← Quay lại trang sách

Chương 288 - Hồi Kết

Nên đặt quốc sách ra sao?

Lữ Bố bỗng chốc rơi vào trầm tư. Khi còn tại vị Đại Kiền, dù làm hoàng đế, ông vẫn chỉ noi theo các vị quân chủ cổ xưa và đôi chút học hỏi từ phụ thân Lữ Bá Ung. Dù quốc gia vận hành ổn định, nhưng thực chất chỉ là phiên bản khác của Đại Hán mà thôi.

Nhưng giờ đây, sau khi trải qua nhiều kiếp đời, từng làm Thiên tử, trải qua những thời đại hoàn toàn khác biệt, cộng thêm những điều học được từ Đại Hán, Lữ Bố nhận ra nhiều thiếu sót khi làm Thiên tử lần trước. Ông muốn xây dựng một quốc gia hoàn hảo, dựa trên trải nghiệm mấy kiếp của mình.

Điều đầu tiên cần phải hiểu rõ: chỉ dựa vào đất Trung Châu, dù phì nhiêu trù phú đến đâu, cũng có giới hạn. Giống như đất canh tác, diện tích chỉ có ngần ấy, và sự phồn thịnh từ nông nghiệp là hữu hạn.

Do đó, phát triển công và thương có lẽ là con đường khả thi.

Như các nghĩa quân miền Nam, dựa vào thương mại biển, đã tích lũy được đủ tài sản để đối đầu triều đình, và điều này cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Nếu không kiểm soát thương mại, nó sẽ trở thành sức mạnh có thể đối kháng với triều đình.

Trong chính sách mới của Lữ Bố, thương nghiệp được xác lập tầm quan trọng nhưng cũng bị kiểm soát chặt chẽ. Chẳng hạn, thuế đối với thương nhân là cao nhất; chỉ điều này đã gần như gây ra bạo động ở miền Nam, nhưng Lữ Bố không nhượng bộ, đây là điều căn bản và bắt buộc. Phản đối? Thì phải chịu lấy cái chết!

Hơn nữa, số lượng bảo vệ của thương nhân cũng bị giới hạn nghiêm ngặt. Nếu lực lượng vượt quá mức cho phép, dù là lý do gì, lập tức xử tội diệt môn!

Cuối cùng, thương nhân không được đầu cơ tích trữ, nâng giá bán để kiếm lời. Nếu phát hiện, xử tội cả nhà.

Đây là xiềng xích mà Lữ Bố trói buộc thương nhân, nhưng đồng thời cũng có chính sách khuyến khích. Nếu bị chèn ép ở hải ngoại, thương nhân có thể báo với triều đình, nơi lá cờ hoàng gia đến, kẻ nào dám xúc phạm, dù xa cũng phải trừng phạt! So với cuộc chinh chiến hao tổn nhân lực ở sa mạc, việc xuất quân trên biển với hải trình rõ ràng tiêu tốn ít hơn nhiều.

Ngoài ra, nếu không vi phạm luật triều đình, thương nhân cũng có một số ưu đãi nhất định, chẳng hạn như được phép hưởng một số mặt hàng đặc cung của triều đình.

Đây là lần đầu tiên Lữ Bố tiếp xúc với kinh tế biển, nên ông vừa khuyến khích vừa ràng buộc, từng bước thử nghiệm xem những điều này liệu có áp dụng được cho Đại Hán hay không.

Về công nghiệp, Lữ Bố hết lòng khuyến khích, hy vọng thợ thủ công sẽ chế tạo ra những con thuyền lớn, nhanh hơn, thích hợp cho việc đi biển, cũng như những loại cung nỏ dùng trên thuyền.

Về dân sinh, Lữ Bố đối đãi khá rộng rãi với dân chúng. Loạn lạc vừa qua cần thời gian ổn định. Trong tình hình này, chỉ cần triều đình đảm bảo yêu cầu cơ bản, giảm nhẹ thuế khóa, thì dân chúng có thể tự phát triển.

Dưới chính sách của Lữ Bố, đất Trung Châu nhanh chóng hồi phục sức sống, chỉ trong vòng mười năm, Trung Châu đã trở nên phồn vinh, cảnh tượng điêu tàn năm xưa đã lùi vào dĩ vãng.

Đồng thời, trong suốt mười năm này, Lữ Bố không buông lỏng việc cảnh giác với triều Đại Mãn, luôn tích cực chuẩn bị chiến tranh. Lữ Bố ở tuổi sáu mươi lăm vẫn mạnh mẽ, quyết tâm tự mình xuất quân lên phương Bắc để diệt tận gốc mối họa, đồng thời cho thái tử lên giám quốc, sẵn sàng kế vị nếu ông chẳng may hy sinh.

Dù biết không thể hoàn toàn tiêu diệt Đại Mãn, Lữ Bố vẫn chuẩn bị chu đáo. Đại Mãn những năm qua đã khôi phục được ít nhiều nguyên khí, và giao chiến kịch liệt với Lữ Bố ở biên ải. Kết quả, Đại Mãn đại bại, từ Đông Hàn đến Mạc Bắc, chiến trường xác người ngổn ngang. Lữ Bố, dù tuổi đã cao, ba lần xông vào triều đình Đại Mãn, chém chết hoàng đế của họ.

Mãi đến khi vị hoàng đế thứ tư của Đại Mãn dẫn tàn quân chạy sâu vào Mạc Bắc ngàn dặm, do tiếp tế khó khăn, Lữ Bố mới hạ lệnh rút quân. Ông lên đường lúc sáu mươi lăm tuổi, trở về đã bảy mươi tuổi.

Ít lâu sau, triều Đại Mãn gửi thư hàng, dù Lữ Bố chưa hả lòng hả dạ, nhưng mười năm qua, nguồn lực Trung Châu đã gần như cạn kiệt, không thích hợp cho việc truy kích, nên đành tạm thời gác lại.

Trở về, ông nghe tin Cửu Nhi qua đời. Lữ Bố nhất thời rơi vào u mê, trong kiếp này, Cửu Nhi đã sống những ngày tháng an yên, không chịu nhiều khổ sở. Nhưng Lữ Bố vì bôn ba chinh chiến, trị quốc, thời gian ở bên gia đình hiếm hoi, thậm chí còn không kịp gặp vợ lần cuối.

Ông lưu lại ba tháng bên mộ Cửu Nhi. Ba tháng sau, Lữ Bố đứng dậy, nhường ngôi cho thái tử, nhưng không quy ẩn. Ông muốn ngao du khắp thế gian, bất chấp can gián của quần thần, cùng các lão thần như Trương Quang Diệu, Lưu Khai Đạt, Tạ Nhân Tùng lên thuyền, chu du các nước ngoài hải.

Lữ Bố rong ruổi trên biển suốt ba mươi năm, chứng kiến lần lượt các lão thần ra đi, ông vẫn tiếp tục cuộc hành trình, định sẽ cứ thế thưởng thức vẻ đẹp hùng vĩ của thế giới cho đến lúc chết. Nhưng không ngờ, ba mươi năm sau, ông lại trôi dạt trở về cố quốc, rõ ràng bản thân đã đi mãi về phía tây, cớ sao lại quay về từ hướng tây?

Thế giới này lẽ nào không phải phẳng mà là tròn?

Lữ Bố bị suy đoán của mình làm kinh ngạc, nhưng vì thiếu chứng cứ, đành gác lại.

Lúc này ở Trung Châu, thái tử ông lập đã qua đời, nay đến lượt cháu nội kế vị. Ông không trở về triều đình, trong ba mươi năm qua, ông đã thấy quá nhiều cảnh cha con tàn sát vì quyền lực. Lòng người khi gặp phải lợi ích, ông hiểu, có thể biến đổi đến mức tàn nhẫn.

Lữ Bố chỉ du ngoạn khắp chốn, truyền bá một vài tư tưởng phương Tây mà ông cho là có ích. Có lẽ vì ảnh hưởng của ông, ba đời thiên tử Trung Châu đều rất khoan dung với dân chúng.

Nhưng đến đời cháu nội, Lữ Bố nhận thấy rõ ràng rằng, không chỉ trên triều đình mà cả ở các địa phương, thế lực của các thế gia đang hồi sinh. Lần này, quyền lực mạnh nhất không ở phương Bắc mà là phương Nam.

Do giao thương hải vận, tốc độ tích lũy tài sản ở miền Nam vượt xa miền Bắc, vốn dựa vào nông nghiệp. Sự giàu có ngày càng đổi thay các điều kiện của phương Nam.

Chẳng hạn, về giáo dục, Lữ Bố trong các chuyến du hành nhận ra rằng, quan lại do triều đình tuyển chọn từ các kỳ khảo thí, miền Nam vượt xa miền Bắc về nhân tài. Khi khảo sát, ông phát hiện miền Nam có vô số học đường tư nhân, sẵn sàng trả tiền mời danh sĩ, đại nho về giảng dạy. Trong khi miền Bắc chỉ còn lại các học viện thời Lữ Bố trị vì, không có sự tăng trưởng, còn học viện phương Nam lại như nấm mọc sau mưa.

Khoảng cách về kinh tế Bắc Nam dần dần trở nên toàn diện, từ văn hóa đến phẩm chất. Triều đình dường như không thấy nguy cơ tiềm ẩn, lại bắt đầu đàn áp nhân tài phương Nam, khiến mâu thuẫn Bắc Nam ngày càng sâu sắc.

Miền Nam nắm giữ kinh tế, miền Bắc chú trọng quyền lực, con cháu hậu thế không biết điều hòa mà dùng phương pháp chèn ép, ngăn cản con đường thăng tiến của người Nam để tránh tình trạng đoạt quyền!

Lữ Bố từng để lại di huấn cấm thương nhân kết hợp quyền lực, nhưng trong tình thế hiện tại, triều đình không nên nhượng bộ mà cần thúc đẩy khai thác lợi thế miền Bắc, đồng thời áp đặt một số hạn chế, chẳng hạn như nếu gia đình thương nhân muốn làm quan thì phải từ bỏ sản nghiệp, di cư lên Bắc.

Tình hình giờ đây đã đến lúc cần thay đổi, vậy mà triều đình lại trì hoãn, điều này sẽ gây ra hệ quả!

Lữ Bố từng viết nhiều thư gửi triều đình, trong thời ông, toàn dân có quyền dâng thư bàn việc nước. Đương nhiên, tấu chương của dân sẽ được xét duyệt kỹ càng, nếu không Lữ Bố đọc không xuể mà chết mất.

Thế nhưng, thư của ông đưa lên như rơi vào đáy biển!

Triều đình không thấy vấn đề nghiêm trọng, trái lại, khi nhận ra sự bất kham của phương Nam, lại bắt đầu phong tỏa đất nước, ban bố lệnh cấm biển!

Việc này đã cắt đứt con đường làm ăn của người Nam. Nếu không phải triều đình quản lý quân quyền rất chặt, một lệnh này thôi cũng đủ gây ra nội chiến Bắc Nam!

Tiếp theo, triều đình khởi động hàng loạt cuộc thanh tra, nhiều quan viên bị cách chức, kẻ nhẹ thì mất chức, nặng thì mất mạng.

Dù phương pháp có phần tàn nhẫn, nhưng Lữ Bố vẫn ủng hộ, rõ ràng triều đình cũng nhận ra thế lực sĩ tộc mới đang hình thành, nên nhân cuộc thanh tra mà bóp nát chúng ngay từ trứng nước.

Cuộc thanh trừng kéo dài suốt năm năm, triều đình thay ba đợt quan lại, cuối cùng kết thúc không phải vì triều đình muốn, mà là vì cháu nội của Lữ Bố… qua đời.

Cháu của ông, dù không có tài năng nổi bật, nhưng là người cần cù, việc gì cũng tự mình làm. Chắt nội của ông đối với Lữ Bố có phần xa lạ, nhưng tay nghề điều hành lại không tồi.

Ngay khi Lữ Bố phần nào an lòng, thì phương Nam xuất hiện lượng lớn các đảo quốc xâm lược.

Điều mà Lữ Bố lo lắng cuối cùng đã xảy ra. Do lệnh cấm biển, nhiều thế gia miền Nam bí mật cấu kết với ngoại bang, đem tài vật trao đổi khắp nơi ven biển.

Nhưng những kẻ ngoại bang đó không phải người thiện lương, biết rõ triều đình cấm biển, thấy người miền Nam không thể đi xa, chúng chiếm đoạt tài vật không trả tiền, lại còn cướp bóc ven biển.

Một số người phương Nam vì lệnh triều mà nhà tan cửa nát, đành xuất ngoại, tụ tập ngư dân hoặc người dân nước khác, trở thành cướp biển. Nhưng ít nhất những kẻ này có đạo nghĩa, không gây rối cho Trung Châu.

Lữ Bố ban đầu không định can thiệp, nhưng nhìn thấy các đảo quốc gây nên tội ác chất chồng ven biển, ông không kìm nổi cơn giận. Đám người từng khiêm nhường đến mức hóa thành cẩu khi gặp ông, giờ đây lại lộ nguyên hình trước bách tính, hung tàn vô độ, thậm chí còn tàn bạo hơn cả Đại Mãn ngày trước.

Lữ Bố cuối cùng không nhịn được nữa, tập hợp một nhóm người, thẳng tay vượt biển đánh vào đảo quốc của chúng. Năm năm ở nơi ấy, chuyện giết người chỉ là phụ, ông đốt hết mọi tài liệu kỹ thuật và sát hại các nhân tài của chúng, khiến cho kỹ thuật đóng thuyền, canh tác của bọn họ lùi lại vài chục, thậm chí cả trăm năm. Dù đó chỉ là biện pháp tạm thời, vì chỉ cần triều đình không gỡ bỏ cấm biển, vấn đề sớm muộn sẽ tái diễn, nhưng chuyện này… đành để cho hậu thế lo liệu. Ông đã già, đến khi về lại Trung Châu, chỉ để lại một bài luận trị quốc cho đời sau, rồi an nhiên rời khỏi cõi đời, hưởng thọ một trăm ba mươi sáu tuổi…