← Quay lại trang sách

Chương 106 - Bá Chủ

Lữ Bá Dung thật ra không làm gì quá khác biệt, chỉ là mỗi khi các quan lại dưới quyền Lữ Bố lập công, ông đều thưởng phạt phân minh và để Lữ Bố đích thân khen thưởng. Chưa đầy một năm, những sự kiện này truyền đến Giang Nam, ngày càng nhiều văn sĩ thất chí vượt sông sang, gia nhập dưới trướng Lữ Bố, trong đó không ít người được Lữ Bá Dung đánh giá cao, phần nào giải quyết khó khăn về nhân lực cho Lữ Bố.

“Chiêu nghìn vàng mua xương ngựa quan trọng là để lại xương ngựa ở đâu và sử dụng nghìn vàng ra sao,” Lữ Bá Dung đưa cho Lữ Bố danh sách các nhân sĩ mới gia nhập, vừa cười nói: “Cùng là một trăm lượng, nếu con cho một nhà giàu và một kẻ ăn mày bên đường, ai sẽ thấy biết ơn con hơn? Người giàu sẽ coi thường, còn kẻ ăn mày sẽ cống hiến tất cả để đền ơn. Nhưng nhớ là cần phải có chừng mực, nếu con quá nhún nhường, thậm chí quỳ xuống trao tiền, kẻ ăn mày cũng sẽ khinh bỉ con. Ân phải có, uy cũng phải có.”

Lữ Bố gật đầu, mọi chuyện trải qua rồi nhìn lại thì thấy rất rõ, nhưng nếu nói trước, cho dù hiểu, anh cũng khó mà lĩnh hội sâu sắc.

Thế cục Thương Tây dần ổn định dưới sự chỉ dẫn của Lữ Bá Dung. Lữ Bố cũng nghe lời cha, kết hôn, sinh con, tuy không chọn được gia tộc danh tiếng, nhưng vẫn là gia đình danh giá vùng Đường Châu. Vợ của anh là người đức hạnh, Lữ Bố tuy không hứng thú nhưng rồi cũng chấp nhận. Hôn nhân hòa thuận, một năm sau, anh có một trai một gái. Đúng như lời Lữ Bá Dung nói, địa vị của Lữ Bố ngày càng ổn định.

Hai năm sau, Thương Tây tuy chưa giàu có, nhưng dân chúng có cuộc sống no đủ, ảnh hưởng của triều đình Đại Khổ tại đây gần như bị xóa bỏ hoàn toàn. Lữ Bố thường xuyên dẫn quân vượt biên cướp phá, quân Hồ dù bất khả chiến bại ở Đông Nam, khi đối mặt với Lữ Bố thì lại thua liên tiếp.

Dù vậy, muốn chiếm được đất phía đông dãy Thương Sơn không dễ dàng, đó là vùng bình nguyên rất thuận lợi cho kỵ binh, và Lữ Bố thiếu kỵ binh. Cho nên, Lữ Bố nghe theo lời Lữ Bá Dung, chuyển sang mở rộng về phía tây, lấy vùng núi Thục Xuyên làm căn cứ.

Mười năm sau, dưới sự cai quản của cha con Lữ Bố, thế lực của họ không ngừng mở rộng. Nhưng cùng với đó là những khó khăn ngày càng lớn. Ban đầu chỉ có một phủ, Lữ Bố và Lữ Bá Dung có thể tự mình quản lý. Nhưng khi cả Thương Tây nằm trong tay, họ không thể làm hết mọi việc nên phải lập thêm chức phủ tôn, trao quyền độc lập cho các quan lại địa phương. Tuy nhiên, điều này cũng làm dấy lên nỗi lo về lòng trung thành. Do đó, cha con Lữ Bố đã bàn bạc và quyết định tách ba quyền quân sự, chính trị và tài chính. Lữ Bố giữ quyền quân, còn chính quyền và tài chính thì giao cho hai nhóm riêng biệt để giám sát lẫn nhau.

Nhưng khi mở rộng đến dãy Thục Xuyên, cách thức cai trị lại phải thay đổi. Lúc này, cần đến quy tắc nghiêm minh và luật pháp rõ ràng, đồng thời phải phân quyền nhiều hơn. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ, người đảm nhận phải có đủ quyền uy để quản lý tốt, nếu người đó phản bội, công lao mười năm của Lữ Bố có thể tan tành.

Không chỉ cần trung thành, người đó còn phải có năng lực độc lập. Thế nhưng, những nhân tài xuất sắc như vậy dưới trướng Lữ Bố lại rất hiếm.

Cuối cùng, không còn lựa chọn nào khác, Lữ Bố phải mời Lữ Bá Dung về trấn giữ Thục Xuyên. Xét về uy vọng và công lao, Lữ Bá Dung là người thích hợp nhất. Nhưng điều này cũng có nghĩa Lữ Bố sẽ mất đi người cố vấn đắc lực bên cạnh mình.

Trong mười năm ấy, Lữ Bố cũng đã lấy thêm ba thiếp, sinh bảy con trai và một con gái. Lữ gia bắt đầu thịnh vượng. Lữ Bá Dung dẫn theo trưởng tử của Lữ Bố, ba con trai khác và một con gái đến Thục Xuyên, để lại ba con trai, trong đó người lớn nhất cũng sắp có thể phụ giúp Lữ Bố.

Năm năm nữa trôi qua, ba con trai còn lại của Lữ Bố cũng dần trưởng thành. Khi ấy, Lữ Bố đã gần bốn mươi tuổi, không còn trẻ trung, nhưng uy danh ngày càng lớn. Khác với cuộc đời trước, trong thế giới mô phỏng này, anh là người cầm quyền, trầm tĩnh và đầy uy lực.

“Hoàng đế Càn Nguyên băng hà?” Lữ Bố cầm lấy tin tình báo từ Giang Nam, khẽ nhíu mày.

Thực tế, trong hai mươi năm qua, Đại Khổ giữ hòa khí với Lữ Bố phần lớn là nhờ hoàng đế Càn Nguyên, một người tuy có phần nhu nhược nhưng không tham vọng quyền lực. Càn Nguyên biết ơn vì Lữ Bố đã giúp giảm thiểu thiệt hại từ quân Hồ. Nhưng giờ hoàng đế băng hà, tân hoàng còn trẻ tuổi, Lữ Bố lo rằng điều này sẽ thay đổi mối quan hệ.

Lữ Bố rõ ràng hơn ai hết mình đã từng là người không biết sợ trời đất khi còn trẻ. Anh sợ rằng tân hoàng, chỉ mới hơn hai mươi, sẽ không chấp nhận thế cục như hiện nay.

“Mã Triết!” Lữ Bố gọi viên thuộc hạ đắc lực.

“Thần có mặt!” Mã Triết tiến ra, hiện đang giữ chức Thượng thư lệnh, là cánh tay phải của Lữ Bố.

“Ngươi chuẩn bị lễ vật, đích thân đến Giang Nam để ta tế lễ Càn Nguyên đế. Đồng thời, hãy xem xem tân hoàng như thế nào.”

Mã Triết hiểu ý Lữ Bố ngay, lập tức đáp: “Thần tuân lệnh!”

Nhìn Mã Triết rời đi, Lữ Bố nhắm mắt lại. Vùng đất Thục Xuyên, giờ đã kín người, bản đồ thiên hạ chia ba rõ ràng: Lữ Bố giữ từ phía tây Thương Sơn, Đại Khổ kiểm soát nam sông Thương, còn người Hồ chiếm đông Thương Sơn, và cả vùng bình nguyên rộng lớn phía bắc sông Thương. Lữ Bố muốn liên kết với Đại Khổ cùng chống lại người Hồ, bằng không, anh e rằng khó lòng hoàn thành giấc mộng thống nhất trong đời mình.

“Thật tiếc là cha không ở đây,” anh nghĩ thầm, “nếu cha ở đây, ta sẽ được nghe những lời khuyên của ông.”

“Thượng tướng quân, phu nhân hỏi ngài tối nay có về phủ dùng bữa không?” Một gia nhân tiến vào hỏi.

“Về,” Lữ Bố khẽ gật đầu. Là bá chủ một phương không hề đơn giản như anh nghĩ. Mỗi ngày đều phải suy nghĩ về sự thay đổi của thế cục, lòng người, một sai lầm trong quyết định có thể dẫn đến hỗn loạn. Nhất là khi Lữ Bố quyết tâm khởi binh bắc phạt, càng nhiều vấn đề anh phải lo toan. Hôm nay hiếm khi có thời gian rảnh, anh sẽ về dùng bữa cùng gia đình.