xong, tôi lại nhìn xuống dưới cầu, thấy hai chân mình mềm nhũn.

“Để anh xuống xem là được rồi, em cứ ở trên này đợi.” Đại Bảo biết tôi sợ độ cao, nghĩ rằng tôi khó mà làm nổi.”

Tôi do dự hồi lâu, cuối cùng từ chối: “Không được, em phải xuống xem, em cũng muốn thử đu dây một lần cho biết.”

Sợi dây thừng từ từ hạ xuống, tôi như con chim nhỏ gãy cánh chới với giữa không trung, lần đầu tiên cảm thấy tính mạng của mình đang nằm trong tay kẻ khác. Sợi dây thừng siết chặt quanh lưng khiến ngực tôi đau tức, cơ thể chòng chành đung đưa theo gió. Tôi không dám nhìn xuống dưới, nhắm tịt mắt lại, cho đến khi cảm thấy hai chân chạm đất mới ngồi thụp xuống, đưa tay chặn lên quả tim đã sắp bắn khỏi lồng ngực.

Tôi dùng thước đo độ cao của tảng đá, cao hơn chỗ trũng bên cạnh 30 centimet.

“Nạn nhân tử vong vào lúc nào?” Tôi hỏi.

“Khoảng 9 giờ tối hôm kia.” Bác sĩ Vương đáp.

“Đứa trẻ tử vong vào khoảng 4 giờ sáng ngày 29. Trong ngày hôm ấy, Khương Phương Phương về nhà, sau đó cãi vã với Thân Tuấn và bỏ đi. 9 giờ tối ngày 29, Khương Phương Phương tử vong, chiều ngày 30 phát hiện ra thi thể đứa trẻ, tối ngày 30 phát hiện ra thi thể Khương Phương Phương.” Tôi lẩm nhẩm. Khi phải xử lý một vụ án có nhiều người tử vong, việc đầu tiên là phải làm rõ thời gian tử vong và thời gian phát hiện ra nạn nhân mới có thể sắp xếp được trình tự thời gian, thuận tiện cho việc phân tích và phục dựng vụ án.

“Tảng đá cao thật đấy.” Đại Bảo nói: “Cũng may thi thể ở đúng chỗ cao mới không bị nước cuốn đi.”

“Đúng thế!” Tôi nói: “Tuy tối ngày 29 cũng có mưa, nhưng bị mưa ướt thì khác hoàn toàn so với bị nước cuốn, một vài vật chứng quan trọng trên thi thể không bị phá hủy hoàn toàn.”

Nói xong, tôi đưa tay sờ lên tảng đá nơi thi thể từng nằm. Tảng đá nhẵn nhụi, sạch sẽ, không hề có thứ gì dính lên tay. Tôi lấy cuộn băng dính trong hòm đồ nghề ra, dính lên mặt đá, chỉ lấy được ít đá vụn li ti màu đen.

Tôi nói: “Xong rồi, tới nhà xác làm việc thôi!”

Lúc lên, chúng tôi đi đến bên vách khe, buộc dây thừng vào người, rồi leo lên. Mấy anh cảnh sát khu vực đứng phía trên hè nhau kéo dây làm giảm bớt sức nặng cho chúng tôi. Buộc dây thừng trèo lên mệt hơn rất nhiều so với khi được dòng dây thả xuống.

Sau khi trèo được lên bờ, chúng tôi và các cảnh sát kéo dây thừng ai nấy mệt bở hơi tai.

Một cảnh sát cúi gập lưng nói: “Bác… bác sĩ Tần, anh phải giảm béo đi mới được.”

* * *

Tại phòng giải phẫu pháp y trong nhà xác của sở Công an tỉnh.

Phòng giải phẫu hiện đại nhất tỉnh vừa được khánh thành vào năm nay, vừa bước vào phòng đã thấy đẳng cấp khác hẳn. Máy điều hòa công suất lớn và hệ thống thông gió cực mạnh đã hình thành nên một vòng không khí lưu động xung quanh chỗ đứng của nhân viên giải phẫu, trực tiếp hút đi mùi tử thi ngay trên bàn giải phẫu.

Trong tiếng ầm ầm của hệ thống thông gió, chúng tôi bắt đầu giải phẫu thi thể Khương Phương Phương.

Không giống như tưởng tượng của tôi, so với một người đàn ông xấu xí ngoài 40 tuổi như Thân Tuấn thì Khương Phương Phương là một thiếu phụ xinh đẹp, chưa tới 30 tuổi, có thân hình khá chuẩn và khuôn mặt nhỏ nhắn u buồn. Đương nhiên, đây chỉ là kết quả của sự mường tượng, còn lúc này, nạn nhân đang nằm trên bàn giải phẫu, mắt mũi tai miệng rỉ máu, dính nhem nhuốc khắp khuôn mặt trắng trẻo, quanh mắt thâm sì.”

Vỡ xương nền sọ sẽ khiến cho dịch não tủy máu rỉ qua khe xương nứt vỡ, rồi chảy ra ngoài qua khoang miệng, mũi, tai, đồng thời cũng khiến dịch não tủy máu chảy qua khe nứt vào trong xoang sàng, quanh hốc mắt, khiến quầng mắt thâm đen.

Chúng tôi tiến hành giải phẫu tử thi theo trình tự trọng điểm trước, thông thường sau. Tổn thương ở phần đầu của Khương Phương Phương là tổn thương nặng nhất trên cơ thể, xương sọ ở vùng chẩm vỡ vụn, lõm vào trong, tổ chức não và tổ chức tiểu não ở vùng chẩm đều giập nát, dịch não tí tách nhỏ giọt ra ngoài từ những vết thương trên da đầu.

Tổ chức não ở thùy trán của Khương Phương Phương cũng giập nát nghiêm trọng, đi kèm với xuất huyết ồ ạt dưới màng cứng, nhưng xương sọ và da đầu ở vị trí tương ứng lại không hề xuất hiện tổn thương, cho thấy đây là tổn thương dội đối lực, trùng khớp với kiểu rơi từ trên cao xuống khi còn sống.

Tương ứng với đó, dưới lớp da và trong phần cơ ở lưng, mông của Khương Phương Phương đều có mảng xuất huyết rộng, cột sống ngực và xương cùng có dấu hiệu gãy xương và xuất huyết rõ rệt.

“Nạn nhân ngã xuống tảng đá trong tư thế mặt ngửa lên trời.” Đại Bảo nói: “Có thể căn cứ vào đó để suy đoán ra tư thế của nạn nhân khi nhảy xuống không?”

Tôi lắc đầu, nói: “Với độ cao hơn hai mươi mét, cơ thể rất có khả năng xoay chuyển trong lúc rơi, cho nên tư thế của thi thể không có nhiều giá trị.”

“Thế thì cái gì giá trị?” Đại Bảo hỏi.

Tôi chỉ vào đôi tay của Khương Phương Phương.

Trên đầu ngón tay và cổ tay ở cả hai tay nạn nhân dày đặc những vết xây xước, trong kẽ tay và kẽ móng tay dài còn giắt ít chất bẩn.

“Tuy đã bị mưa xối.” Tôi nói: “Nhưng, chất bẩn đọng trong kẽ tay và móng tay có phần khó hiểu, nó không phù hợp với thói quen sinh hoạt của một phụ nữ ăn mặc chỉn chu.”

Đại Bảo đẩy gọng kính trên sống mũi, ghé lại nhìn.

Tôi cầm cuộn băng dính bản rộng, dính lấy ít chất bẩn trong kẽ tay và móng tay của nạn nhân, rồi lại lấy đoạn băng dính đã dính được ở hiện trường từ trong hòm đồ nghề ra, giao cho bác sĩ Vương, nói: “Nhờ anh đưa đến phòng Giám định vật chứng vi lượng, dùng kính hiển vi soi thử xem, có phải cùng một thành phần với đống cát tại hiện trường phát hiện ra đứa trẻ không.”

“Anh hiểu rồi.” Đại Bảo nói: “Em quan sát kỹ lưỡng thật đấy, đây chắc chắn là căn cứ tốt nhất để chứng minh cô ta chính là hung thủ đã giết hại đứa bé. Nếu như chứng minh được xung quanh hiện trường phát hiện ra thi thể không có loại cát thành phần thế này, sẽ khẳng định được rằng không phải là cô ta tiếp xúc với cát ở gần hiện trường tử vong.”

Tôi thở dài, nói: “Cho dù, kết quả đối chiếu trùng khớp, cũng chỉ có thể chứng minh cô ta đã nắm vào cát ở gần hiện trường nơi đứa bé tử vong chứ không thể khẳng định cô ta chính là hung thủ giết người. Kiểu vụ án giết người tự sát bao giờ cũng vô cùng rắc rối, không có khẩu cung để kiểm chứng.”

Quay lại bên thi thể, chúng tôi bắt đầu khám nghiệm vài tổn thương nhỏ ở mặt trước thân thể. Giữa hai vú của Khương Phương Phương có vết xuất huyết dưới da to cỡ một nắm tay, ngoài ra không phát hiện thêm tổn thương nào khác trên người.

“Kể ra Thân Tuấn cũng khá yêu vợ đấy chứ.” Đại Bảo nói: “Làm lạc mất con mà chỉ cãi cọ chứ không thượng cẳng chân hạ cẳng tay.”

“Thế đây không phải là tổn thương à?” Tôi chỉ vào vết xuất huyết trước ngực Khương Phương Phương: “Em cảm thấy tổn thương này rất bất thường.”

“Bất thường thế nào?” Đại Bảo hỏi: “Xuất huyết dưới da bình thường thôi mà!”

Tôi xua tay ngăn Đại Bảo đừng nói tiếp nữa, cúi đầu ngẫm nghĩ, rồi đi tới một góc phòng giải phẫu, lật giở những quần áo của Khương Phương Phương mà chúng tôi đã cởi ra lúc mới bắt đầu giải phẫu.

Đột nhiên, một điều tra viên chạy vào phòng giải phẫu: “Bác sĩ Tần, công tác điều tra của chúng tôi cơ bản đã kết thúc, Khương Phương Phương có một nhân tình, chúng tôi đã khống chế anh ta. Phân đội trưởng bảo tôi tới thông báo cho anh.”

Ánh mắt tôi vẫn không rời khỏi chiếc quần của nạn nhân, nói: “Ý anh nói là, rất có thể Khương Phương Phương bị người tình giết hại?”

Điều tra viên ngẩn người: “Không không không, sao lại thế được, Khương Phương Phương nhảy sông tự tử cơ mà? Theo điều tra, tối ngày 29, anh ta không có điều kiện thời gian để gây án, nhưng từ tối ngày 28 đến sáng sớm ngày 29, anh ta không đưa ra được chứng cứ ngoại phạm, cho nên chúng tôi nghi ngờ chính anh ta đã giết hại đứa trẻ.”

Tôi ngẩng đầu nhìn điều tra viên, nói: “Nhưng, tôi lại cảm thấy chính Khương Phương Phương đã giết hại đứa bé.”

“Giết con mình ấy à? Lại bằng cách thức tàn nhẫn đến vậy?” Điều tra viên kinh ngạc kêu lên.

“Chúng ta không thể dùng cách tư duy của mình để đánh giá tư duy của một người mắc bệnh tâm thần được.” Tôi nói: “Người bình thường sẽ không bao giờ đối xử như vậy, với một đứa trẻ, nhưng người có vấn đề về thần kinh lại khác. Ngoài cát dính trên tay, chúng tôi còn nhận ra trên giày nạn nhân có dính đầy bùn vàng. Chỗ nạn nhân tử vong không hề có bùn vàng, mà đây chắc chắn là bùn tại hiện trường sát hại đứa bé.”

Đúng lúc đó, điện thoại trong phòng giải phẫu réo lên inh ỏi, là bác sĩ Vương gọi tới. Sau khi soi dưới kính hiển vi điện tử, mọi người phát hiện ra cát dính ở kẽ tay Khương Phương Phương giống hệt như cát ở hiện trường nơi phát hiện ra thi thể đứa bé.

“Giờ thì chúng ta đã có chứng cứ gián tiếp để chứng thực chính Khương Phương Phương đã chôn đứa bé.” Tôi nói.

“Liệu có khả năng là kẻ khác chôn đứa bé, còn Khương Phương Phương giằng co, chống cự, bới đứa bé lên không?” Đại Bảo vẫn không yên tâm.

“Trên người Khương Phương Phương không hề có dấu vết bị khống chế hay chống cự.” Tôi nói: “Cho nên, lúc còn sống, cô ta không bị khống chế hay uy hiếp.”

Điều tra viên nói: “Vậy thì đây là một vụ án giết người tự sát mất rồi, tuy chứng cứ vẫn còn vài vấn đề nhưng chúng ta vẫn còn một hướng đi khác. Chúng ta phải nhanh chóng tìm ra đứa bé gái, tối hôm đó, bé gái ra khỏi nhà cùng với mẹ và em trai, cho nên có lẽ em bé biết chuyện mẹ mình đã chôn em. Các anh nghĩ xem, trước khi tự sát, Khương Phương Phương có thể đem con gái đi đâu được? Cầu trời đừng có mang chôn đấy nhé! Một đứa bé năm tuổi chắc không dễ chôn đâu nhỉ?”

“Cô ta bị tâm thần gián đoạn lại rối loạn cảm xúc lưỡng cực nữa.” Tôi nói: “Vào ngày 29, cô ta cãi vã với Thân Tuấn nhưng không đánh nhau, cho thấy lúc đó chắc cô ta vẫn bình thường, hẳn là không thể lại giết con gái mình được.”

“Vậy cô ta tự sát là do cắn rứt lương tâm ư?” Đại Bảo băn khoăn.

Tôi lắc đầu, nói: “Cho đến bây giờ, em vẫn chưa thể kết luận Khương Phương Phương đã tự sát.”

Đứa Trẻ Trong Cát

Phần 4

“Gì cơ?” Đại Bảo kêu lên: “Đừng nói là em bảo cô ta bị sát hại đấy nhé? Giết người bằng cách này rất hiếm gặp.”

“Hiếm gặp không có nghĩa là không có.” Tôi nói: “Hiếm gặp là bởi vì kẻ sát nhân không biết được lúc nào nạn nhân sẽ đi lên chỗ cao, không biết làm thế nào mới tìm được cơ hội tốt nhất để ra tay. Nhưng, nếu là người rất thân quen sẽ tìm được cớ để lừa nạn nhân đi lên chỗ cao, sau đó sẽ có rất nhiều cơ hội để đẩy nạn nhân từ trên cao xuống thực hiện hành vi giết người giấu tay cao siêu.”

“Nhưng.” Đại Bảo nói: “Chúng ta làm gì có căn cứ?”

“Có đấy!” Tôi phán chắc như đinh đóng cột.

“Ngay từ đầu, em đã cảm thấy hiện trường hơi đáng ngờ, cho nên mới tự mình xuống đó để cảm nhận.” Tôi nói: “Đầu tiên, em muốn hỏi, các anh có biết Khương Phương Phương rơi xuống khỏi cầu thang trong tư thế ra sao không?”

“Ờ… em lạ thật đấy!” Đại Bảo nói: “Vừa nãy anh cũng hỏi, em chẳng bảo rơi như thế có thể bị xoay lật trong không trung cơ mà, nên không thể đoán ra vị trí ban đầu được.”

“Em nói là không thể căn cứ vào tư thế tử vong của cô ấy để phán đoán về tư thế khi rơi xuống.” Tôi nói: “Nhưng, chúng ta có cách khác.”

Nói xong, tôi chỉ vào chiếc quần của nạn nhân.

Quần của nạn nhân là loại vải bông màu tím than, trên mông và cạp quần loáng thoáng nhìn thấy một vệt màu trắng.

“Chính là vì nạn nhân nằm ngửa nên sau lưng không bị mưa xối.” Tôi nói: “Và tảng đá cô ấy rơi xuống cũng không bị chìm trong nước mưa, cho nên dấu vết này vẫn còn nguyên.”

“Hiểu rồi!” Đại Bảo nói: “Quần cô ta đã dính phải lớp vôi trắng trên thành cầu khi dựa vào đó.”

Tôi gật đầu.

“Thôi đừng lạc đề nữa, chúng ta đang thảo luận Khương Phương Phương tự sát hay là bị sát hại cơ mà.” Đại Bảo nói.

“Vị trí rất quan trọng.” Tôi nói: “Anh có còn nhớ khoảng cách từ thi thể tới gầm cầu bên trên không?”

“Nhớ chứ, đến hơn chục mét đấy.” Đại Bảo trả lời.

Tôi giơ ngón tay chấm nước vẽ một đường parabol lên nền nhà, nói: “Nếu một vật rơi tự do thì điểm rơi của vật thể đó sẽ thẳng vuông góc với điểm bắt đầu rơi. Nếu vật thể có vận tốc ban đầu, vậy thì quỹ đạo rơi của vật thể chắc chắn sẽ là một đường parabol, vận tốc ban đầu càng lớn thì điểm rơi càng cách xa với điểm chiếu vuông góc của điểm bắt đầu rơi.”

“Vật lý phổ thông thôi mà.” Đại Bảo cằn nhằn: “Có gì mà không hiểu?”

“Vậy thì, chúng ta hãy kết hợp kiến thức vật lý phổ thông với vụ án này xem.” Tôi nói: “Nếu như nạn nhân rơi xuống trong tư thế nằm ngửa, vậy thì tại điểm bắt đầu rơi, vận tốc ban đầu không thể quá nhanh được.”

Đại Bảo bừng tỉnh: “Đúng rồi, tại hiện trường của rất nhiều vụ nhảy từ trên cao xuống tự sát, thường thì điểm rơi sẽ cách xa điểm chiếu vuông góc của điểm bắt đầu rơi, đó là vì nạn nhân đã chạy lấy đà một đoạn sau đó mới nhảy xuống, vận tốc ban đầu khá nhanh. Nếu như ngửa người rơi xuống, vậy thì chắc chắn không thể chạy lấy đà được nên không có vận tốc ban đầu, đấy là chưa kể còn bị lan can chắn đường thì càng không thể nhanh được.”

“Vậy thì điểm rơi trong vụ án này tại sao lại cách điểm chiếu vuông góc của điểm bắt đầu rơi xa thế?” Tôi đặt câu hỏi.

“Bị người khác đẩy!”

Tôi gật đầu, nói: “Vậy, trên thi thể có biểu hiện gì không?”

Đại Bảo cầm kẹp cầm máu chỉ vào vết xuất huyết giữa ngực, nói: “Có!”

Vẻ mặt điều tra viên lại tràn đầy sửng sốt: “Ý các anh muốn nói, không phải cô ấy tự sát à?”

Tôi và Đại Bảo cùng lên tiếng: “Bị giết hại.”

“Bị ai… ai giết cơ?” Điều tra viên lắp bắp hỏi.

“Anh nói thử xem?” Tôi hỏi: “Còn có thể là ai được nữa? Ngay từ lúc gặp Thân Tuấn, tôi đã cảm thấy biểu hiện của anh ta khá bất thường. Biết tin con trai bị chết mà anh ta chẳng hề bàng hoàng, vợ con bỏ đi mất tích mà chẳng hề sốt ruột, điều này rất không hợp lý.”

“Nếu chính anh ta giết người, vậy thì anh ta đã giấu con gái đi đâu? Sao phải giấu?”

“Theo tôi thấy, một đứa bé năm tuổi thì chưa hiểu được chuyện gì, rất có khả năng chính mắt nó đã chứng kiến toàn bộ quá trình vụ án, cho nên Thân Tuấn sợ nó nói ra.” Tôi nói: “Có thể tới nhà một vài người thân của Thân Tuấn tìm thử xem.”

Điều tra viên gật đầu, rồi lập tức đi ngay.

* * *

Đứa bé được tìm thấy ở nhà một nhân viên kế toán trong công ty Thân Tuấn. Khi bị điều tra viên tìm thấy, cô bé vô cùng sợ hãi, co rúm vào đầu giường run lên cầm cập. Để trấn an cô bé, đội trưởng đội cảnh sát hình sự đã tìm một nữ cảnh sát mặc thường phục đi cùng với cô giáo ở nhà trẻ cùng vào hỏi han trò chuyện.

Nếu tìm được cô bé sớm hơn, vụ án hẳn đã không đến nỗi phức tạp đến vậy. Đúng như tôi dự đoán, cô bé đã tận mắt chứng kiến toàn bộ quá trình vụ án. Nhờ có cô giáo mầm non gợi chuyện, cô bé đã kể ra toàn bộ chân tướng.

Khi bị bắt về, Thân Tuấn chẳng quanh co nhiều, nhanh chóng khai ra toàn bộ sự thực. Cuối cùng, câu chuyện đã được chắp ghép hoàn chỉnh.

Năm 35 tuổi, Thân Tuấn quen biết Khương Phương Phương, hai người gần như yêu nhau từ cái nhìn đầu tiên, sau đó kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc, sinh được một con gái. Thân Tuấn gốc nông thôn, mang nặng quan điểm trọng nam khinh nữ, chỉ muốn có thêm một đứa con trai, đến hơn 40 tuổi, cuối cùng anh ta cũng được toại nguyện.

Sau khi con trai chào đời, Thân Tuấn cưng chiều con như báu vật. Nhưng, sau khi đứa bé sinh ra không lâu, Thân Tuấn phát hiện ra Khương Phương Phương có nhiều điểm bất thường. Cô ta thường nửa đêm thức giấc, đi tới bên cạnh gốc cây cổ thụ trước nhà, đấm mạnh vào thân cây, có lúc còn đấm đến tóe máu. Ngoài ra, Khương Phương Phương thường xuyên cáu giận vô cớ, sau đó lại nhất quyết không thừa nhận mình có hành vi như vậy.

Đang yên đang lành, không hiểu tại sao lại ra nông nỗi ấy? Chứng kiến những cơn giận dữ vô cớ và những cơn mộng du kinh hoàng của vợ, Thân Tuấn gần như suy sụp tinh thần, không thể chịu đựng thêm được nữa, bèn quyết định trói Khương Phương Phương lại, đưa đến bệnh viện tâm thần thành phố.

Kết quả đúng như anh ta dự đoán, Khương Phương Phương đã mắc chứng tâm thần phân liệt gián đoạn.

Những cú sốc thi nhau ập đến, trong thời gian Khương Phương Phương nằm viện, Thân Tuấn lại phát hiện ra vợ mình dan díu với người khác.

Tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, Khương Phương Phương đã trở thành gánh nặng khiến Thân Tuấn ngột ngạt khó chịu.

Hôm đó, Thân Tuấn từ công ty trở về nhà, phát hiện ra Khương Phương Phương đã dẫn theo con trai và con gái bỏ đi. Anh ta đội mưa đi tìm rất lâu, nhưng vẫn không thấy ba mẹ con đâu. Cho đến chiều ngày 29, mới thấy Khương Phương Phương dẫn theo con gái ướt như chuột lột quay về.

“Con trai đâu?” Thân Tuấn không nhìn thấy con trai thì ruột gan như lửa đốt.

Nhưng, Khương Phương Phương cũng vô cùng hốt hoảng, không biết đã lạc mất con trai thế nào. Thân Tuấn thấy con gái rất hoảng sợ, bèn lựa lúc gặng hỏi riêng con gái, mới biết được trong cái đêm ác mộng ấy đã xảy ra chuyện gì.

Thì ra, chiều hôm đó, Khương Phương Phương ngồi nhà mãi buồn chán, thấy mưa đã tạnh, bèn dẫn hai con đi dạo. Đi được một lúc, ba mẹ con bị lạc đường. Lúc đó, trời lại đổ mưa khiến Khương Phương Phương lo quýnh lên. Trời dần sập tối, họ càng cuống quýt, lại càng không thể tìm được đường về.

Trong đêm đen mưa gió của vùng ngoại ô, ba mẹ con đi đến bên đống rác ngoài công trường khu đô thị Thịnh Thế, vẫn không tìm được ai để hỏi đường. Giờ đấy thì công nhân xây dựng đều đã ngủ say trong các lán trại nằm sâu trong công trường.

Tìm được một nơi tránh mưa, Khương Phương Phương cho con bú, nhưng đứa bé vẫn khóc ngằn ngặt. Có lẽ, do lo lắng, căng thẳng tích tụ đã kích động chứng rối loạn tâm lý lưỡng cực, Khương Phương Phương không nói không rằng, bế con chạy ra ngoài mưa, vùi vào trong đống cát đã bị sạt lở một bên, hai tay bới cát chôn sống đứa bé.

Bé gái đứng cách đó mấy chục mét tận mắt trông thấy việc làm của mẹ thì vô cùng sợ hãi, không cả dám khóc. Trong cơn tâm thần, Khương Phương Phương dẫn con gái đi mãi, đi mãi đến khi trời sáng mới tỉnh lại, phát hiện ra đã mất con.

Đứa bé gái năm tuổi hoảng sợ cùng cực, cũng không thể nhớ được mẹ nó đã vùi em ở đâu, đành theo mẹ về nhà.

Sau khi biết được sự thực, Thân Tuấn giận dữ, đau đớn khôn cùng, cái ý định đã nhen nhóm trong lòng từ rất lâu, liền trỗi dậy.

Sẩm tối hôm đó, Thân Tuấn rủ vợ đi tìm thi thể con. Khương Phương Phương đang chìm trong dằn vặt và cắn rứt lương tâm lập tức đồng ý, nhưng đòi dẫn con gái đi cùng, vì có lẽ cô bé sẽ nhớ được đường đi. Thân Tuấn bèn dẫn theo Khương Phương Phương và con gái lên cây cầu đá ấy, nhân lúc Khương Phương Phương không để ý, anh ta đã xô vợ xuống cầu.

Khi được tin cơ quan công an phát hiện ra thi thể một bé trai, Thân Tuấn biết s