Chương 344 - Luận Hùng
Mã Nhật Tịch rời đi, trong lòng mang nặng những suy nghĩ về những gì vừa nghe. Lữ Bố không giấu diếm những quan điểm thẳng thắn của mình về thế sự, và cái nhìn của ông về xã hội thực sự sắc bén. Dù có lúc Mã Nhật Tịch cảm thấy đã tìm thấy một sự hiểu biết sâu sắc nào đó, ông vẫn muốn giữ lại một chút vẻ đẹp của lời nói văn chương để che đậy sự thật trần trụi, bởi sự thật quá tàn nhẫn thường khiến người ta cảm thấy khó chịu.
“Ngươi khó mà tiến xa ra khỏi Quan Trung với tư duy này,” Thái Ung nhấp chén trà, nhìn Lữ Bố nhận xét.
Không phải vì Lữ Bố không thể đánh ra ngoài mà là bởi ít có người thực sự đồng tình với tư tưởng của ông. Quan điểm của Lữ Bố dẫu rõ ràng và mạnh mẽ, nhưng cũng dễ gây mâu thuẫn với giới sĩ tộc, nhất là khi tư tưởng này áp đặt lên một gia tộc. Các gia tộc thường xem trọng lợi ích của mình trước quốc gia. Cách cai trị của Lữ Bố có thể hiệu quả trong một khu vực nhỏ, nhưng khi bành trướng ra quy mô cả nước, sẽ đối mặt với sự chống đối, mà tiêu biểu là phản ứng của các thế lực lớn trong quan lại.
Lữ Bố nghe xong chỉ mỉm cười đáp lại: “Thời gian là thuốc chữa lành mọi thứ trên thế gian, ta có thời gian.”
Ông không chắc liệu có sống được lâu như mong muốn, nhưng cảm giác rằng mình có thể trường thọ đã trở thành niềm tin sâu sắc. Đối với một người cầm quyền, sự tồn tại lâu dài chính là lợi thế lớn nhất, cho phép ông thực thi ý chí đến tận phút cuối cùng của cuộc đời. Trong cuộc sống thực này, Lữ Bố hy vọng mình có thể tạo dựng một quốc gia lý tưởng.
Cảm nhận được sự quyết tâm thầm kín từ lời nói của Lữ Bố, Thái Ung định phản bác rằng không ai biết trước được thiên ý, nhưng điều đó lại giống như lời nguyền rủa, nên đành giữ im lặng. Ông nhìn Lữ Bố và chua chát nhận xét: “Phụng Tiên còn bất thực tế hơn cả lão phu.”
Lữ Bố chỉ cười, nhận thấy Thái Ung đang có ý khuyên nhủ ông nên thỏa hiệp đôi chút. Thái Ung từng là người ông kính trọng vì học thức và đạo đức, và giờ đây, tuy đã quyết tâm dồn toàn tâm vào biên soạn lịch sử, Thái Ung vẫn thường trò chuyện với Lữ Bố, đôi khi là để nhắc nhở ông về những thực tế của xã hội.
“Gần đây lão phu đang biên soạn một cuốn sách về những nhân vật hiện tại. Phụng Tiên nghĩ xem, trong thiên hạ hiện tại, ai mới xứng đáng gọi là anh hùng?” Thái Ung nhẹ nhàng chuyển chủ đề.
“Anh hùng ư?” Lữ Bố ngả người ra sau, suy nghĩ hồi lâu: “Thiên hạ tuy rộng, nhưng giữa thời loạn thế này, ai thực sự xứng đáng với danh xưng anh hùng?”
“Ta thấy Phụng Tiên chính là anh hùng đó chứ,” Thái Ung mỉm cười nói.
“Ta?” Lữ Bố bật cười, một chút chua chát lẫn trong giọng điệu: “Ta mồ côi từ nhỏ, mười hai tuổi đã giết người, lăn lộn trên sa trường ngoài biên ải, từng một mình diệt trọn một bộ tộc. Tuy rằng thống khoái, nhưng máu vô tội dưới ngọn kích của ta không đếm xuể. Để theo đuổi lợi ích, ta từng sát hại Đinh Nguyên. Rồi sau này, chiến trường đầy mùi máu và oán hận. Ở Quan Trung, không ít sĩ nhân cũng mất mạng chỉ vì một lời của ta. Nếu ta mà được xem là anh hùng, thì anh hùng là một từ ngữ đáng thương xiết bao.”
“Biết sai mà chịu sửa, còn gì cao quý hơn,” Thái Ung khẽ đáp lại, nhận thấy sự thẳng thắn của Lữ Bố về quá khứ của mình thật đáng nể.
Lữ Bố lắc đầu: “Biết sai nhưng không thể sửa. Có những con đường, một khi bước chân vào, không thể quay đầu.
Sự đúng sai này khó có thể nhận thức được, vì đều dựa trên lập trường của mỗi người. Nhưng đứng ở vị trí của ta, chẳng phải ta chỉ đang đối mặt với hiện thực sao?”
“Ngươi quả là thẳng thắn,” Thái Ung cười khổ.
“Dù có là chết, ta cũng sẽ để cho người khác biết lý do, chết mà sáng tỏ,” Lữ Bố nhấn mạnh, không có ý muốn tô vẽ bản thân mình thành người cao thượng.
“Vậy không biết trong lòng Phụng Tiên, ai mới xứng đáng là anh hùng?” Thái Ung tò mò hỏi.
Lữ Bố trầm ngâm một lúc lâu rồi đáp: “Ta từng thấy một người cha bị chết dưới lưỡi đao của Hung Nô, vẫn giữ nụ cười trấn an cô con gái mình đến phút cuối, chẳng phải người cha ấy chính là anh hùng trong lòng đứa trẻ sao? Lại có vị tướng quân tử thủ cổng thành, dẫu triều đình suy yếu, bỏ mặc, ông vẫn kiên trì đứng vững, chiến đấu đến giây phút cuối cùng. Đối với bá tánh, chẳng phải ông ấy là anh hùng sao?”
“Với tiêu chuẩn của ngươi, không ít anh hùng sẽ bị lãng quên mất,” Thái Ung khẽ thở dài.
“Chốn dân gian đâu thiếu anh hùng.” Lữ Bố nói, nhận ra vẻ mặt của Thái Ung, liền tiếp lời: “Một người bán thịt hung tợn liều mạng cứu đứa trẻ khỏi tên cướp, kẻ bán hàng tham lam cũng có thể vì bảo vệ phụ nữ và trẻ em mà dốc sức chiến đấu.”
“Vậy trong giới sĩ phu, chẳng lẽ không có anh hùng sao?” Thái Ung hỏi.
“Có chứ,” Lữ Bố đáp ngay, “Như Khổng Thành, cả đời không chịu làm quan vì ghét ngoại thích. Tô Vũ chịu lưu đày hai mươi năm nơi đất khách mà vẫn giữ lòng trung thành. Cả hai đều là anh hùng, nhưng phần lớn sĩ phu thì không.”
“Vì quyền lợi?” Thái Ung suy nghĩ rồi nói: “Có lẽ là vì trách nhiệm gia đình quá nặng nề?”
“Gia tộc càng lớn, người thân càng nhiều, có thể bản thân quan viên thanh liêm, nhưng gia quyến của họ thì sao? Lòng người vốn tham lam, giữ mình đã khó, giữ được người thân còn khó hơn. Một khi sa vào cám dỗ, khó mà quay đầu,” Lữ Bố gật đầu.
Dưới quan điểm của Lữ Bố, ít chư hầu nào xứng đáng làm anh hùng. Sau khi suy nghĩ, Thái Ung hỏi: “Vậy Phụng Tiên cho rằng các chư hầu nên được gọi là gì?”
“Hào kiệt,” Lữ Bố không chút do dự trả lời.
“Hào kiệt?” Thái Ung lặp lại, ngẫm nghĩ về từ ngữ này.
“Công Tôn Toản tuy cố chấp nhưng dũng mãnh trên chiến trường, bảo vệ bờ cõi, là một hào kiệt; Viên Thiệu xuất thân danh gia vọng tộc, có khả năng nhìn người và khí chất rộng lớn, cũng là hào kiệt; Tào Tháo dù tàn ác, nhưng ý chí kiên cường, tinh thần không khuất phục, đúng như Từ Thứ gọi là ‘gian hùng’. Đào Khiêm, Lưu Biểu tuy chỉ bảo toàn bản thân, nhưng lại có công bình ổn một châu dân chúng, điều này khó có được trong loạn thế, xứng làm hào kiệt. Ở Thục Trung, Lưu Yên mưu trí sâu xa, nhưng lòng riêng quá lớn, dù vậy vẫn là hào kiệt. Còn Tôn Sách, ta tin sẽ sớm thay thế Viên Thuật, cũng xứng danh hào hùng. Về phần Viên Thuật… cũng có thể gọi là hào kiệt vậy.”
Lữ Bố ngừng lại một lúc trước khi nhắc đến Viên Thuật, vì không tìm được thành tựu nổi bật nào của ông ta. Dẫu vậy, Viên Thuật từng có tiếng hào hiệp, nên miễn cưỡng cũng có thể gọi là hào kiệt.
Thái Ung để ý thấy cách Lữ Bố gọi Tào Tháo và Tôn Sách là “gian hùng” và “hào hùng,” khác hẳn với các chư hầu khác, khiến ông không khỏi trầm ngâm. Tào Tháo là người ông từng dạy dỗ, nên ông có phần hiểu được, còn Tôn Sách, tuy chưa gặp bao giờ, nhưng nếu Lữ Bố đã đánh giá cao, hẳn là đáng lưu tâm…