← Quay lại trang sách

Chương 7

Riverbridge.

Có một lần, rất nhiều năm về trước, Malorie đã đến khu vực này để tham gia một bữa tiệc đón năm mới. Cô hầu như không nhớ tên của cô gái tổ chức bữa tiệc. Marcy gì đó. Hoặc có lẽ là Maribel. Shannon quen cô ấy và tối hôm đó, Shannon lái xe. Đường đến Riverbridge ngập trong tuyết. Tuyết xám bẩn thỉu phủ kín hai bên đường. Có người lấy đá trên nóc nhà pha với đồ uống. Có người gần như cởi trần viết chữ “Năm 2009” trên tuyết. Giờ đang là giữa tháng Bảy, cao điểm mùa hè và Malorie đang lái xe. Sợ hãi, cô độc và đau buồn.

Lái xe kiểu này thật khổ sở. Đi với tốc độ không hơn mười lăm dặm một tiếng, Malorie hoảng loạn tìm biển chỉ đường, trông chừng để tránh các xe khác. Cô nhắm mắt, rồi lại mở mắt, trong khi vẫn đang lái xe.

Đường phố tuyệt nhiên không một bóng người. Mọi căn nhà cô đi qua đều dùng chăn và ván gỗ che kín cửa sổ. Mặt trước các cửa hàng vắng hoe. Bãi đỗ xe của các siêu thị trống trơn. Cô ngay lập tức quay lại nhìn đường, đi theo lộ trình đánh dấu trên bản đồ đặt bên cạnh. Cô cảm thấy bàn tay mình mềm oặt trên vô lăng. Mắt cô nhức nhối vì khóc quá nhiều. Cô cảm thấy tội lỗi khủng khiếp vì đã để lại xác chị mình trên sàn phòng tắm ở nhà.

Cô không chôn chị ấy. Cô cứ thế bỏ đi.

Bệnh viện không trả lời điện thoại, nhà tang lễ cũng thế. Malorie choàng chiếc khăn màu xanh và vàng mà Shannon yêu thích.

Đài hoạt động phập phù. Một người đàn ông đang nói đến khả năng về một cuộc chiến tranh. Anh ta nói loài người phải đoàn kết với nhau nhưng rồi đó chỉ là những lời sáo rỗng. Cô vượt qua một chiếc xe bị bỏ lại bên đường, cửa xe đang mở. Một chiếc áo khoác treo trên ghế hành khách chạm xuống đường. Malorie nhanh chóng quay đầu nhìn phía trước. Rồi cô nhắm mắt. Rồi cô lại mở mắt.

Đài đang hoạt động. Người đàn ông đó vẫn đang nói về chiến tranh. Có thứ gì đó di chuyển ở bên phải và cô liếc nó qua đuôi mắt. Cô không nhìn nó. Cô nhắm mắt phải. Phía trước, ở giữa đường, một con chim đáp xuống và rồi lại bay lên. Khi Malorie đi đến chỗ đó, cô thấy con chim bị thu hút bởi một con chó chết. Malorie lái xe qua nó. Chiếc xe nảy lên; đầu cô đập vào nóc xe, vali kêu lạch cạch ở ghế sau. Cô run lẩy bẩy. Con chó trông không chỉ chết rồi, nó còn có vẻ méo mó. Cô nhắm mắt. Cô lại mở mắt.

Một con chim, có lẽ chính con chim đó, kêu trên bầu trời. Malorie đi qua phố Roundtree. Phố Ballam. Horton. Cô biết mình đã đến gần. Có thứ gì đó vụt qua bên trái cô. Cô nhắm mắt trái. Cô lướt qua một chiếc xe tải chở thư trống không và thư từ nằm tung tóe trên nền bê tông. Một con chim bay quá thấp, suýt nữa đâm vào kính chắn. Cô hét lên, nhắm cả hai mắt, rồi lại mở ra. Khi mở mắt, cô nhìn thấy biển chỉ đường mình đang tìm kiếm.

Shillingham.

Cô rẽ phải, nhấn phanh khi rẽ vào góc cua dẫn đến đường Shillingham. Cô không cần kiểm tra bản đồ để tìm số nhà 273. Nó đã ở trong đầu cô suốt cả quãng đường.

Ngoài một vài chiếc xe đỗ trước nhà bên tay phải, cả con phố vắng hoe. Khu dân cư này thuộc vùng ngoại ô, bình dân. Hầu hết các nhà đều giống nhau. Những bãi cỏ đã mọc quá cao. Mọi cửa sổ đều bị che kín. Malorie háo hức nhìn ngôi nhà có xe đỗ trước cửa và biết rằng nó chính là ngôi nhà mình đang tìm.

Cô nhắm mắt lại và nhấn phanh.

Xe dừng lại và cô thở hổn hển, hình ảnh mờ ảo của ngôi nhà vẫn ở trong đầu.

Gara ở bên phải. Cánh cửa gara màu xám đang đóng. Mái nhà lợp ngói nâu nằm trên những bức tường gạch trắng. Cửa ra vào màu nâu đậm hơn. Các cửa sổ đều được che kín. Và có một gác mái.

Gồng mình, mắt vẫn nhắm, Malorie quay người và nắm lấy tay cầm của vali. Ngôi nhà có lẽ cách chỗ cô đang đứng một mét rưỡi. Cô biết thế vì mình đang không đứng gần lề đường. Cô không quan tâm. Cố gắng làm mình bình tĩnh lại, cô hít vào thật sâu, thở ra từ từ. Chiếc vali nằm bên cạnh, trên ghế hành khách. Mắt nhắm, cô lắng nghe. Không nghe thấy tiếng động gì bên ngoài xe, cô mở cửa ghế lái và bước ra bên ngoài, với lấy đồ đạc của mình.

Đứa bé đạp trong bụng cô.

Malorie thở hổn hển, loạng choạng với vali hành lý. Cô suýt mở mắt để nhìn xuống bụng. Thay vào đó, cô đưa tay xoa bụng.

“Chúng ta ở đây rồi,” cô thì thầm.

Cô nắm lấy vali và mò mẫm, cẩn thận bước về phía bãi cỏ trước nhà. Khi cảm thấy cỏ dưới đế giày, cô đi nhanh hơn, lướt qua những bụi cỏ thấp. Gai đâm vào cổ tay và hông cô. Cô lùi lại, lắng nghe và cảm nhận nền bê tông dưới đế giày, thận trọng bước đến nơi cô nghĩ là cửa ra vào.

Cô đã đúng. Đặt vali xuống, cô dò dẫm dọc tường tìm chuông cửa. Cô bấm chuông.

Ban đầu, không có ai trả lời. Cô tuyệt vọng cảm thấy rằng mình đã đến bước đường cùng. Cô lái xe xa đến thế, đương đầu với cả thế giới này, chả vì cái gì sao? Cô bấm chuông lần nữa. Rồi lần nữa. Lần nữa. Vẫn không ai trả lời. Cô gõ rồi bấn loạn đập vào cánh cửa.

Không ai trả lời.

Rồi… cô nghe thấy những tiếng thầm thì từ bên trong.

Ôi Chúa tôi! Có người đang ở đây! Có người ở nhà!

“Xin chào!,” cô gọi khẽ. Tiếng nói của chính cô trên con phố vắng lặng làm cô sợ hãi. “Xin chào! Tôi đọc được mẩu tin trên báo!”

Im lặng. Malorie đợi, lắng nghe. Rồi ai đó gọi cô.

“Cô là ai?” Một người đàn ông hỏi. “Cô từ đâu đến?”

Malorie cảm thấy nhẹ nhõm và tràn trề hi vọng. Cô muốn khóc.

“Tên tôi là Malorie! Tôi lái xe từ Westcourt đến!”

Sau đó là một khoảng lặng và, “Cô có nhắm mắt không?”

Đó là giọng của một người đàn ông khác.

“Có. Mắt tôi đang nhắm.”

“Cô đã nhắm mắt lâu chưa?”

Hãy để tôi vào đi! Cô nghĩ. ĐỂ TÔI VÀO!

“Không,” cô trả lời. “Hoặc có. Tôi lái xe từ Westcourt đến. Tôi nhắm mắt nhiều hết mức có thể.”

Cô nghe thấy tiếng rì rầm. Ai đó nổi giận. Người ta đang tranh cãi có cho cô vào hay không.

“Tôi chưa nhìn thấy cái gì!” Cô nói. “Tôi thề. Tôi an toàn. Tôi đang nhắm mắt. Làm ơn. Tôi đã đọc mẩu tin trên báo.”

“Cứ nhắm mắt,” cuối cùng một người đàn ông nói. “Chúng tôi đang mở cửa. Khi cửa mở, cô sẽ đi vào trong nhanh hết mức có thể. Được chứ?”

“Được. Vâng. Được.”

Cô đợi. Không khí tĩnh lặng và êm ả. Không có gì xảy ra. Rồi cô nghe thấy tiếng cửa bật mở. Cô bước nhanh về phía trước. Những bàn tay thò ra và kéo cô vào trong. Cánh cửa đóng sập lại sau lưng cô.

“Giờ đợi đã,” một người phụ nữ nói. “Chúng tôi cần kiểm tra xung quanh. Chúng tôi cần biết rằng chỉ có mình cô đi vào.”

MaJorie đứng nhắm mắt và lắng nghe. Có vẻ như họ đang mò mẫm dọc những bức tường bằng chổi. Mấy đôi tay đang chạm vào vai, cổ và chân cô. Lúc này, có một người đứng sau lưng cô. Cô nghe thấy tiếng những ngón tay trên cánh cửa đóng.

“Được rồi,” một người đàn ông nói. “Chúng ta ổn cả.”

Khi Malorie mở mắt, cô thấy năm người đang đứng xếp hàng trước mặt mình. Vai kề vai, họ lấp kín sảnh đợi. Cô nhìn họ chằm chằm. Họ nhìn cô chằm chằm. Một người trong số họ đội một cái mũ giống như mũ bảo hiểm. Cánh tay anh ấy bọc kín bằng những thứ trông như bông và băng. Bút, bút chì và những vật nhọn khác thò ra từ dải băng trông như phiên bản vũ khí thời Trung cổ của một đứa trẻ. Hai người đang cầm chổi.

“Xin chào,” người đàn ông này nói. “Tên tôi là Tom. Tất nhiên cô hiểu được vì sao chúng tôi phải trả lời qua cửa như vậy. Bất kì thứ gì cũng có thể lẩn vào trong này cùng cô.”

Cho dù Tom đội mũ bảo hiểm, Malorie nhìn ra anh có mái tóc nâu vàng. Nét mặt cương nghị. Đôi mắt xanh ánh lên vẻ thông minh. Anh không cao hơn Malorie nhiều. Anh không cạo râu và bộ râu ấy có màu hung hung.

“Tôi hiểu,” Malorie nói.

“Westcourt,” Tom nói, bước về phía cô. “Đó là một quãng đường đáng kể. Cô đã làm một việc vô cùng dũng cảm. Sao cô không ngồi xuống để chúng ta có thể nói về những thứ cô nhìn thấy dọc đường?”

Malorie gật đầu nhưng cô không nhúc nhích. Cô nắm vali chặt đến mức những khớp ngón tay trắng bệch và đau nhói. Một người đàn ông cao to hơn đến gần cô.

“Nào,” anh ấy nói, “để tôi đỡ cái này cho cô.”

“Cám ơn.”

“Tên tôi là Jules. Tôi đã ở đây hai tháng rồi. Đa số chúng tôi đều thế. Tom và Don đến sớm hơn một chút.”

Mái tóc đen ngắn của Jules hơi bẩn. Như thể anh đã làm việc ngoài trời. Anh có vẻ tử tế.

Malorie nhìn từng người một trong nhà. Có một phụ nữ và bốn người đàn ông.

“Tôi là Don,” Don nói. Tóc anh cũng màu đen. Dài hơn một chút. Anh mặc quần đen, áo sơ mi kiểu cổ điển màu tím, tay áo cuộn lên đến tận khuỷu. Anh có vẻ già hơn Malorie, tầm hai bảy, hai tám tuổi. “Cô dọa chúng tôi sợ phát khiếp. Chẳng có ai gõ cửa trong nhiều tuần rồi.”

“Tôi rất xin lỗi.”

“Đừng lo,” người đàn ông thứ tư nói. “Chúng tôi cũng từng làm như chị. Tôi là Felix.”

Felix trông mệt mỏi. Malorie nghĩ cậu còn trẻ. Hai mốt, hai hai tuổi. Chiếc mũi dài và mái tóc nâu dày khiến cậu trông giống như một nhân vật hoạt hình. Cậu cao như Jules nhưng gầy hơn.

“Còn tôi là Cheryl,” người phụ nữ nói, đưa tay về phía cô. Malorie bắt tay chị ấy.

Vẻ mặt của Cheryl kém hoan nghênh hơn Tom và Felix. Mái tóc nâu che bớt một phần khuôn mặt. Chị mặc một chiếc áo sát nách. Chị cũng có vẻ vừa làm việc.

“Jules, anh giúp tôi bỏ thứ này ra được chứ?” Tom nói. Anh đang cố gắng cởi mũ bảo hiểm, nhưng bộ giáp toàn thân tự chế đang cản trở. Jules giúp anh.

Chiếc mũ được bỏ đi, Malorie nhìn anh kĩ hơn. Mái tóc màu vàng cát rối bù trên khuôn mặt trắng trẻo. Những vết tàn nhang mờ mờ điểm tô làn da anh. Hàm râu quai nón lưa thưa nhưng ria mép thì dày hơn. Chiếc áo sơ mi cổ điển đơn giản và chiếc quần màu nâu khiến Malorie nhớ đến một người thầy của mình.

Lần đầu tiên nhìn thấy anh, cô hầu như không nhận ra anh đang chú ý đến bụng mình.

“Tôi không có ý tọc mạch nhưng hình như cô đang mang thai?”

“Vâng,” cô yếu ớt nói, sợ rằng đây sẽ là một gánh nặng.

“Ôi chết tiệt,” Cheryl la lên. “Cô hẳn là đang đùa tôi.”

“Cheryl,” Tom nói, “cô đang làm cô ấy sợ đấy.”

“Nghe này, Malorie phải không?” Cheryl nói. “Tôi không định tỏ ra độc địa đâu nhưng để một phụ nữ mang thai bước vào ngôi nhà này thực sự là cả một trách nhiệm.”

Malorie im lặng. Cô nhìn từ khuôn mặt này sang khuôn mặt khác, chú ý biểu hiện của họ. Họ dường như đang nghiền ngẫm, cân nhắc xem có đủ khả năng cưu mang một người sắp sinh nở hay không. Đột nhiên, Malorie nhận ra rằng cô đã không tính đến điều đó. Trên đường lái xe đến nơi này, cô đã không nghĩ rằng mình sẽ sinh con ở đây.

Nước mắt lại lăn dài.

Cheryl lắc đầu và chấp nhận, bước đến gần cô.

“Chúa tôi,” cô lên tiếng. “Đến đây.”

“Tôi không chỉ có một mình,” Malorie đáp lại. “Tôi ở cùng chị gái Shannon. Bây giờ, chị ấy chết rồi. Tôi đã bỏ chị ấy lại.”

Cô đang khóc. Qua làn nước mắt mờ mờ, cô thấy bốn người đàn ông đang quan sát mình. Họ có vẻ cảm thông. Ngay lập tức, Malorie nhận ra rằng mỗi người đều có nỗi đau riêng.

“Thôi nào,” Tom nói. “Để tôi dẫn cô đi xem nhà. Cô có thể dùng phòng ngủ ở đầu cầu thang. Tôi sẽ ngủ dưới đây.”

“Không được,” Malorie phản bác. “Tôi không thể giành phòng của bất kì ai.”

“Tôi quyết thế đấy,” Tom nói. “Cheryl ngủ ở cuối hành lang trên đó. Phòng Felix ở cạnh phòng cô. Dẫu sao thì, cô đang mang thai. Chúng tôi sẽ giúp cô hết sức có thể.”

Họ đang đi dọc hành lang. Họ qua phòng ngủ ở bên trái. Rồi nhà vệ sinh. Malorie thấy hình ảnh phản chiếu của mình trong gương và nhanh chóng ngoảnh đi. Ở bên trái, cô thấy bếp. Trên mặt quầy bếp là những thùng nước lớn.

“Đây là phòng khách. Chúng tôi dành rất nhiều thời gian ở đây,” Tom nói.

Malorie quay lại thấy anh đang khua tay chỉ về căn phòng lớn hơn. Có một chiếc đi văng. Một chiếc bàn vuông nhỏ, trên đó đặt điện thoại. Đèn. Ghế bành. Thảm. Lịch được vẽ bằng bút đánh dấu trên khoảng trống giữa các bức tranh treo tường, cửa sổ đều được che kín bằng chăn đen.

MaJorie ngẩng lên khi một chú chó đột nhiên chạy vào phòng. Đó là một chú chó giống collie. Nó nhìn cô thăm dò trước khi lại gần chân cô và đợi cô nựng nó.

“Đây là Victor,” Jules nói. “Nó sáu tuổi rồi. Tôi nuôi nó từ khi còn bé.”

Malorie nựng chú chó. Cô nghĩ Shannon sẽ thích nó. Sau đó, Jules rời khỏi phòng, mang vali của cô lên cầu thang trải thảm. Tranh ảnh treo dọc những bức tường dài. Một số là ảnh, một số là tranh nghệ thuật. Ở cuối cầu thang, cô dõi theo anh đang bước vào phòng ngủ. Đứng từ chỗ này cô cũng có thể thấy cái chăn đang che cửa sổ.

Cheryl đưa cô đến đi văng. Malorie ngồi xuống, kiệt sức vì đau buồn và sốc. Cheryl và Don cho biết họ sẽ chuẩn bị thức ăn.

“Đồ ăn đóng hộp,” Felix nói. “Ngày tôi đến chúng tôi đã chạy đi gom góp một vòng. Đó là thời điểm ngay trước khi vụ tai nạn đầu tiên ở Upper Peninsula được đưa tin. Người đàn ông ở cửa hàng nghĩ chúng tôi bị điên. Chúng tôi có đủ thức ăn dự trữ cho ba tháng nữa.”

“Giờ thì ít hơn một chút rồi,” Don giải thích, biến mất vào trong bếp. Malorie tự hỏi liệu ý anh có phải là giờ đã nhiều miệng ăn hơn bởi sự xuất hiện của mình hay không.

Sau đó, ngồi bên cạnh cô trên đi văng, Tom hỏi cô đã nhìn thấy gì trên đường lái xe đến đây. Anh tò mò về mọi thứ. Tom là kiểu người sẽ sử dụng bất kì thông tin nào cô cung cấp và cô cảm thấy như những chi tiết vụn vặt cô nhớ được chẳng có ích gì. Cô kể với anh về con chó chết. Xe chở thư. Những cửa hàng, con phố vắng tanh và chiếc xe bị bỏ hoang với chiếc áo khoác.

“Có vài chuyện tôi cần phải nói với cô,” Tom nói. “Thứ nhất là, ngôi nhà này không thuộc về bất kì ai ở đây. Chủ nhà đã chết. Tôi sẽ giải thích điều đó với cô sau. Không có mạng. Mạng mất kể từ khi chúng tôi đến đây. Chúng tôi khá chắc rằng nhân viên công ty viễn thông đã nghỉ làm. Hoặc họ chết rồi. Thư từ không đến nữa và cũng không có báo. Mới đây cô có kiểm tra điện thoại di động không? Điện thoại của chúng tôi đã dừng hoạt động ba tuần trước. Nhưng vẫn còn đường dây cố định, nếu cô có thể tin vào sự may mắn đó, mặc dù tôi không biết chúng ta sẽ gọi cho ai.”

Cheryl bước vào phòng, mang theo một đĩa cà rốt và đậu, cùng với một cốc nước nhỏ.

“Điện thoại cố định vẫn hoạt động,” Tom nói, “điện còn cũng vì thế. Nhà máy điện địa phương chạy bằng thủy điện. Tôi không thể nói với cô liệu nó có dừng hoạt động trong một ngày hay vĩnh viễn không nhưng nếu công nhân nhà máy để cổng mở đúng cách, chúng ta sẽ luôn có điện thôi. Điều này có nghĩa là dòng sông cung cấp điện cho ngôi nhà này. Cô có biết có một dòng sông sau lưng chúng ta không? Ngăn chặn thảm họa, miễn là nó còn chảy, chúng ta có thể gặp may. Chúng ta có thể sống sót. Liệu đó có phải đòi hỏi quá đáng? Chắc thế. Nhưng khi cô ra giếng lấy nước và đó là nước chúng ta dùng cho mọi việc, cô có thể nghe thấy tiếng sông chảy phía sau, cách chúng ta khoảng bảy mươi mét. Ở đây không còn nước máy. Nó đã dừng lại không lâu sau khi tôi đến đây. Trong nhà tắm, chúng tôi dùng thùng và thay phiên mang thùng chất thải đến hố xí. Đó là những cái hố chúng tôi đào trong rừng. Tất nhiên, chúng tôi làm tất cả những việc này trong lúc bịt mắt.”

Jules đi xuống cầu thang. Victor theo sau anh ấy.

“Đồ đạc của cô xong rồi,” anh ấy nói, gật đầu với Malorie.

“Cám ơn,” giọng cô khe khẽ.

Tom chỉ vào hộp giấy trên chiếc bàn nhỏ kê sát tường.

“Khăn bịt mắt ở đó. Cô có thể dùng bất kì cái nào và khi nào cô muốn.”

Họ đều đang nhìn cô. Cheryl ngồi trên tay ghế bành. Don đứng ở lối vào bếp. Jules quỳ gối bên cạnh Victor ở cầu thang. Felix đứng ở cửa sổ.

Họ đều đau buồn, Malorie nghĩ. Những con người nàg đã trải qua những điều kinh khủng, giống mình.

Uống cốc nước Cheryl đưa, Malorie quay sang Tom. Cô không thể dứt khỏi suy nghĩ về Shannon. Nhưng cô cố gắng, mệt mỏi nói với Tom.

“Cái thứ tôi thấy anh đội lúc tôi đến là cái gì thế?”

“Cái áo giáp à?”

“Đúng rồi.”

“Tôi vẫn còn chưa chắc,” Tom mỉm cười nói. “Tôi đang cố gắng tạo ra một bộ đồ. Thứ gì đó bảo vệ nhiều hơn là chỉ đôi mắt. Chúng tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu một trong những thứ đó chạm vào chúng ta.”

Malone nhìn những người khác trong nhà. Rồi quay lại nhìn Tom.

“Các anh tin rằng có những sinh vật ngoài kia?”

“Phải,” Tom nói. “George, chủ ngôi nhà này, đã nhìn thấy chúng. Ngay trước khi anh ấy chết.”

Malorie không biết nói gì. Theo bản năng cô đưa một tay lên bụng.

“Tôi không định dọa cô,” Tom nói. “Và tôi sẽ kể chuyện của George sớm thôi. Nhưng đài đã bắt đầu nói giống như thế. Tôi nghĩ bây giờ điều đó đã được công nhận. Thứ gì đó sống đang tấn công chúng ta. Chỉ cần nhìn một trong số chúng trong một giây, thậm chí ít hơn, là ta sẽ đi đời.”

Mọi thứ trong phòng có vẻ trở nên tối tăm hơn đối với Malorie. Cô cảm thấy choáng váng, quay cuồng.

“Cho dù chúng là cái gì,” Tom tiếp tục, “đầu óc của chúng ta không thể hiểu được. Chúng có vẻ giống như một sinh thể vô định. Thứ gì đó quá phức tạp để chúng ta nắm bắt được. Cô hiểu không?”

Những lời nói của Tom đột nhiên khiến Malorie đầu váng mắt hoa. Victor thở hồng hộc bên chân Jules. Cheryl hỏi cô có ổn không. Tom vẫn đang nói.

Sinh thể… Vô định… đầu óc chúng ta có giới hạn, Malorie… những thứ này… chúng vượt xa cả nó… cao hơn nó… ngoài tầm với… ngoài…

Nhưng rồi, Malorie ngất xỉu.