← Quay lại trang sách

Chương 104 - Thành Công

Huyện lệnh đã chết. Trên đường rời khỏi thành đến phủ để bái kiến, ông gặp phải một toán người Hồ đi xuống phương nam và bị bắn trúng hai mươi bảy mũi tên, khiến ông và tùy tùng trở thành những cái bia sống. Đám người Hồ cười ngạo nghễ rồi thản nhiên rời đi, bỏ lại hiện trường đầy xác chết, chỉ để vài người sống sót chạy thoát mà chúng chẳng buồn truy đuổi. Tin tức về cái chết của một vị quan lớn nhanh chóng lan truyền khắp Giang Bắc.

Một huyện lệnh mất mạng là chuyện lớn đối với một huyện, nhưng liệu có quan trọng với triều đình không thì lại khác. Điều đó phụ thuộc vào việc ông ta chết thế nào. Nếu bị sát hại bởi người dân bản địa, thì đây là một vụ việc nghiêm trọng, cần phải trừng trị để răn đe. Nhưng nếu bị sát hại bởi người Hồ khi vượt biên, triều đình chỉ có thể phản đối bên người Hồ một chút rồi thôi.

Mặc dù đã dự đoán trước, Lữ Bá Dung vẫn không khỏi thất vọng khi sự việc thực sự diễn ra. Bên người Hồ phủ nhận không biết gì về việc ám sát, nhưng họ lại "tiện tay" thừa nhận là có vẻ giống phong cách của mình, khiến sự việc chỉ còn là một trò đùa nhỏ đối với họ.

“Bao giờ thì con định hành động?” Lữ Bá Dung nhìn Lữ Bố, ông biết con trai mình có cách chọn thời cơ rất tinh tế.

“Mùa thu năm tới. Khi ấy chắc chắn người Hồ sẽ lại xuống phương nam quấy phá, con sẽ nhân cơ hội ấy chiếm lấy Đại Môn Quan,” Lữ Bố chỉ vào bản đồ. Chiếm được Đại Môn Quan có thể không khiến người Hồ ngay lập tức gặp khó khăn, nhưng nếu chốt chặn này giữ vững trong vài ngày, Lữ Bố sẽ có đủ thời gian để chiếm các điểm hiểm yếu phía tây Đại Môn Quan khi kỵ binh chính của người Hồ di chuyển về phía nam.

“Người Hồ nổi tiếng thiện chiến và hiếu sát. Con…,” Lữ Bá Dung ngập ngừng. Mặc dù Lữ Bố nói rất thuyết phục, nhưng sự hung hãn và tàn ác của người Hồ đã trở thành nỗi sợ hãi ăn sâu vào tâm trí của nhiều người, khiến ông khó tránh cảm giác Lữ Bố quá liều lĩnh. “Dù sao đi nữa, trong năm tới, mọi việc trong thành hãy cứ để cha xử lý. Cha sẽ cố gắng chuẩn bị đầy đủ lương thảo và tài chính cho con. Cha không giỏi việc binh đao, nhưng hãy nhớ, làm gì cũng phải suy tính kỹ càng rồi mới hành động, đừng nông nổi.”

“Con hiểu rồi, cha yên tâm,” Lữ Bố gật đầu. Giờ đây có tài chính hỗ trợ, anh có thể thực hiện nhiều kế hoạch hơn, từ chuẩn bị trang bị đến huấn luyện nhân lực.

Dãy núi Thương Sơn rất lớn, nếu lương thảo đủ thì Lữ Bố có thể giấu đến vạn binh sĩ. Dù đây là khả năng tối ưu nhất, thực tế khi quân số tăng lên, việc vận chuyển lương thảo trở nên phức tạp và dễ bị phát hiện. Nhưng Lữ Bá Dung đã khéo léo giải quyết vấn đề này bằng cách sử dụng đội thương nhân của nhà Tô và nhà Cao để vận chuyển các loại nhu yếu phẩm, phần lớn trong đó là lương thực.

Trong vòng một năm, dù không thể quy tụ được một vạn người, Lữ Bố cũng đã đào tạo ra bảy nghìn binh sĩ tinh nhuệ. Dù thiếu kỵ binh, anh tự tin rằng bảy nghìn quân của mình không thua kém các chiến binh ở Bắc Quan trước đây, chỉ là chưa được thử thách qua nhiều trận chiến lớn.

Năm sau, như Lữ Bố dự đoán, người Hồ lại một lần nữa kéo về phía nam, biến Giang Bắc thành một vùng địa ngục. Huệ Châu nhờ chuẩn bị trước, đã gia cố phòng thủ, và với sự giúp đỡ của đám “xanh tàn” do Lữ Bố lãnh đạo, thành phố kỳ diệu thay vẫn đứng vững.

Nhưng ngoài Huệ Châu, các thành khác quan lại đều bỏ trốn khi nghe tin, quân phòng thủ của triều đình cũng rút về Cang Châu, bỏ lại vùng Giang Bắc chìm trong cảnh lầm than.

Lữ Bố lợi dụng thời điểm này, cải trang làm dân tị nạn để dụ người Hồ tại Đại Môn Quan ra ngoài, đánh tan quân đối phương rồi chiếm được Đại Môn Quan cùng năm trăm con ngựa chiến.

Sau đó, không cho đối phương có thời gian phản ứng, Lữ Bố nhanh chóng tiến quân, chiếm được Đường Châu, Đặng Châu cùng mười thành trì khác. Đến khi quân người Hồ nhận ra, Lữ Bố đã nắm trong tay Đại Môn Quan và sáu đèo quan trọng khác.

Đây là lần đầu tiên người Hồ gặp phải một thất bại lớn kể từ khi xâm lược phương nam. Mỗi lần chiếm thành, Lữ Bố đều ra tay tàn sát người Hồ, khiến quân địch phẫn nộ, điều động ba vạn quân tấn công vào Đại Môn Quan. Lữ Bố cùng năm nghìn binh sĩ sử dụng lợi thế địa hình, đánh tan quân Hồ ba vạn, hoàn toàn phá tan hình ảnh vô địch mà người Hồ đã dày công xây dựng trong mười năm qua.

Trận Đại Môn Quan khiến người Hồ mất hết nhuệ khí. Không cam lòng để thần thoại bất bại bị xóa bỏ, họ tập hợp mười vạn quân chia ra đánh vào bảy đèo quan. Nhưng Lữ Bố đã có chuẩn bị từ trước. Anh thủ vững bảy đèo, và khi phát hiện lỗ hổng, anh đích thân dẫn quân phản công, dùng chiến thuật tấn công liên tục, đánh cho người Hồ khốn đốn như thể bộ binh. Cả hai bên giằng co suốt hơn một năm tại dãy Thương Sơn, với sự hỗ trợ hậu cần do Lữ Bá Dung đảm nhiệm.

Dân chúng trong vùng chứng kiến Lữ Bố đánh đuổi người Hồ, không chỉ cứu thoát họ khỏi cảnh áp bức mà còn giúp họ hả hê với mối thù sâu đậm. Lữ Bá Dung nhân cơ hội này để an dân, khuyên Lữ Bố mở rộng lãnh thổ từ dãy Thương Sơn đến núi Thục Lĩnh để tạo nên một hậu phương ổn định, làm bàn đạp cho các kế hoạch tương lai.

Đồng thời, Lữ Bá Dung cũng gửi thư lên triều đình, không nhắc đến mối quan hệ thuộc cấp mà chỉ tỏ ý muốn giúp Đại Khổ chống lại người Hồ và hy vọng được cung cấp thêm tài chính. Ông còn cử người đi hối lộ các quan viên trong triều, đưa ra lời hứa hẹn rằng một phần vật tư sẽ được giữ lại, để những kẻ đó thuyết phục triều đình hỗ trợ tài chính và nhân sự.

Nhờ chiến thuật khôn khéo của Lữ Bá Dung, đến đầu năm sau, Đại Khổ phái người đến tặng quà và thư thăm hỏi ân cần.

“Vậy là đã thành công rồi sao?” Lữ Bố ngạc nhiên, giờ đây rõ ràng Đại Khổ đã coi Lữ Bố như một thế lực độc lập chứ không còn là thuộc hạ. Theo tính toán của Lữ Bố, sau khi chiếm xong vùng phía tây Thương Sơn, nếu triều đình chịu hợp tác thì tốt, không hợp tác thì anh sẽ đánh đến khi họ phải liên minh. Nhưng từ khi Lữ Bá Dung đến, ông đã biết cách nhún nhường, than khổ và khéo léo mua chuộc.

Mặc dù cả hai bên không chính thức công nhận mối quan hệ là bang giao hay là thuộc quốc, nhưng với việc triều đình đến thăm hỏi với danh nghĩa quốc gia chứ không phải triều đình, rõ ràng họ đã xem Lữ Bố như một quốc gia độc lập.

Lữ Bố chưa tuyên bố lập quốc, nên vẫn còn chỗ để thay đổi. Nếu ai đó bảo anh độc lập, thì thực tế chưa hẳn, vì thái độ của Lữ Bá Dung với triều đình Đại Khổ vô cùng cung kính. Nhưng nếu bảo chưa độc lập thì cũng không đúng, vì gần như toàn bộ quyền kiểm soát vùng Thương Sơn đã nằm trong tay Lữ Bố. Tình trạng lưng chừng này chính là điều mà Lữ Bá Dung mong muốn.