← Quay lại trang sách

Chương V CON RẮN TINH MA-1

Bà Varvara rung chuông rồi buông mình xuống chiếc ghế bành nằm bên cửa sổ. Bà chỉ cho Maria Lebiadkina một cái ghế một gần chiếc bàn tròn lớn kê ngay giữa phòng và bảo: Em ngồi xuống kia.

Rồi liếc nhìn ông Xtepan, bà hỏi:

- Ông nghĩ về chuyện này ra sao, hử ông Xtepan? Ông có nhìn thấy thiếu phụ đây không? Theo ông thế là làm sao?

Ông Xtepan Verkhovenxki mới lập bập có được mấy tiếng: “Tôi, tôi...” thì bị ngắt ngang vì người hầu bước vào phòng.

- Đem cho tôi một tách cà phê, càng nhanh càng tốt. Và chớ có tháo ngựa ra; tôi cần dùng đến xe bây giờ.

Ông Verkhovenxki bắt đầu bằng một giọng hấp hôi:

- Nhưng bà bạn thân mến và tuyệt hảo ơi, nỗi âu lo nào...

- À, tiếng Pháp, nói tiếng Pháp! Biết ngay là mình ở xã hội thượng lưu mà! - cô Maria kêu lên, vỗ tay khoan khoái, thú vị được dự một buổi nói chuyện bằng Pháp văn. Bà Varvara chòng chọc nhìn cô gần như kinh hoàng.

Tất cả chúng tôi giữ im lặng, chờ đợi một chuyện gì sắp xảy ra. Satov nhìn xuống sàn nhà. Ông Xtepan ở trong trạng thái hoảng hốt; một phần nào ông cảm thấy phải chịu trách nhiệm về những chuyện đang xảy ra. Tôi nhận thấy hai bên thái dương ông lấm tấm mồ hôi. Liza ngồi trong một góc không xa Satov cho lắm. Mắt cô cứ đảo từ bà Varvara sang Maria rồi ngược lại. Môi cô chúm lại thành một nụ cười nhếch mép khó chịu mà bà Varvara ghi nhận trọn vẹn. Còn về cô Maria Lebiadkina, cô hoàn toàn tự chủ; không hề bối rối một chút nào, cô quan sát căn phòng sang trọng, bàn ghế, thảm, các bức họa, các phù điêu trên trần, và thập tự giá lớn bằng đồng trong một góc, cây đèn bằng sứ, những tập bưu ảnh kỷ niệm và những món đồ nhỏ khác trên chiếc bàn tròn. Thình lình cô kêu lên:

- Satov, vậy ra anh cũng đến đây nữa! Thử tưởng tượng xem! Tôi đã nhìn anh mãi, nhưng cứ nghĩ thầm: không phải anh ấy đâu, làm sao anh ấy lại đến đây được?

Thế rồi cô phá lên cười sung sướng. Lập tức bà Varvara quay ngay về phía Satov hỏi:

- Vậy ra anh biết người đàn bà này?

Satov cựa quậy trong ghế, lẩm bẩm:

- Phải, tôi biết.

- Thực ra anh biết những gì? Làm ơn nói cho tôi biết mau lên!

Satov mỉm cười một cách vụng về, không hợp tình hợp cảnh.

- Bà định nói sao? Bà cũng nhìn thấy đó.

- Nhìn thấy cái gì? Kìa, trời đất ơi, nói đi!

- Tình cờ chúng tôi sống chung trong cùng một ngôi nhà. Cô ta sống với người anh - tôi nghĩ là một sĩ quan.

- Rồi sao nữa?

Satov ngập ngừng:

- Rồi, rồi chuyện... chuyện cũng chẳng có gì đặc biệt đáng nói! - anh lắp bắp rồi lại rơi vào sự im lặng cố chấp. Sự cố chấp còn làm anh đỏ bừng mặt nữa. Bà Varvara bực tức nói:

- Thôi, hỏi anh rõ thực cũng chả đi đến đâu cả.

Đến lúc này bà đã đoán ra được rằng người nào có mặt ở đây cũng đều biết một điều gì đó, nhưng tránh né các câu hỏi của bà, cố tìm cách giấu bà.

Người hầu tiến vào, đem cho bà Varvara tách cà phê đặt trên cái khay bạc, nhưng bà ra dấu bảo anh đưa lại cho Maria.

- Đó, em. ở nhà thờ trông em lạnh run. Em uống đi cho ấm người.

- Cám ơn. - Maria vừa nói vừa cầm tách cà phê lên và lập tức cô phá ra cười vì đã nói câu “Cám ơn” với người hầu bằng tiếng Pháp. Nhưng khi cô cảm thấy bà Varvara nhìn mình đăm đăm, cô lại đặt cái tách xuống bàn. Cô nói thật lẹ, bằng một giọng tươi tắn không thích hợp:

- Thế dì không giận con chứ, hả dì?

Bà Varvara đột nhiên ngồi ngay người trong chiếc ghế bành. Bà nói:

- Cái... gì? Tôi đâu phải là dì của cô! Cô định nói gì thế hử?

Maria không ngờ bà lại có phản ứng mạnh mẽ như vậy. Cô ngồi chết trân trên ghế và bắt đầu run rẩy cùng mình, như đang lên cơn. Cô mở to mắt thao láo nhìn bà Varvara rồi nói lúng búng:

- Liza cũng gọi bà như vậy mà.

- Lại còn chuyện Liza nào vào đó nữa?

- Cô tiểu thư này ạ, - Maria đưa tay chỉ.

- Cô ấy đã trở thành Liza với cô bao giờ vậy?

- Thì chính con vừa nghe thấy bà gọi như thế mà, - Maria nói một cách vui vẻ hơn. Con nhìn thấy trong giấc mơ một cô gái đẹp giống y như chị ấy, - cô vừa nói thêm vừa cười có vẻ miễn cưỡng.

Bà Varvara nghĩ ngợi giây lát rồi dịu được một chút. Bà mỉm cười trước nhận xét của Maria. Maria, khi trông thấy bà Varvara cười liền đứng dậy và rụt rè đi lại phía bà, trao trả bà chiếc khăn choàng mà bà Varvara đã cho cô ta ở nhà thờ:

- Xin bà cầm lấy, tôi xin lỗi đã quên không trả lại bà.

- Cô lấy lại đi và giữ mà dùng. Cô ngồi xuống uống cà phê đi. Và xin cô đừng sợ tôi, bình tĩnh lại nào. Bây giờ tôi bắt đầu hiểu cô hơn.

Ông Xtepan lại mở miệng cố gắng nói:

- Bà bạn thân mến...

- Ồ, tôi xin ông, ông Xtepan, ông làm tôi bối rối thế đủ rồi, thôi, bây giờ xin ông để tôi yên một lát! Ông có thể rung chuông chứ? - đó, ngay cạnh ông đó.

Yên lặng. Bà Varvara bứt rứt liếc nhìn chúng tôi. Rồi cô hầu gái thân yêu của bà, Agasa hiện ra ở ngưỡng cửa.

- Chị lấy cho tôi cái khăn choàng kẻ ô vuông tôi mua ở Genève. Cô Dasa đang làm gì thế?

- Thưa, cô hơi khó ở ạ.

- Lên lầu mời cô xuống đây. Nói rằng tôi cần gặp cô lắm, xin mời cô xuống dù cô không được khỏe.

Tròng lúc đó chúng tôi nghe thấy một tiếng động bất thường nổi lên ở phòng bên cạnh: tiếng nói và tiếng bước chân. Rồi bà Drozdova, thở không ra hơi và có vẻ tức giận lắm, hiện ra ở ngưỡng cửa. Bà tựa người vào tay Mavriki.

- Ô, kìa trời! Tôi tưởng không đến đây nổi nữa chứ! Liza, cô điên rồi! Cô đối xử với mẹ cô thế ư?

Bà the thé kêu, diễn tả trong tiếng kêu ấy tất cả nỗi tức giận chất chứa trong người, theo thói quen của những người yếu đuối và bẳn gắt.

- Chị Varvara, tôi tới kiếm con gái tôi.

Bà Varvara cau mày, hơi nhích người lên và che giấu một cách khó khăn sự bực tức của mình, nói:

- Chào chị Praxcovia, tôi xin chị ngồi xuống. Tôi biết chắc là chị sẽ tới.

2

Sự tiếp đón của bà Varvara không làm bà Drozdova ngạc nhiên. Bề ngoài che đậy dưới tình bạn bè, bà Varvara luôn luôn cư xử với người bạn học nội trú cũ một cách độc tài và gần như trịch thượng. Tuy nhiên, hôm nay tình trạng có vẻ khác thường. Mới đây, sự đi lại giữa hai nhà sắp đi đến chỗ tuyệt giao. Lý do của sự tan vỡ này còn mờ tối đối với bà Varvara, điều đó làm bà bực mình không ít. Nhưng điều chính yếu là bà Drozdova bắt đầu có thái độ cao ngạo một cách lạ lùng đối với bà. Dĩ nhiên là bà Varvara bị tổn thương nhiều lắm, mặt khác, những lời đồn đại xa xa đã loáng thoáng đến tai bà, những lời đồn đại bóng gió rất mơ hồ và chính vì lẽ mơ hồ đó khiến bà tức giận đến cực điểm. Bà Varvara là một người bộc trực thẳng thắn, kiêu hãnh và hay gây gổ nữa. Bà chúa ghét những lời kết án gián tiếp và bóng gió, luôn luôn thích những cuộc đụng độ công khai. Dù sao, đã năm ngày hôm nay, nghĩa là từ ngày bà Varvara rời khỏi nhà “mụ Drozdov” một cách bối rối và giận dữ, hai bà chưa gặp lại nhau. Tôi có thể nói mà không sợ nhầm là lúc này trong khi bước vào phòng khách, bà Drozdova ngây thơ tin tưởng rằng bà Varvara phải sợ mình, điều đó có thể trông thấy rõ trên nét mặt. Nhưng vừa khi bà Varvara có một vài lí do để giả thiết rằng người ta tưởng là bà bị sỉ nhục thì lập tức con quỉ kiêu hãnh của bà chồm dậy ngay. Mặt khác, bà Drozdova cũng như bao kẻ yếu đuối khác quen nhịn nhục, khi thời cơ thuận tiện tới liền cho nổ tung ra một cuộc tấn công mãnh liệt. Quả thực lúc đó trong người bà không được khỏe và điều đó khiến bà cực kì phẫn nộ. Cuối cùng tôi xin nói thêm rằng nếu có cuộc đại chiến bùng nổ giữa hai người bạn học từ thuở còn để chỏm thì sự có mặt của chúng tôi cũng không ngăn nổi cơn tam bành lục tặc của hai bà: chúng tôi được coi như người trong nhà và một cách nào đó, như những kẻ dưới. Tôi lo lắng mà nghĩ như thế. Khi nghe thấy tiếng la lối của bà Drozdova, ông Xtepan vẫn đứng từ khi bà Varvara tới liền ngồi bệt xuống một chiếc ghế, đưa mắt nhìn tôi một cách tuyệt vọng. Satov bứt rứt cựa quậy trên ghế và lẩm bẩm điều gì đó. Tôi có cảm tưởng anh ta muốn đứng dậy ra về. Liza nhổm lên một giây lát rồi ngồi xuống ghế, không mảy may để ý tới tiếng quát tháo của mẹ. Không phải cô cố ý không biết tới mẹ nhưng đúng hơn có một điều gì đó đang thu hút sự chú ý của cô. Lúc này trông cô chơi vơi trong không gian, gần như lơ đãng, và quên cả Maria Lebiadkina nữa.

3

- Sao, tôi có thể ngồi xuống đây đưực chứ? - Bà Drozdova gay gắt hỏi, rồi nặng nề buông mình xuống chiếc ghế gần bàn với sự giúp đỡ của Mavriki. Bà nói thêm bằng một giọng the thé: Nếu chân tôi không đau thì tôi đã chẳng thèm ngồi xuống ở cái nhà này.

Bà Varvara khẽ ngẩng đầu lên, lấy tay ấn vào thái dương bên phải làm bà đau (chứng giật gân mặt).

- Tại sao chị nói vậy, chị Praxcovía? Tại sao chị không thèm ngồi ở nhà tôi? Người chồng quá cố của chị lúc nào cũng là người bạn thân của nhà tôi và chúng ta chả cùng chơi búp bê với nhau trong kí túc xá là gì?

Bà Praxcovia xua tay:

- Tôi chờ chị nói điều đó. Bao giờ chị cũng gợi lại những kỷ niệm ở nội trú trước khi sửa soạn trách móc tôi. Đó là chiến thuật cổ điển của chị mà. Nhưng theo ý tôi, đó chỉ là những câu hoa mĩ. Tôi không thể chịu được cái nội trú của chị.

- Hình như chị có vẻ bực bội. Chân chị làm sao? Cà phê của chị đây, tôi xin chị, đừng tức giận nữa.

- Chị coi tôi như một đứa con nít. Tôi không uống cà phê của chị.

Bà tức tối gạt người đầy tớ bưng li cà phê lại cho bà. Những người kia cũng đều từ chối cà phê, nghĩa là tất cả mọi người trừ tôi và anh Mavriki. Ông Xtepan lấy một li, nhưng đặt xuống bàn và không đụng tới. Cô Maria Lebiadkina muốn lấy một li cà phê thứ hai và cô đã giơ tay tới khay rồi nghĩ thế, nào lại thôi với một vẻ rất tư cách, cô có vẻ hài lòng với cử chỉ của mình ra mặt. Bà Varvara Petrovna gượng cười:

- Chị Praxcovia, tôi chắc thế nào chị cũng còn tưởng tượng chuyện này chuyện kia và chính vì lẽ đó mà chị tới đây. Chị thì bao giờ cũng sống trong tưởng tượng. Chị tức giận khi tôi nói tới trường nội trú của chúng ta, nhưng chị có nhớ lần chị đã báo cho cả lớp biết rằng anh chàng khinh kị binh Sablưkin đã hỏi cưới chị? Lập tức bà Lefebure chứng minh là chị nói dối. Tuy nhiên đó không phải là một điều bịa đặt dối trá; câu chuyện đó, chị chỉ đặt ra để chơi thôi. Thế còn bây giờ xin chị cho biết chị còn tưởng tượng chuyện gì nữa đây? Tại sao chị bất bình? Chị nói đi!

- Thế còn chị, chị yêu vị cha cố dạy chúng ta giáo lí đại cương. Đó là chuyện của chị, chắc chị còn nhớ chứ. Ha, ha, ha!

Bà cất tiếng cười cay đắng và ho sù sụ.

- A! Vậy ra chị chưa quên chuyện ông cha cố, - bà Varvara vừa nói vừa ném cho bạn một cái nhìn giận dữ. Khuôn mặt bà tái xanh. Đột nhiên bà Drozdova lấy lại vẻ trang nghiêm đàng hoàng.

- Nhưng không phải tôi đến đây để cười đâu, chị Varvara. Cái điều tôi muốn biết là tại sao chị nỡ để con gái tôi dính líu vào những chuyện lăng nhăng tai tiếng của chị? Tôi đến đây chính vì chuyện đó.

- Chuyện lăng nhăng tai tiếng nào?

Bà Varvara nói, nhỏm người dậy vẻ đe dọa. Liza đột nhiên can thiệp:

- Mẹ, con cũng xin mẹ ăn nói thận trọng một chút.

- Mày nói gì? - Bà Drozdova hét lên. Lẽ ra bà nói nhiều nữa, nhưng bà chợt dừng lại trước cái nhìn long lên sòng sọc của cô con gái. Liza đỏ mặt lên:

- Tại sao mẹ lại nói tới chuyện lăng nhăng vậy, mẹ? Con tự ý tới đây với sự cho phép của bà Julia Lembke vì con muốn tìm hiểu người đàn bà đau khổ này và tìm cách giúp cô ta.

- Để tìm hiểu chuyển người đàn bà đau khổ này, - bà Drozdova nhắc lại với một nụ cười nhạo báng, chua chát. - Thế con có nghĩ là thứ “chuyện” đó có xứng đáng để con can thiệp vào không?

Rồi bà giận dữ quay sang bà Varvara:

- Chúng tôi đã quá chán sự độc tài của chị rồi! Tôi không biết chuyện đó có đúng không, nhưng người ta quả quyết là chị đã xỏ mũi được cả thành phố, bắt mọi người làm theo ý chị. Được rồi, chắc bây giờ đã đễn lượt chị rồi đó!

Bà Varvara ngồi thẳng như một cây cung đã căng thẳng, sẵn sàng nhả ra một mũi tên. Bà nghiêm khắc nhìn bà Drozdova trong giây lát.

- Chị Praxcovia, chị nên cám ơn trời đi chị, rằng tất cả chúng ta ở đây đều là bạn. Chị đã thốt ra nhiều câu vô ích quá.

- Tôi không sợ dư luận của xã hội. Chính chị làm bộ kiêu ngạo, thế mà lúc nào người ta đả động đến chị là chị run lên. Nếu tất cả những người ở đây đều là bạn, không có người lạ thì phải nói là may mắn cho chị mới phải.

- Sao, chị đã trở nên thông minh hơn trong tuần qua rồi sao?

- Không phải là tôi đã trở nên thông minh hơn, mà vì sự thật càng ngày càng sáng tỏ.

- Sự thật nào? Xin chị hãy nghe tôi đây, chị Praxcovia, đừng chọc giận tôi, hãy giải thích cho tôi ngay, tôi hỏi chị một cách nghiêm chỉnh: chị muốn nói sự thật nào?

- Thì sự thật đó! Ngay trước mặt chị đó! - Bà Drozdova vừa la vừa chỉ chỉ Maria Lebiadkina với một vẻ cương quyết tuyệt vọng không sợ hậu quả gì xảy ra chỉ với một mục đích đả thương đối thủ

Maria, từ nãy đến giờ chăm chú quan sát bà Drozdova với vẻ tò mò thích thú, bây giờ phá lên cười khi thấy ngón tay bà khách giận dữ chỉ mình.

- Lạy Chúa tôi, tất cả mọi người đều điên hết cả rồi sao? - Bà Varvara kêu lên. Bà tái xanh phải dựa người vào ghế. Quả thực, bà trở nên tái xanh đến nỗi làm chúng tôi phát hoảng. Xtepan là người thứ nhất chạy lại phía bà, tôi cũng lại gần. Liza cũng nhỏm dậy nhưng lại ngồi xuống ngay. Nhưng người hoảng sợ nhất là bà Praxcovia Drozdov, bà thét lên, giậm chân và rên rỉ, giọng đầy nước mắt:

- Chị Varvara thân yêu, xin chị tha thứ cho sự ngu ngốc và độc ác của tôi. Ai cho chị ấy xin chút nước lạnh đi!

- Chị Praxcovia, tôi xin chị đừng rên rỉ nữa! Và xin các ông lui ra! Tôi không cần nước nôi gì hết, - bà Varvara nói khẽ nhưng cương quyết. Môi bà tái nhợt.

Bà Drozdova nói tiếp sau khi hơi bình tĩnh lại:

- Chị Varvara thân mến, tôi muốn nói - tôi biết tôi nói những lời bậy bạ như vậy là không phải, nhưng tôi muốn chị hiểu là tôi rất tức mình vì những lá thư nặc danh mà không biết những kẻ khốn nạn nào gửi cho tôi... Tại sao chúng lại không gửi cho chị khi chúng muốn nói về chị? Tại sao chúng lại gửi cho tôi khi tôi có một đứa con gái và có trách nhiệm về nó?

Bà Varvara Petrovna lẳng lặng nhìn bạn, mắt mở lớn ngạc nhiên. Ngay lúc đó, một cách cửa bên mở ra và Dasa hiện ra. Nàng đứng dừng lại và nhìn quanh; ngạc nhiên vì sự bối rối trên mặt chúng tôi. Có lẽ lúc đầu nàng không để ý thấy Maria, người ta không cho nàng biết cô này cũng tới. Ông Verkhovenxki là người thứ nhất trông thấy Dasa. Ông phác một cử chỉ, đỏ mặt và không biết vì lí do gì, lớn tiếng hô:

- Cô Dasa Satov tới!

Tất cả đều hướng về phía thiếu nữ. Maria Lebiadkin kinh ngạc kêu:

- Sao? Cô Dasa Satoy của quí vị đó à? À, anh Satov, cô em anh trông chẳng giống anh chút nào. Tôi không hiểu tại sao cái lão lẩm cẩm của tôi lại có thể gọi chị ấy là một cô gái nô lệ được.

Trong khi đó cô Dasa đã đi gần tới chỗ bà Varvara bỗng, ngạc nhiên vì tiếng kêu của Maria, nàng quay phắt lại, đứng sững và trân trối nhìn người thiếu nữ ngốc nghếch.

- Ngồi xuống, Dasa! - Bà Varvara nói bằng một thái độ bình tĩnh dễ sợ. - Đây, lại gần đây, được rồi. Ngồi xuống, cháu có thể nhìn người đàn bà này được rồi. Cháu có biết cô này không?

- Cháu chưa bao giờ gặp cô ta cả. - Dasa dịu dàng nói, đoạn thêm sau một lát yên lặng: - Có lẽ đây là người em bệnh hoạn của ông Lebiadkin.

Maria vui vẻ kêu lên:

- Tôi cũng vậy - đây là lần thứ nhất tôi gặp chị, mặc dầu tôi mong được gặp chị từ lâu, bởi vì mỗi cử chỉ của chị đều chứng tỏ là người có học thức đàng hoàng. Còn tất cả những gì tên đầy tớ của tôi rêu rao về chị, điều đó khó tin quá. Làm sao một người có học thức như chị lại có thể ăn tiền được? Vì tôi biết chị dễ thương và tốt, tôi tin chắc như vậy! - Nàng kết luận, thích thú khua tay.

Bà Varvara hỏi một cách kiêu kì:

- Cháu có hiểu tí gì không?

- Vâng, bây giờ cháu hiểu cả rồi...

- Tiền đó là tiền nào?

- Đó là tiền anh Nicolai yêu cầu cháu trao giùm cho anh của cô này là ông Lebiadkin, khi còn ở Thụy Sĩ.

Yên lặng giây lát. Rồi bà Varvara hỏi tiếp:

- Có phải chính cậu Nicolai nhờ cháu trao cho người đó không?

- Anh ấy lo lắng muốn chuyển cho ông Lebiadkin ba trăm rúp. Nhưng vì anh ấy không biết địa chỉ của ông Lebiadkin, mà chỉ biết ông đó sẽ tới đây nên mới nhờ cháu trao cho ông Lebiadkin khi ông ta tới tỉnh này.

- Nhưng số tiền đó ra sao? Có mất không? Những lời cô này vừa nói có nghĩa gì?

- Cháu không biết, cháu chỉ nghe nói ông Lebiadkin đi nói cùng khắp nơi là cháu không trao cho ông ta đủ số tiền, nhưng cháu không hiểu ông ấy nói gì. Người ta trao cho cháu ba trăm rúp và cháu đã chuyển cho ông ấy đủ ba trăm rúp.

Dasa có vẻ lấy lại bình tĩnh. Tôi phải nói là nàng không thuộc loại bối rối lâu, dù trong lòng nàng rối loạn thế nào mặc lòng. Nàng trả lời tất cả mọi câu hỏi một cách đĩnh đạc, không do dự rụt rè. Nàng nói bằng một giọng dịu dàng, bình tĩnh, không còn lại một chút dấu vết xúc động lúc ban đầu, không một chút lúng túng khiến người ta tưởng nàng có mặc cảm phạm tội trong tất cả chuyện này. Bà Varvara đăm đăm nhìn nàng trong suốt thời gian bà hỏi nàng; khi nàng nói xong, bà quay mặt đi chỗ khác, suy nghĩ trong giây lát. Rồi bà nói, bằng một giọng cương quyết, rõ ràng là nói với tất cả mọi người, mặc dầu cặp mắt bà vẫn chăm chăm nhìn Dasa:

- Nếu Nicolai nhờ cháu, chứ không nhờ một người nào khác, ngay cả dì, để làm việc đó thì hẳn nó phải có lí khi làm như vậy. Và vì người ta muốn giấu dì chuyện này, dì cảm thấy không có quyển tìm hiểu sâu xa hơn nữa. Tuy nhiên, sự kiện cháu dự vào việc này khiến dì hoàn toàn yên tâm. Dì muốn nói thêm cho cháu của dì hiểu rằng - dĩ nhiên, cháu hoàn toàn vô tội - cháu đã phạm phải một điều vô ý đáng tiếc là đã giao thiệp với những kẻ tính tình tầm thường. Những lời rêu rao của người đó chứng tỏ cháu lầm lỗi. Nhưng dì đã dọ hỏi con người đó và dì có thể quả quyết với cháu, vì dì có bổn phận phải bảo vệ cháu, và dì có thể bào chữa cho cháu. Và bây giờ, đã đến lúc phải kết thúc tất cả những chuyện đó.

Maria đột nhiên xen vào:

- Điều tốt nhất có thể làm khi hắn tới đây là cho hắn xuống nhà bếp. Để hắn đánh bài với những tên đầy tớ trong khi chúng ta ngồi đây uống cà phê. Dĩ nhiên, chúng ta có thể cho người mang xuống cho hắn một li nhưng tôi khinh bỉ hắn cùng cực.

Nàng nhấn mạnh sự khinh bỉ của nàng bằng một cái lắc đầu. Bà Varvara nói sau khi lặng lẽ nghe Maria dứt lời:

- Thôi, chuyện đó cũng cho qua luôn. Ông Xtepan, ông bấm giùm cái chuông.

Ông Xtepan bấm chuông, rồi đột nhiên, ông bước tới, cực kì xúc động, mặt đỏ tía tai, lắp bắp:

- Thật ghê tởm... đây là chuyện... ghê tởm nhất mà tôi nghe... đúng là một con người bỏ đi, có một vẻ gì như một kẻ vượt ngục...

- Ông chợt ngừng lại. Bà Varvara nheo mắt nhìn ông từ đầu đến chân. Tên hầu Alecxei, lúc nào cũng trang trọng, bước vào. Bà Varvara ra lệnh: Có xe ngựa tới rồi đó. Alecxei, đưa cô Lebiadkina về nhà. Cô sẽ chỉ đường cho bác.

- Thưa bà, ông Lebiadkin đã đợi cô ấy ở dưới nhà từ lúc nãy, ông bắt con lên báo cho bà mấy lần rồi.

Mavriki nói một cách lo ngại, từ nãy đến giờ anh ta vẫn yên lặng:

- Không thể được, dì Varvara! Có thể nói đó là một người chúng ta không thể giao tiếp được. Không thể được...

Bà Varvara nói với Alecxei:

- Bảo ông ta đợi ở dưới ấy.

Ông Verkhovenxki lại lẩm bẩm, mặt đỏ bừng bừng:

- Đó là một người bất hảo, có thể một tên tù vượt ngục nữa hay tương tự như vậy.

- Liza, về thôi! Bà Drozdova nói bằng một giọng ghê tởm. Bà đứng lên, sửa soạn ra về. Bà có vẻ hối hận vì đã tự gọi mình là một người điên khùng trong cơn xúc động vừa rồi. Trong khi lắng nghe Dasa nói, bà đã lấy lại được vẻ kiêu kì, ngạo mạn. Nhưng điều khiến tôi xúc động nhất từ khi Dasa tới là vẻ mặt của Liza: cặp mắt nàng lúc này bừng bừng một ánh lửa khinh bỉ và thù hận. Bà Varvara nói, với một vẻ bình tĩnh khác thường:

- Xin chị hãy chờ một chút đã, chị Praxcovia. Xin chị vui lòng ngồi xuống, bởi vì tôi muốn nói hết điều tôi phải nói, tôi biết chị đau chân lắm. Vì thế, tôi xin cám ơn chị. Hồi nãy, tôi hơi nóng, tôi có nói với chị một vài lời khiếm nhã. Xin chị bỏ qua cho. Tôi đã làm một việc điên rồ và bây giờ tôi là người đầu tiên nhận thấy điều đó vì tôi rất chuộng sự công bình trong tất cả mọi sự. Dĩ nhiên, khi chị nổi giận, chị có kể những bức thư nặc danh nào đó, nhưng bất cứ thư nặc danh nào cũng đáng khinh, chính vì đó là những bức thư không kí tên. Nếu chị cảm nghĩ khác, thì đó là chuyện của chị, tôi không cần biết. Trong bất cứ trường hợp nào, nếu tôi ở địa vị chị, không bao giờ tôi thèm để ý tới những chuyện bẩn thỉu đó, tôi không bôi nhọ tôi đâu. Chính chị bôi nhọ chị thì có. Nhưng chính vì chị đã khơi mào trước, tôi bắt buộc phải nói cho chị biết rằng sáu ngày trước đây, chính tôi cũng nhận được lá thư nặc danh khôi hài như vậy. Một tên hạ lưu nào đó đã viết rằng Nicolai đã điên và tôi phải cảnh giác một con mụ què nào đó, lá thư viết thế - tôi còn nhớ rõ - “sẽ đóng một vai trò quan trọng” trong đời tôi. Chị cũng biết con tôi có rất nhiều kẻ thù ở quanh đây; tôi cho gọi một người mà tôi biết là một kẻ thù ngấm ngầm của con tôi - có lẽ đó là kẻ đáng khinh bỉ và bẩn thỉu nhất - và sau khi nói chuyện với hắn, tôi biết rõ ai là tác giả của cái lá thư vô danh dơ dáy đó. Chị Praxcovia tội nghiệp, nếu vì tôi mà chị bị quấy rầy bởi những lá thư nặc danh đó, thì, dĩ nhiên, tôi rất lấy làm tiếc mình đã là cái nguyên nhân vô tội vạ gây ra những lá thư trên. Đó là điều tôi muốn giải thích với chị. Và bây giờ, tôi ân hận thấy chị quá mệt mỏi như vậy. Mặt khác, tôi nhất định cho vào người mà Mavriki nói rằng không thể giao tiếp được, nói thế cũng hơi quá. Nhất là Liza ở đây chẳng có việc gì làm cả. Lại đây, Liza, cho cô hôn một cái nữa nào.

Liza bước ngang qua phòng, lặng lẽ đứng trước mặt bà Varvara; bà hôn nàng, nắm hai bàn tay nàng, đẩy nàng ra xa một chút để nhìn cho rõ, xúc động ngắm nàng, đoạn làm dấu ban phước lành cho nàng rồi kéo nàng lại gần mà hôn nữa.

- Thôi, chào Liza (bà nói với nàng như nghẹn ngào). Cháu nên biết rằng bao giờ cô cũng quí cháu, dù định mệnh dành cho cháu một số phận thế nào... Cầu Chúa ban phước lành cho cháu! Cô bao giờ cũng vâng lĩnh ý Ngài...

Bà định nói nhiều nữa, nhưng tự kìm hãm. Liza trở về chỗ ngồi, vẫn lặng lẽ như chìm đắm trong mơ. Khi đến trước mặt mẹ, đột nhiên nàng đứng lại, nói với bà bằng một giọng dịu dàng nhưng sắt đá:

- Con chưa về bây giờ đâu. Con ở lại với cô Varvara một lát nữa.

- Chúa ơi! Lại còn chuyện gì nữa đây!

Bà Praxcovia rên rỉ, chắp tay lại trong một cử chỉ tuyệt vọng. Nhưng Liza không muốn trả lời; nàng còn không muốn nghe mẹ nói nữa. Nàng ngồi lại chỗ cũ và mắt lại nhìn đăm đăm vào khoảng không. Một vẻ kiêu hãnh và chiến thắng lóe lên trên mặt bà Varvara.

- Mavriki, anh làm ơn cho tôi nhờ một việc: phiền anh xuống dưới nhà, nhìn qua người đàn ông đó, nếu có thể nào cho hắn vào, xin đem hắn lên đây.

Mavriki cúi đầu và đi xuống. Một phút sau anh ta trở lại với Lebiadkin.

4

Tôi đã có lần tả dáng điệu của nhân vật này: một gã đàn ông bốn mươi, cao, nặng nề, tóc quăn, mặt đỏ và phì phị; má rung rung theo mỗi cử động của đầu; cặp mắt có tia máu mang một vẻ quỉ quyệt. Hắn để râu và ria mép; yết hầu lớn, trông rất khó coi. Nhưng, kì cục hơn nữa, hôm đó hắn còn mặc một chiếc áo choàng nhà binh và một chiếc áo cánh sạch sẽ. Điều đó khiến tôi nhớ tới một câu nhạo báng của Liputin để trả lời lại khi ông Xtepan trách đùa hắn ăn mặc cẩu thả: “Có nhiều người mặc một chiếc áo cánh cũng thấy bất xứng”. Ông đại úy còn đeo bao tay đen nữa - nghĩa là, hắn cầm chiếc bao ở tay mặt, trong khi bàn tay trái mập mạp, xỏ nửa chừng trong chiếc bao tay trái không cài nút. Trong cùng bàn tay đó, hắn cầm một chiếc mũ bóng loáng, tôi đoan chắc là hắn mới đội lần đầu. Vậy “người yêu áo choàng” mà viên đại úy đã nói ở cửa nhà Satov chiều qua có thực. Sau đó tôi được biết hắn mặc chiếc áo choàng và áo cánh đó theo lời khuyên của Liputin. Chắc chắn hắn cũng leo lên xe đến nhà bà Varvara (xe thuê) theo lời xúi bẩy và giúp đỡ của một người nào đó. Hắn không bao giờ có ý tưởng đó và cũng không thể kịp quyết định và sửa soạn trong bốn mươi lăm phút đồng hồ để sửa soạn, dù giả thử rằng hắn biết liền màn xảy ra dưới vòm cổng nhà thờ. Lúc này hắn không uống, nhưng ở trong trạng thái ngây dại đặc biệt của những người tỉnh rượu sau nhiều ngày say li bì. Chỉ cần chạm nhẹ vào vai hắn một hai cái là hắn lại rơi vào trạng thái say sưa ngay.

Hắn bước nhanh vào phòng gần như chạy, nhưng vấp ngay từ cửa, trên tấm thảm. Maria cười lăn cười bò. Hắn đưa mắt nhìn nàng dữ tợn, đoạn rảo bước vội tới chỗ bà Varvara. Hắn nói oang oang như chõ vào máy phóng thanh:

- Thưa bà, tôi đã tới!

Bà Varvara vừa nói vừa ngồi thẳng người lên:

- Xin mời ông ngồi xuống chiếc ghế kia, đó! Chắc chắn ông ngồi đấy tôi cũng có thể nghe ông nói và đồng thời nhìn ông rõ hơn.

Viên đại úy đứng dừng lại và nhìn về phía trước mặt bằng một cái nhìn xuẩn ngốc, rồi ngồi xuống chiếc ghế dựa bên cửa sổ bà Varvara đã chỉ. Khuôn mặt hắn pha lẫn hoang mang, kiêu căng và tức tối. Hiển nhiên hắn sợ và sự sợ hãi làm lòng tự ái bị thương tổn của hắn và do đó có thể đưa hắn tới chỗ ẩu đả dầu tính hắn hèn nhát. Hắn sợ không dám cử động vì ý thức được sự vụng về của mình. Người ta biết rằng nỗi đau lớn nhất của những con người thuộc loại này mà một sự tình cờ may mắn nào đó đã lọt được vào xã hội thượng lưu, là họ không biết giấu hai tay vào đâu và không ngừng nghĩ đến điều đó. Cuối cùng, hắn ngồi chết cứng trên ghế, tay khư khư chiếc mũ cùng đôi bao tay, và mắt dán chặt vào khuôn mặt nghiêm khắc của bà Varvara. Có thể hắn cũng muốn nhìn xem chung quanh hắn đang xảy ra chuyện gì, nhưng hắn không dám. Nhận thấy thái độ của viên đại úy quá đỗi khôi hài, Maria lại phá lên cười, nhưng hắn không động đậy. Trong khi đó bà Varvara soi mới nhìn hắn một cách tàn nhẫn cả phút. Cuối cùng bà chậm rãi nói bằng một giọng đầy ý nghĩa:

- Trước hết, tôi muốn chính ông cho tôi biết quí danh.

- Đại úy Lebiadkin. Tôi đã đến đây, thưa bà...

Hắn lúc lắc trên ghế. Bà Varvara ngắt lời:

- Khoan! Cô thiếu nữ đáng thương này là em gái ông thật hả?

- Vâng, thưa bà, nó là em gái tôi, nó đã trốn thoát khỏi sự canh chừng của tôi, vì nó đang ở trong một tình trạng... - Hắn ấp úng và chợt đỏ mặt: - Xin bà đừng hiểu lầm ý tôi... Một người anh không bao giờ bêu xấu em gáỉ của mình. Khi tôi kể tình trạng của em tôi, không bao giờ tôi có ý làm hại danh giá em tôi cả... Tôi chỉ muốn nói rằng ít lâu nay...

Hắn chợt dừng lại. Bà Varvara ngẩng đầu lên cao hơn nữa:

- Xin ông tiếp tục cho!

- Tôi muốn nói tình trạng này! Hắn kết luận bằng cách đập ngón tay trở lên trên trán. Im lặng trong giây lát.

- Cô ấy đau bao lâu rồi? - Bà Varvara chậm rãi hỏi.

- Thưa bà, tôi đến đây để cám ơn lòng tốt của bà đối với em tôi ở nhà thờ theo lối Nga, với tư cách huynh đệ...

- Với tư cách huynh đệ!

- Không, không phải với tư cách huynh đệ... nhưng với ý nghĩa tôi là anh của em gái tôi, thưa bà... - Hắn vội tiếp, mặt lại đỏ bừng lên. - Xin bà tin rằng tôi không đến nỗi vô giáo dục như bà thoạt nhìn tôi lần thứ nhất trong phòng khách của bà đâu. Em gái tôi và tôi, thưa bà, chúng tôi không là gì cả so với sự sang trọng trong đó bà sống và chúng tôi nhìn thấy đây. Nhưng, thưa bà, tôi là một tên Lebiadkin, tôi kiêu hãnh vì danh tiếng của tôi, bởi thế tôi đến đây để cám ơn bà và... và, thưa bà, đây là tiền!

Vừa nói hắn vừa móc túi lấy ví ra, lôi ra một sấp tiền và bắt đầu đếm. Những ngón tay hắn run. Người ta thấy rõ là hắn muốn giải thích cấp tốc một điều gì đó và quả thực sự giải thích vô cùng cấp thiết. Cuối cùng, cảm thấy đếm tiền như thế khiến mình trông có vẻ lố bịch, hắn mất tự chủ, những đồng tiền dính chặt vào nhau, những ngón tay của hắn không tuân theo hắn nữa, và để cho sự nhục nhã lên đến cùng cực, một tờ giấy ba rúp mầu xanh rót ra khỏi ví và từ từ rơi xuống tấm thảm.

- Thưa bà, đây là hai mươi rúp!

Hắn vừa kêu vừa đứng phắt dậy, tay cầm tiền, mặt nhễ nhại mồ hôi. Rồi nhìn thấy tờ giấy bạc trên sàn nhà, hắn cúi xuống lượm lên, nhưng nhận thấy làm vậy là thiếu tư cách, hắn nhún vai nói bằng một giọng khinh bỉ:

- Thưa bà, để cho đầy tớ của bà, cho người hầu nào lượm để hắn nhớ em gái tôi!

Bà Varvara nói nhanh:

- Tôi không cho phép làm thế.

- Trong trường hợp đó...

Hắn cúi xuống lượm tờ giấy bạc lên, mặt đỏ như gấc. Rồi hắn tiến tới chỗ bà Varvara và đưa cho bà số tiền hắn vừa đếm.

- Cái gì đây?

Bà hỏi, lần này rất sợ hãi, co rúm vào ghế bành. Ông Xtepan Mavriki và tôi chạy tới chỗ bà. Đại úy Lebiadkin vội trấn an mọi người:

- Đừng sợ, đừng sợ... tôi không điên đâu. Tôi thề là tôi không điên!

- Có, thưa ông, tôi nghĩ có lẽ ông điên mất rồi!

- Nhưng thưa bà, tôi không phải như bà nghĩ! Dĩ nhiên, tôi chỉ là một con giun cái kiến vô nghĩa... Ôi! Thưa bà, bà sống trong lâu đài trang hoàng sang trọng, còn em gái tôi, Maria Lebiadkina kẻ vô danh thì nghèo nàn và khôn khổ. Chúng ta gọi nó là kẻ vô danh trong lúc này thôi, vì chính Thượng đế không chấp nhận cho nó mãi mãi như vậy! Bà cho nó mười rúp, thưa bà, và nó đã nhận, nó đã nhận chỉ vì đó là tiền của bà, thưa bà, và tôi hi vọng bà nhận thấy điều đó! Maria, kẻ vô danh không nhận tiền của bất cứ người nào khác, vì điều đó có thể khiến ông nội nó nhục nhã nằm không yên trong mộ, ông là sĩ quan tham mưu tử thương trên chiến trường Cavcaz ngay trước mắt đại tướng Ermolov43. Nhưng nó có thể nhận của bà tất cả. Tuy nhiên, mỗi khi tay này nó lấy mười rúp thì tay kia nó sẽ trả lại bà hai mươi rúp, bằng cách cúng vào hội từ thiện của quí bà ở Moskva mà bà là một hội viên... Tôi có đọc báo thấy chính bà có đăng trên tờ Tin tức Moskva là bà giữ sổ quyên tiền địa phương, bất cứ ai cũng có thể đóng góp.

Viên đại úy ngừng lại. Hắn thở hổn hển như vừa làm xong một kì công. Tất cả những điều nói tào lao về ủy ban từ thiện có lẽ được sửa soạn trước, cũng có thể do sự tập dượt của Liputin nữa. Hắn thở không ra hơi và mồ hôi chảy ròng ròng từ hai bên thái dương. Bà Varvara chăm chú nhìn hắn.

Bà nói một cách khô khan:

- Sổ quyên lúc nào cũng để ở dưới nhà, nơi người gác cổng. Ông có thể tới đó ghi tên nếu ông muốn. Vậy tôi yêu cầu ông xếp tiền lại và đừng chìa ra trước mặt tôi như thế nữa. Xin ông trở lại chỗ ngồi. Như vậy đó. Thưa ông, tôi rất lấy làm tiếc đã nhầm lẫn về cô em gái ông và cho cô tiền bố thí trong khi cô giầu như vậy. Có một điều tôi không hiểu: tại sao cô ấy không nhận tiền của ai trừ tôi là làm sao? Vì ông đã nhấn mạnh nhiều lần điều đó, vậy xin ông vui lòng giải thích cho tôi rõ ràng.

Viên đại úy đáp:

- Thưa bà, đó là một điều bí ẩn mà tôi sống để dạ chết đem theo.

- Sao vậy? - Bà Varvara hỏi, lần này tỏ ra bỡt cương quyết hơn.

- Thưa bà, thưa bà!...

Hắn ngừng nói, về mặt ủ dột, cúi đầu và đặt tay phải lên ngực. Bà Varvara chờ đợi, mắt không rời hắn.

Thưa bà! Xin phép bà cho tôi hỏi một câu, một câu thôi, nhưng hỏi một cách cởi mở, thẳng thắn, theo kiểu Nga, phát xuất tự đáy lòng.

- Xin ông cứ hỏi.

- Thưa bà, bà đã từng đau khổ trong cuộc đời chưa?

- Có phải ông muốn nói với tôi rằng ông đã từng đau khổ, và còn tiếp tục đau khổ nữa, vì lỗi lầm của một người nào đó phải không?

Hắn lại đứng lên, có lẽ không ý thức được việc làm của mình, và lấy tay đấm ngực:

- Thưa bà! Thưa bà! Ở đây, nơi đây đã chất chứa biết bao nhiêu điều cay đắng mà ngay cả Thượng đế cũng phải kinh ngạc khi tất cả được phát lộ vào Ngày Phán Xét Cuối Cùng!

- Hừm! Ông nói hơi quá.

- Thưa bà, có lẽ lời nói của tôi có vẻ hơi giận dữ quá...

- Không sao, ông đừng quan tâm, tôi sẽ biết khi nào phải ngăn ông lại.

- Thưa bà, tôi có thể hỏi bà một câu nữa không?

- Ông hỏi đi.

- Người ta có thể chết vì có một tâm hồn quá cao thượng không?

- Tôi không rõ, tôi chưa hề tự đặt cho mình câu hỏi đó bao giờ.

- Bà không biết, bà chưa hề tự đặt cho mình câu hỏi đó bao giờ! - Hắn la lên bằng một giọng bi thảm hài hước. - Thôi được, nếu quả như thế.

Hãy nín đi, hỡi tâm hồn vô vọng!

Và hắn lại đấm ngực dữ dội. Hắn bắt đầu đi đi lại lại trong phòng. Một đặc tính chung của những người thuộc loại này là họ hoàn toàn không thể che giấu được những ước vọng của họ; trái lại, họ cảm thấy cần phải bầy tỏ tất cả trong tất cả sự xấu xa của nó ngay vừa lúc chúng phát khởi nơi họ. Trong xã hội thượng lưu, gồm những con người lịch sự, một con người như thế này luôn luôn bắt đầu một cách nhút nhát, nhưng nếu bạn nhường họ đằng chân họ lân đằng đầu, tỏ ra xấc xược hỗn láo ngay. Bây giờ Lebiadkin đang xúc động mạnh. Hắn đi tới đi lui trong căn phòng, vung tay, chẳng quan tâm gì đến những câu hỏi mọi người đặt ra, lẩm bẩm một mình cực nhanh đến nỗi dường như hắn líu cả lưỡi lại và bỏ dở câu đang nói, bắt qua một câu khác. Đúng là có lẽ hắn chưa hoàn toàn tỉnh rượu, vì mặc dầu hết sức mê mết nàng Liza mà từ đầu đến cuối hắn không nhìn ngó đến nàng, tuy rằng ngồi ngay cạnh đó. Nhưng có thể, đó chỉ là sự giả thiết của tôi thôi. Tuy nhiên, dù hắn có say hay không, bà Varvara cũng rất có lý khi ghê tởm một con người như vậy và lắng tai nghe hắn. Còn về phần bà Drozdova, bà run lên vì sợ hãi, mặc dầu tôi không tin là bà hiểu mặt trái của tất cả điều đó. Ông Xtepan cũng phát run lên, nhưng vì một lí do hoàn toàn trái hẳn: theo lệ thường, ông có khuynh hướng đi sâu vào hoàn cảnh hơn thực tại của nó. Mavriki thì đứng trong tư thế của một người sẵn sàng chạy tới bảo vệ bất cứ ai cần bảo vệ. Liza tái xanh tái ngắt, mở to mắt nhìn con người man rợ. Nhưng nơi Maria có một sự thạy đổi lạ lùng nhất: không những nàng thôi không cười nữa, mà lúc này trông nàng vô cùng buồn thảm. Nàng tì tay phải lên bàn và theo dõi người anh đang thao thao bất tuyệt bằng cặp mắt buồn rầu. Chỉ có một mình Dasa là có vẻ bình tĩnh. Satov ngồi yên.

Cuối cùng bà Varvara nói, ngắt lời hắn một cách giận dữ:

- Hãy chấm dứt những ẩn dụ ngốc nghếch đó đi! Ông vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi. Tại sao? Tôi đang chờ ông trả lời đây.

Lebiadkin nheo mắt:

Tôi chưa trả lời câu hỏi “tại sao” của bà? Bà đang chờ tôi trả lời câu hỏi “tại sao” của bà? Nhưng thưa bà, câu hỏi ngắn ngủi “tại sao” đã tràn lan trong tất cả vũ trụ từ ngày sáng thế lận; thiên nhiên không ngừng kêu lên hỏi Tạo hóa từng giờ từng phút: “Tại sao? “ và vẫn chưa nhận được câu trả lời từ bẩy ngàn năm qua. Một mình đại úy Lebiadkin có thể trả lời câu hỏi đó cho tất cả thế giới? Thưa bà, như thế có công bình không ạ?

Bà Varvara bắt đầu mất kiên nhẫn:

- Tất cả những điều đó vô nghĩa và không ăn nhập gì với câu hỏi của tôi cả. Đó là những lời ẩn dụ, bóng gió. Hơn nữa, ông tự cho phép ông dùng một thứ ngôn ngữ quá hoa hòe hoa sói, điều mà tôi coi là hỗn xược.

Lebiadkin nói tiếp, không quan tâm tới là bà vừa nói:

- Thưa bà, tôi chẳng hạn: tôi muốn đặt tên tôi là Ernext, nhưng trong đời sống thực tế, tôi phải bằng lòng với cái tên tầm thường Ignat. Có thể tôi muốn làm hoàng tử Monbar, nhưng tôi chỉ là Lebiadkin, do chữ Lebiad - con thiên nga - mà ra. Tại sao vậy? Thưa bà, theo ý tôi nước Nga chỉ là một vố chơi khăm của thiên nhiên!

- Đó có phải là điều đặc biệt nhất mà ông nói không?

- Ồ không, tôi sẽ xin đọc hầu bà một bài thơ nhan đề là Con gián.

- Cái gì vậy?

- Thưa bà, tôi chưa điên đâu. Tôi sẽ điên, chắc chắn tôi sẽ điên, nhưng bây giờ thì chưa. Thưa bà, một người bạn tôi, một người rất danh giá, đã viết một truyện ngụ ngôn của Crưlov, tựa đề là Con gián, bà có cho phép tôi đọc không?

- Ông muốn đọc một truyện ngụ ngôn của Crưlov ư?

- Không, không phải của Crưlov, nhưng mà là một truyện ngụ ngôn của tôi, do chính tôi làm ra. Thưa bà, tôi nói không có ý xúc phạm bà, chứ tôi không đến nỗi vô học và hư hỏng đến độ không biết rằng nước Nga có một nhà viết ngụ ngôn vĩ đại là Crưlov, mà ông Bộ trưởng bộ Quốc gia Giáo dục đã cho xây ngôi đền kỉ niệm trong công viên mùa hè để trẻ em vui chơi quanh đấy. Thưa bà, bà hỏi tôi “tại sao”. Câu trả lời có ghi trong ngụ ngôn, bằng những chữ rực lửa.

- Ông đọc bài ngụ ngôn của ông đi!

- Dạ thưa bà, đây:

Một con gián sống bình yên,

Con gián khôn ngoan sống đời thần tiên

Một hôm bỗng rơi vào trong chiếc lọ

Khủng khiếp thay đựng đầy ruồi bọ...

Bà Varvara kêu lên:

- Chúa ơi! Thế nghĩa là làm sao?

- Câu thơ đó muốn nói mùa hè, rất nhiều ruồi bị rơi vào trong một chiếc chai...

Viên đại úy vội giải thích, xua tay một cách bực bội với sự bất nhẫn của một tác giả bị ngắt lời giữa lúc đang cao hứng nhất.

-... chúng sắp chết hết, một người ngu nhất cũng thấy như thế. Bà đừng ngắt lời, bà đừng ngắt lời tôi nữa, bà sẽ thấy... (hắn lại xua tay). Thế rồi:

Con gián chẳng choán chỗ là bao,

Nhưng những con ruồi làm cao:

- Nó đè bẹp chúng con, chúng kêu,

Ôi Jupiter44! Biết làm sao?

Chúng giận dữ kêu gào ơi ới,

Bỗng hiền triết Nikifor đi tới...

Tới đây, tôi phải ngừng lại, nhưng không sao, tôi sẽ kể câu chuyện. Thế rồi Nikifor cầm cái chai lên và mặc dầu những lời phản đối của lũ ruồi, ông hất toẹt tất cả xuống máng - ruồi và gián, tất cả - điều đáng lẽ phải làm từ lâu. Nhưng xin bà lưu ý, là con gián không hề ta thán. Đó là câu trả lời cho câu hỏi “tại sao?” của bà... Con gián không hề ta thán! Còn về Nikifor, ông ta tượng trưng cho thiên nhiên.

Hắn vội nói thêm và đi lại trong phòng bằng một vẻ rất tự mãn. Bà Varvara nổi sung:

- Thế còn số tiền? Xin phép ông cho tôi được hỏi, số tiền hình như đã nhận được do Nicolai Xtavroghin gửi và dường như ông tuyên bố rằng một người trong nhà tôi trao cho ông thiếu?

- Vu cáo!- Viên đại úy vừa la to vừa giơ tay lên trong một cử chỉ bi thảm.

- Không, đó không phải là một sự vu cáo.

- Thưa bà, đôi khi người ta bị đặt vào trong những hoàn cảnh bắt buộc người ta thà chịu đựng những điều nhục nhã của gia đình mình, hơn là lớn tiếng nói lên sự thực. Lebiadkin không bao giờ nói thêm một câu nào nữa đâu, thưa bà.

Hắn dường như bị lóa mất. Hắn như đang trong cơn xuất thần. Hắn cảm thấy mình quan trọng. Hắn muốn sỉ nhục một người nào đó, hay phạm một hành động du côn hạ cấp nào đó, để chứng tỏ sức mạnh của hắn. Bà Varvara nói:

- Ông Xtepan, ông làm ơn gọi chuông giùm tôi.

Viên đại uy nheo mắt với một nụ cười đểu cáng:

- Lebiadkin là một tên quỉ quyệt. Hắn quỉ quyệt lắm, nhưng hắn cũng có chỗ yếu đuối, hắn cũng có đam mê, và sự yếu đuối đó là chai rượu của bọn khinh kị binh mà Denis Davưdov45 đã ca ngợi. Và rồi, hắn đầu hàng tật mê rượu của hắn, hắn làm thơ gửi đi - một bài thơ hay, thực vậy nhưng sau đó hắn muốn mua lại bằng nước mắt cả một đời, bởi vì nó đã làm hư cảm thức cao nhã tuyệt vời của hắn. Nhưng con chim đã bay đi, không thể nắm đuôi níu lại. Trong trường hợp đó, Lebiadkin có thể lỡ nói về một thiếu nữ danh giá, trong khi bất bình về những điều sỉ nhục hắn đã phải chịu đựng; và bọn vu cáo đã thừa cơ lợi dụng. Nhưng thưa bà, Lebiadkin là một đứa xảo trá, và con chó sói tàn ác nhất tha hồ mà chuốc rượu cho hắn, chỉ mất thời giờ uổng công mà thôi vì Lebiadkin sẽ không, bao giờ nói. Dù có chuốc bao nhiêu rượu, con chó sói cũng chỉ tìm thấy sự quỉ quyệt của Lebiadkin, thay vì bị mật nó đã mất bao công chờ đợi. Nhưng thôi đủ rồi! Đủ rồi! Thưa bà, ngôi nhà lộng lẫy của bà có thể thuộc về một người cao quí nhất, nhưng con gián không ta thán. Xin bà lưu ý điều đó, lưu ý kĩ cho! Nó không ta thán. Tôi muốn nhấn mạnh điểm này, và xin bà ghi nhận tâm hồn cao cả của nó.

Vừa lúc đó, người ta nghe thấy một hồi chuông reo ở dưới nhà, và gần như ngay sau đó chúng tôi mới thấy Alecxei đi vào, đáp lại tiếng chuông cửa ông Xtepan. Người bõ già trang nghiêm có vẻ hơi bối rối.

- Cậu Nicolai đã đến!

Lão thông báo để trả lời cái nhìn dò hỏi của bà Varvara.

Tôi còn nhớ khuôn mặt bà lúc đó: mới đầu bà tái xanh, nhưng sau đó cặp mắt bà bừng bừng. Rồi bà ngồi thẳng trên ghế bành, vẻ cương quyết. Quả thực, tất cả mọi người đều kinh ngạc. Cuộc thăm viếng dột ngột của Nicolai, mà chúng tôi chờ đợi trong vòng một tháng, khiến chúng tôi ngạc nhiên, không những vì sự bất chợt, mà còn vì sự trùng hợp của nó ngay giây phút này, như có tính cách định mệnh. Chính viên đại úy cũng đứng chết trân ở giữa phòng, miệng há hốc, nhìn trân trối cánh cửa.

Ngay lúc đó, trong phòng bên cạnh vang lên tiếng chân bước nhanh: một người nào đó vội vàng chạy tới. Có người lao vội vào phòng, nhưng không phải là Nicolai mà là một người hoàn toàn lạ mặt.

5

Tôi phải ngừng lại ở đây một chút để tả qua vài nét về nhân vật hiện ra đột ngột này.

Đó là một thanh niên khoảng độ hai mươi bảy tuổi, cao hơn mức trung bình một chút, tóc vàng hơi thưa nhưng khá dài, râu ria xanh xanh. Hắn ăn mặc nhã nhặn, hợp thời trang nữa, nhưng không làm dáng. Mới thoạt nhìn, hắn có vẻ hợi vụng về và hơi gù, nhưng hắn không gù chút nào và thực ra cử chỉ rất khinh khoái. Người ta có thể coi hắn là một người lập dị, tuy nhiên sau đó người ta thấy hắn lịch thiệp và ăn nói một cách khôn ngoan, hợp lí.

Người ta không thể nói hắn xấu, nhưng không ai ưa khuôn mặt hắn cả. Đầu hắn dài thượt phía sau, và hai má dẹp lép khiến khuôn mặt hắn thành ra nhọn hoắt. Trán hắn cao và hẹp, những nét khác nhỏ nhắn, thanh tú; mũi nhọn, đôi môi dài và mỏng. Khuôn mặt hắn thoáng nét đau đớn do những vết nhăn sâu trên má và trên lưỡng quyền gây ra. Trông hắn có vẻ đau ốm hay đang dưỡng bệnh, tuy hắn khỏè mạnh và quả thực chưa hề đau ốm bao giờ.

Dáng đi, cử chỉ của hắn bao giờ cũng hấp tấp, mặc dầu khi hắn không có gì phải vội vã. Dường như không có gì làm hắn bối rối cả; và hắn bao giờ cũng như bao giờ, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Hắn rất tự mãn nhưng không ý thức điều đó.

Hắn nói cũng nhanh và hấp tấp, nhưng nói một cách tự tin và không phải lựa lời tìm chữ bao giờ cả. Tư tưởng hắn hình thành một cách bình lặng, mặc dầu sự phát biểu vội vàng, và có một cái gì chính xác và tối hậu rất trội bật. Hắn nói một cách vô cùng rõ ràng, những lời nói rơi xuống như những hạt đều nhau, bao giờ cũng lựa chọn kĩ càng và sửa soạn trước cho tất cả mọi trường hợp. Thoạt tiên điều đó gây hậu quả thích thú, nhưng sau một hồi người ta bắt đầu cảm thấy khó chịu sự phát âm quá hoàn hảo và trôi chay của hắn. Người ta tin rằng chiếc lưỡi của hắn phải có một hình thể đặc biệt, một chiếc lưỡi rất dài và mỏng, đỏ chót và thực nhọn, luôn luôn uốn éo.

Đó là người thanh niên lao vào phòng khách như một trái bom. Cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn còn có cảm tưởng rằng hắn đã bắt đầu nói ngay từ phòng bên cạnh và bước vào phòng giữa câu nói. Vụt một cái hắn dứng ngay trước mặt bà Varvara và mở máy nói liền:

-... nghĩ xem bác Varvara, khi cháu tới đây cháu cảm thấy chắc chắn là anh ta phải có mặt tại đây ít nhất là mười lăm phút rồi, vì anh đã đến thành phố này từ một tiếng rưỡi đồng hồ. Chúng cháu gặp nhau tại nhà Kirillov. Nửa giờ trước anh ta đi tới đây, yêu cầu cháu mười lăm phút sau đi theo anh...

Bà Varvara hỏi:

- Nhưng ai mới được chứ? Ai yêu cầu cậu tới đây?

- Nicolai chứ ai! Chẳng lẽ đến giờ phút này bác vẫn chưa biết anh ấy đã trở về? Chắc chắn là hành lý của anh đã gửi về đấy từ lâu và cháu không hiểu tại sao họ không báo cho bác biết trước. Vậy chẳng hóa ra cháu là người đầu tiên báo tin cho bác à? Dĩ nhiên là ta có thể sai người đi kiếm anh, nhưng có lẽ anh sẽ tới đây bây giờ, căn sao cho sự xuất hiện của anh ăn khớp với một số mong đợi, và nếu cháu không lầm, với một số dự tính chiến lược.

Nói tới đó, hắn liếc quanh phòng, đặc biệt chú ý tới đại úy Lebiadkin.

- A, cô Liza!

Hắn reo lên khi nhìn thấy Liza, nhảy bổ tới nắm lấy bàn tay nàng chìa ra, và nói với một nụ cười thích thú:

- Tôi rất vui mừng được gặp cô ngay khi tôi trở về, và nếu tôi không lầm thì bà Drozdova cũng không quên người mà bà gọi là “giáo sư” và không hay nổi giận với ông ta như hồi còn ở Thụy Sĩ. Nhưng xin bà cho biết, bà Drozdova, hiện chân bà lúc này ra sao? Nhưng ông bác sĩ Thụy Sĩ có lí khi cho rằng khí hậu quê nhà tốt cho sức khỏe của bà không? Tôi xin lỗi bà.. Bà phải chườm hả? Chắc dễ chịu lắm.

Hắn quay sang bà chủ nhà:

- Cháu rất tiếc không gặp bác ở nước ngoài, và bày tỏ lòng kính trọng của cháu đối với bác, bác Varvara, nhất là cháu có biết bao nhiêu điều để nói với bác. Cháu có viết cho “ông già” của cháu, nhưng cháu tin rằng, theo thói quen của ông...

- Piot’r!

Ông Xtepan bật kêu lên khi vừa hết kinh ngạc. Ông giơ tay lên và lao lại phía con trai:

- Piot’r, con tôi! Thế mà tôi không nhận ra!

Ông ôm ghì con trong tay, nước mắt giàn giụa.

- Đừng làm thế, đừng kệch cỡm thế, đủ rồi, đủ rồi... Piot’r vừa ấp ủng nói vừa cố gỡ ra khỏi vòng tay cha.

- Bao giờ, ba cũng có lỗi với con!

- Được rồi, chúng ta sẽ nói chuyện đó sau. Tôi biết là ba bầy vẽ nhiều chuyện. Thôi, xin ba giữ gìn một chút nào.

- Con hãy thử nghĩ, mười năm rồi ba không được gặp con.

- Như thế lại càng có lí để đừng tỏ ra xúc động quá.

- Con ơi!

- Vâng, ba yêu tôi, tôi biết... nhưng kìa, ba thu tay về đi chứ. Ba làm những người khác bối rối lây. A, kìa Nicolai... xin ba bình tĩnh lại....

Nicolai lúc này đã có mặt trong phòng: anh ta lặng lẽ đến, ngừng lại một lúc trên ngưỡng cửa, yên lặng nhìn tất cả mọi người.

Tôi xúc động vì sự xuất hiện của anh ta, cũng như tôi nhìn thấy anh ta bốn năm trước đây. Chắc chắn là tôi không quên anh ta một mảy may; nhưng có những khuôn mặt mỗi lần gặp lại, lại phát lộ những điều mới mẻ, dù ta đã gặp cả trăm lần. Anh ta vẫn thanh nhã và nghiêm trang như bốn năm trước, và gần như vẫn trẻ trung như thế. Nụ cười nhẹ nhàng của anh ta vẫn tỏa ra một vẻ dễ thương và tự tin như cũ, và cặp mắt anh ta vẫn nghiêm khắc, suy tư, và hơi lơ đãng. Quả thực, theo một nghĩa nào đó, tôi cảm tưởng tôi vừa từ biệt anh ta mới hôm qua đây thôi. Tuy nhiên, tôi nhận thấy có một sự thay đổi rõ rệt: trước kia người ta thấy anh ta đẹp trai, nhưng quả thực khuôn mặt anh ta “giống như một cái mặt nạ”, như một vài ba miệng lưỡi độc địa nói. Nhưng bây giờ, trái lại, anh ta đẹp với một về đẹp hoàn toàn, không thể chối cãi được. Bây giờ chắc không ai có thể nói khuôn mặt anh ta giống như một chiếc mặt nạ được nữa. Tôi không thể nói hoặc vì anh ta xanh xao hơn và gầy ốm hơn hoặc vì một vài tư tưởng mới phản chiếu trong mắt anh ta.

- Nicolai! - Bà Varvara kêu lên, vẫn ngồi yên trên ghế. - Đứng đó một chút! - Bà giơ tay cản anh bằng một cử chỉ oai nghiêm.

Nhưng bây giờ, để giải thích câu hỏi ghê gớm tiếp theo cái cử chỉ đó - cử chỉ mà tôi nghĩ bà Varvara không bao giờ có thể làm - tôi phải nhắc bạn đọc tâm tính thường nhật của bà này, và biến thái đột ngột trong một vài trường hợp gay cấn như thế nào. Người ta cũng phải lưu ý sự kiện là: mặc dầu ý chí mạnh mẽ, khả năng suy luận hoàn hảo, tính thực tế và nhanh trí, cũng có nhiều lúc bà thường hành động một cách cẩu thả, buông lung không biết kìm hãm lại. Người ta cũng phải nhớ là cái giây phút mà tôi đang tả đây có thể là một trong những giây phút nghiêm trọng, như một thấu kính trong đó hội tụ tất cả dĩ vãng, hiện tại, và có lẽ cả tương lai của đời bà. Tôi cũng cần phải nhắc qua lá thư nặc danh mà bà vừa đề cập với bà Drozdova, hiển nhiên nó khiến bà giận dữ không ít. Bà không nói rõ nội dung bức thư, nhưng có thể nó chứa đựng lí do khiến bà hỏi con trai câu hỏi khủng khiếp:

- Nicolai, nói thực cho mẹ biết, có phải người đàn bà đáng thương, thọt chân - người đàn bà này, con hãy nhìn kĩ, - có phải là vợ chính thức của con không? Con hãy trả lời mẹ ngay, trước khi rời khỏi chỗ con đang đứng. - Bà dằn từng chữ với một giọng đầy thách thức, đe dọa.

Tôi nhớ rất rõ giây phút đó. Nicolai không cau mày, đăm đăm nhìn mẹ. Khuôn mặt anh không một thoáng thay đổi. Cuối cùng, anh khoan thai nở một nụ cười bao dung và, lẳng lặng không trả lời, anh bước tới ghế mẹ ngồi, cầm lấy tay bà, nâng lên môi hôn. Bà không dám rụt tay lại vì anh vẫn có uy thế lạ lùng đối với bà như bao giờ; bà chỉ thắc mắc ngó con. Cả con người bà biến thành một câu hỏi; nhưng thái độ của bà cho thấy: nếu sự mập mờ này kéo dài thêm một phút nữa thì bà sẽ quị xuống không chịu đựng nổi.

Nhưng Nicolai vẫn im lặng. Sau khi hôn tay mẹ xong anh đưa mắt nhìn quanh phòng một lần nữa, rồi chậm rãi đi về phía Maria. Thật vô cùng khó khăn khi tả khuôn mặt người ta trong một vài cảnh ngộ nào đó. Chẳng hạn, tôi nhớ rõ Maria lúc ấy, sợ hãi muốn chết