← Quay lại trang sách

Chương 111 - Trận Chiến Đầu Tiên

Cơn gió bắc lạnh giá rít qua đại địa như những lưỡi dao sắc bén. Phía nam thành Thọ Châu, những cánh đồng rộng lớn bị chia cắt bởi các dòng sông. Những dòng sông này không quá rộng, đến nỗi không chỉ người mà ngựa cũng có thể dễ dàng băng qua.

Từng đội quân mặc giáp đỏ từ trong thành Thọ Châu kiên cố tuôn tràn ra, nhanh chóng bày trận. Phía xa xa, một khối quân kỵ binh khổng lồ tụ thành từng khối trận hình, cuồn cuộn tiến đến. Dù Lữ Bố đã nhiều năm chinh chiến, ông chưa từng chứng kiến đội quân kỵ binh lớn đến vậy, cảnh tượng hàng vạn con ngựa lao nhanh trên chiến trường khiến trong ông trỗi dậy niềm khao khát chiến trường đã lâu lắm rồi mới cảm thấy.

“Giá mà ta có ngần ấy ngựa, có thể huấn luyện bao nhiêu kỵ binh đây?”

Lữ Bố nhìn những con ngựa chiến phía đối phương, ánh mắt lộ vẻ thèm muốn. Đáng tiếc thay, dù là Thương Tây hay Thục Xuyên, cả hai nơi đều không sản sinh ra ngựa tốt. Lữ Bố vẫn luôn cố gắng huấn luyện kỵ binh, nhưng tổng số chiến mã của quân đội cộng lại cũng chưa đến ngàn con, mà đến cả đám ngựa tầm thường cũng phải thay nhau cưỡi, chỉ tính những con đã bị cưỡi đến kiệt sức rồi chết cũng không phải là ít.

“Hy vọng sau trận chiến này, ta có thể thu được một số ngựa chiến để mở rộng lực lượng kỵ binh.”

Phía xa, hoàng đế Đại Quang xuất hiện trên chiến trường dưới sự bảo vệ của các tướng lĩnh, từ xa quan sát trận hình của đối phương. Nhìn thấy một số binh lính quân Thương Tây đang khiêng những thanh tre lớn đến trận tiền, một viên tướng của quân Đại Quang không nhịn được bật cười lớn:

“Nghe đồn Lữ Bố của Thương Tây vì lương thực đã phải khom lưng trước Nam Triều để đổi lấy ít binh khí. Ngày xưa ta còn không tin, nay thì tin rồi! Đến vũ khí ra hồn cũng không có, thế mà dám đánh với đại quân của ta!”

Cận Trát Khắc nheo mắt nhìn không rõ lắm, nhưng ông ta cũng không cho rằng đối phương không đủ khả năng chế tạo vũ khí mà phải dùng đến tre trúc. Lữ Bố ra trận này đã có chuẩn bị kỹ càng, làm gì có chuyện không gom đủ binh khí?

Tuy nhiên, so với cảnh tượng này, thứ khiến họ càng khó chịu hơn chính là đống “kinh quan” (núi xác chết) cao chót vót bên ngoài thành Thọ Châu – một ngọn núi xác do hàng ngàn thi thể của binh lính Hồ chất thành. Nhiều tướng lĩnh nhìn cảnh tượng này chỉ biết nghiến răng căm hận. Hơn hai mươi năm nay, họ đã quen với việc tung hoành trên đất Trung Nguyên. Đây là lần đầu tiên họ bị bêu nhục như thế.

“Bệ hạ, hạ thần xin được xuất chiến!” Một vị tướng lớn tiếng xin lệnh.

Hoàng đế Đại Quang nhìn vào trận hình chặt chẽ của quân địch mà không nói một lời. Đây là trận hình bộ binh thường dùng để kháng lại kỵ binh, bởi chỉ có cách này mới có thể chặn đứng đà xung kích của kỵ binh. Nhưng lẽ thường là thế, họ đã quá quen với việc quân Nam Triều yếu nhược, từ khi cửa Bắc quan bị phá hai mươi năm trước, quân Nam Triều chưa từng có ai không sợ chết như vậy. Những năm gần đây chỉ có mình Lữ Bố là khác biệt, nhưng một trận chiến quy mô mười vạn, y không tin một người cả đời chưa từng chỉ huy trận lớn có thể lãnh đạo nổi.

“Khoa Nhĩ Thân, Trát Mộc! Hai ngươi chia quân tiến từ hai cánh, buộc đối phương phân tán mà không thể toàn tâm chống đỡ ta.

Nếu trận hình địch bị phá, lập tức tiêu diệt!” hoàng đế Đại Quang lạnh lùng ra lệnh.

“Tuân mệnh!” Hai vạn phu trưởng đáp, nhận lệnh dẫn quân rời đi.

“Còn lại, từng trận người một, tiến lên tấn công chính diện, không cho đối phương có lấy một chút thở dốc!” hoàng đế Đại Quang ra lệnh.

Đây là cách để đảm bảo tối đa quân đội không bị tan rã. Nếu quân địch chặn được một mũi tấn công, thì vẫn còn bốn mũi tấn công khác giữ vững sĩ khí, trong khi bộ binh của đối phương không thể chia quân mà chống đỡ hết các hướng tấn công, việc bị tiêu diệt từng phần là điều không tránh khỏi.

“Tuân lệnh!” Năm vị vạn phu trưởng đồng thanh đáp, trận hình kỵ binh khổng lồ bắt đầu tách ra, hai cánh kỵ binh dạt sang hai bên, trong khi đội chính diện tiến thẳng về phía quân chủ lực của Lữ Bố.

Trong phương trận quân Thương Tây, Lữ Bố đứng cao trên đài chỉ huy, quan sát toàn bộ tình hình. Địch quân bố trí thế nào, ông đều hiểu rõ trong lòng.

“Bày trận, Binh pháp Thụy Thiên!” Lữ Bố phất cờ lệnh, hai cánh hình thành góc vuông nhắm vào hai đội quân ở hai bên. Bất cứ kẻ nào dám tiến vào, lập tức phải đối mặt với lực lượng cung nỏ cùng các hàng cọc chông nhọn. Lữ Bố cũng tự mình đối đầu với cánh quân chủ lực của Đại Quang.

Đội kỵ binh đầu tiên từ từ tăng tốc tiến về phía trận địa, với một vạn quân cưỡi ngựa, họ tạo thành một khối khổng lồ lao đến như núi đồi sụp đổ, nhằm thẳng vào phương trận của quân Thương Tây.

“Một vạn quân mà dám thăm dò ư?” Lữ Bố đứng trên đài nhìn địch với vẻ coi thường, phất cờ lệnh lần nữa. “Đến khoảng cách năm mươi bước, phóng Vân Búa!”

Khi hiệu lệnh vang lên, quân địch tiến sát, các binh sĩ đứng hàng đầu có thể thấy rõ vẻ mặt dữ tợn của kỵ binh Hồ, nhưng không ai dám di chuyển khi chưa có lệnh, mỗi người cắn chặt răng, sẵn sàng đón đợt tấn công.

“Bắn!” Khi khoảng cách chỉ còn năm mươi bước, vị quan chỉ huy nỏ pháo ra lệnh.

“Vút, vút, vút…” Những khối vật đen sì được phóng lên từ các nỏ pháo, trông như hai quả cầu sắt nối với nhau bằng sợi dây thừng, xoáy tròn trên không trung và rơi vào giữa trận hình kỵ binh Hồ. Dây nối dài chừng một trượng, nếu trúng người sẽ làm gãy xương, và nếu rơi xuống đất sẽ vướng chân ngựa, làm cho chúng mất thăng bằng.

Chỉ trong chốc lát, hàng loạt chiến mã gào thét đau đớn, ngã lăn xuống đất, bị đồng đội phía sau giẫm đạp. Phía sau, những kỵ binh Hồ dù có chút do dự cũng không thể lùi lại, và ngay sau đó hàng loạt cung nỏ đã sẵn sàng khai hỏa.

“Bắn!” Các cung thủ Thương Tây nghe lệnh bắn lên từng đợt, mũi tên lao thẳng vào không trung và tạo thành một trận mưa tên, trong khi các lính nỏ ở hàng đầu tiến hành bắn tầm thấp. Kỵ binh Hồ vốn đã mất đà, nay lại bị tên bắn tới tấp, tiếng la hét thống khổ vang lên, chỉ trong tích tắc đã chịu thương vong nặng nề.

Trong trận địa quân Đại Quang, hoàng đế giận dữ, mặt xám xịt: “Truyền lệnh hai cánh phối hợp tấn công trận chính của địch!”

Tiếng kèn lệnh vang lên khắp nơi. Lệnh truyền của Đại Quang đơn giản, chủ yếu bằng kèn hiệu, khác với cách thức phức tạp của quân Thương Tây gồm cờ, hiệu lệnh và tiếng trống. Dù vậy, chiến thuật của hai bên rõ ràng rất khác nhau, và từng trận chiến chỉ là bước khởi đầu cho cả hai bên.