PHẦN THỨ HAI Chương I ĐÊM TỐI-1
Tám ngày trôi qua. Giờ đây, lúc này ngồi viết lại, mọi chuyện đã xong xuôi và khá sáng tỏ. Nhưng, vào hồi đó, chúng tôi không biết gì cả, và nếu có quá nhiều sự là dị thường cũng không có gì ngạc nhiên. Lúc đầu tôi và ông Verkhovenxki giữ kín câu chuyện đứng xa quan sát với một sự âu lo. Tuy nhiên, thỉnh thoảng tôi vẫn đi chỗ nọ chỗ kia và chia sẻ cho ông những gì nghe được. Tôi tin rằng nhờ đó mà ông cũng còn muốn sống.
Không cần phải nói, đủ loại tin đồn quái đản đã tung ra khắp thành phố, nào cái tát vào mặt Xtavroghin, nào chuyện Liza ngất đi, và về các chuyện khác xảy ra trong ngày chủ nhật đáng kể đó. Tuy nhiên, cũng lạ là tại sao ai cũng biết chuyện nhanh như vậy. Kẻ nào đã tiết lộ? Không người nào hiện diện ngày hôm đó có lợi lộc gì trong việc tiết lộ những gì đã xảy ra. Lúc đó cũng không có mặt những người làm. Chỉ còn Lebiadkin là có thể đã mau miệng, nhưng nếu đúng thì cũng vì không giữ mồm giữ miệng chứ không phải vì ác ý, bởi lẽ hôm đó hắn đã bỏ đi vì quá sợ hãi (và nỗi sợ đánh át sự thù hận đi). Nhưng Lebiadkin và em gái ngày hôm sau đã bỏ nhà Filippov dọn đi mất. Chắc chắn hắn đã phải dọn đi một cách vội vã, bởi vì không ai biết họ đi dâu, như thể họ biến mất rồi cũng nên. Tôi định hỏi Satov xem Maria Lebiadkina ở đâu, nhưng anh ta cũng khóa cửa ở lì trong phòng suốt tám ngày, bỏ cả những công việc lặt vặt trong thành phố, không hề ra ngoài. Anh ta không cho tôi vào, hôm thứ ba tôi tới gõ cửa nhưng anh ta không trả lời. Qua nhiều dấu hiệu, tôi tin chắc anh ta có nhà, vì vậy tôi gõ cửa lần nữa. Rồi tôi nghe có tiếng như anh ta nhảy từ trên giường xuống. Anh ta đi ra cửa và kêu lớn: “Satov không có nhà.” Tới nước đó tôi bỏ đi.
Ông Verkhovenxki và tôi, nhờ người nọ gợi ý khuyến khích người kia, cuối cùng đi tới kết luận là kẻ tung tin chỉ có thể là con ông, dù hơi miễn cưỡng phải chấp nhận một giả thuyết như vậy. Trong một cuộc nói chuyện với cha không bao lâu sau, Piot’r xưng xưng quả quyết rằng anh nghe người ta bàn tán câu chuyện khắp thành phố, nhất là ở hội quán, và mọi chi tiết của câu chuyện đã tới tai vị tổng đốc và bà vợ. Ngay chiều hôm sau, tức thứ hai, tôi gặp Liputin và phát giác rằng hắn đã biết tất cả với đủ mọi tình tiết. Điều đó thật đáng chú ý, có lẽ hắn là người đầu tiên được nghe kể.
Nhiều bà, trong số đó có cả những bà tai mắt, tỏ ra rất hiếu kì về “cô gái quê bí ẩn”, lời họ khi đề cập tới Maria Lebiadkina. Nhiều bà còn ao ước muốn gặp Maria, điều đó cho thấy kẻ nào ở đằng sau vụ anh em Lebiadkin mất tích quả thật thức thời. Nhưng chuyện Liza bất tỉnh mới là đề tài được bàn tán nhiều nhất, cả cái xã hội thượng lưu chú ý đặc biệt đến chuyện đó, dù chỉ vì nó phần nào liên quan tới Julia Mikhailovna, vị tổng đốc phu nhân, người có họ hàng với Liza và cũng là người đỡ đầu cho Liza. Chuyện gì mà họ chẳng nói! Sự bí ẩn chung quanh toàn thể câu chuyện và iệc cả hai gia đình Drozdov và Xtavroghin đều đóng cửa không tiếp khách càng làm tăng sự tọc mạch. Có tin đồn đại Liza bị sốt nóng nằm liệt giường. Nicolai Xtavroghin cũng bị gán cho một điều tương tự, với vài chi tiết thêm thắt khó chịu, như răng bị gẫy, má sưng lên v.v... Lại còn có những lời thầm thì trong góc tối rằng sắp sửa có một vụ giết người; rằng Nicolai Xtavroghin không phải là một người chịu đựng được một sự sỉ nhục như vậy; rằng anh ta sẽ phải giết Satov nhưng hiện còn đang âm mưu để thực hiện một cách bí mật, giống như một vụ trả thù của dân đảo Corx. Ý kiến này được mọi người rất ưa chuộng, mặc dù đa số giới trẻ trong giai cấp thượng lưu chứng tôi đã lắng nghe với một thái độ rõ ràng khinh thị và lãnh đạm - dĩ nhiên đó chỉ là thái độ giả dối.
Nói chung, sự hiềm thù ngày xưa đối với Nicolai Xtavroghin lại biểu lộ trở lại một cách rõ rệt. Ngay cả những người đứng đắn trầm tĩnh nhất cũng sẵn sàng đổ tội lên đầu anh ta, mặc dù chính họ không biết tội đó như thế nào. Người ta thì thầm rằng Xtavroghin và Liza đã vụng trộm với nhau ở Thụy Sĩ và anh ta đã phá hoại thanh danh của nàng. Dĩ nhiên, những người thận trọng giữ thái độ dè dặt, tuy vẫn sẵn sàng lắng nghe cả câu chuyện. Người ta còn đề cập tới những chuyện khác nữa, nhưng không bao giờ bàn tán công khai, một vài chuyện rất kì lạ, tuy họ chỉ thảng hoặc nói riêng với nhau hầu như trong vòng bí mật. Tôi chỉ nói ra đây để báo trước cho quí độc giả, bởi vì sau này tôi sẽ trở lại, khi câu chuyện tôi kể khai triển. Vài người vừa làm mặt trang trọng vừa nói Nicolai Xtavroghin đã về đây với một mục đích đặc biệt; rằng, qua trung gian của Bá tước K, anh ta đã liên lạc với những giới cao cấp ở Petersburg, do đó chắc chắn có liên hệ với chính quyền và có thể giữ một công tác bí mật rất quan trọng. Nhưng khi một vài công dân đáng kính và dè dặt cười mỉm vạch ra rằng chính quyền dễ gì giao công tác chính thức cho một người nhiều tai tiếng như Xtavroghin, thì người ta nhỏ to rỉ tai thầm thì thêm rằng, mối liên hệ của anh ta với chính quyền có tính cách tối mật, và rằng trong những trường hợp như vậy, nhân viên càng không thấy có vẻ gì là công chức thì càng tốt. Cái kiểu lí luận này có một hậu quả khá quan trọng, bởi vì chúng ta biết rằng ở thủ đô người ta đặc biệt lưu ý đến những gì xảy ra ở thành phố chúng tôi. Tôi cũng cần nhấn mạnh rằng những lời đồn đại này được tung ra để rồi tan biến ngay vào buổi Xtavroghin xuất hiện lần đầu tiên trước công chúng. Nhưng tôi mong lưu ý ở đây rằng trong số những lời đồn đó, có nhiều điều đã được khơi mào bởi những nhận xét mơ hồ, rời rạc, do Artemi Gaganov, một đại úy vệ binh hồi hưu và cũng là một địa chủ quan trọng ở đây, đưa ra ở hội quán. Ông ta mới ở Petersburg trở về, nơi ông ta đã bước vào xã hội thượng lưu. Tình cờ ông ta lại là con trai của Pavel Gaganov, hội viên quá cố của hội quán, người hơn bốn năm về trước đã đụng độ với Xtavroghin và phải chịu nhục nhã vì bàn tay của anh ta, như tôi đã kể trước đây.
Chẳng bao lâu ai cũng biết chuyện phu nhân vị tổng đốc đã đi xe tới nhà bà Xtavroghina trong một cuộc viếng thăm đặc biệt, nhưng bà không được tiếp, bởi vì “bà chủ không được khỏe”. Người ta cũng biết rằng vài ngày sau cuộc viếng thăm bất thành, bà Lembke đã sai người đến hỏi thăm sức khỏe của bà Xtavroghina. Sau đó bà Lembke mới “biện hộ” cho bà Xtavroghina, dĩ nhiên trên quan điểm tinh thần mà thôi, nghĩa là một cách mơ hồ và trừu tượng nhất. Đầu tiên, bà ta lắng nghe một cách lạnh lùng và nghiêm khắc những lời xa gần ác ý về biến cố ngày chủ nhật, đến nỗi suốt ngày hôm sau, không ai dám đem ra nói trước mặt bà ta nữa. Điều này làm người ta có cảm tưởng là vị tổng đốc phu nhân đã biết cả những bí ẩn, hiểu rõ ngọn ngành những chuyện bên trong - biết không phải với tư cách một người ngoài cuộc mà là với tư cách một người có dính líu trực tiếp chuyện đó. Tôi thấy cũng nên ghi nhận rằng, vào lúc đó, Julia Mikhailovna đang chiếm được một địa vị mà bà ta đã mong muốn trong đám chúng tôi, và bà ta đã khởi sự tưởng tượng rằng bà ta có một đám người hâm mộ vây quanh. Một nhóm đáng kể trong xã hội thượng lưu ở đây đã công nhận cái thông minh và khéo léo thực tế của bà ta - nhưng chuyện đó để nói sau. Sự che chở của bà ta phần nào giải thích được tại sao Piot’r Verkhovenxki lại thành công trong xã hội nhanh chóng như thế, một việc lúc đầu làm cho cha anh ta không hiểu nổi.
Có lẽ chúng ta có phần nào phóng đại. Đầu đuôi như thế này: trong vòng bốn ngày sau khi tới đây, Piot’r làm quen với tất cả mọi người trong thành phố bất kể là ai. Anh ta tới ngày chủ nhật thì ngày thứ ba tôi trông thấy anh ta ngồi trên xe cùng với Artemi Gaganov đi qua. Gaganov là một người kiêu hãnh, nóng tính, cao ngạo, ẩn dưới lớp vỏ lịch thiệp, và hầu như khó có ai chịu đựng được ông ta. Piot’r cũng được tiếp đón nồng hậu tại dinh tổng đốc và bỗng chốc giữ địa vị một người bạn trẻ trong gia đình. Anh ta là một vị khách thường xuyên nơi bàn ăn của bà Lembke. Anh ta có gặp bà từ trước, khi còn ở Thụy Sĩ, nhưng vẫn có cái gì khó hiểu trong sự thành công nhanh chóng của anh ta trong gia đình vị tổng đốc. Cuối cùng, người ta tin rằng anh ta là một phần tử cách mạng tích cực ở nước ngoài, có bài đăng trên vài tờ tạp chí nước ngoài và đã tham dự một số hội nghị, không biết có thật không, nhưng “có thể kiểm chứng dễ dàng qua những mẩu tin trên báo cũ”. Ít nhất, đó là lời nhận xét đầy ác ý của Aliosa Teliatnikov, người dưới thời vị tổng đốc cũ cũng từng là một người bạn trẻ được dinh tổng đốc ưu ái, bây giờ, thương thay, chỉ vì là một công chức về vườn. Tuy nhiên, một sự kiện không thể chối cãi được là cái nhà cựu cách mạng kia tại quê nhà đã được đối xử không chút nghi kị, và thực ra, còn được tiếp đón công khai nồng nhiệt nữa. Như vậy có lẽ sự thực cũng chẳng có gì như lời đồn. Có lần Liputin thì thầm bên tai tôi rằng hắn có nghe nói, không biết ở đâu và bằng cách nào, là Piot’r đã tự thú và đã được ân xá sau khi anh kể tên những người liên hệ và hứa trong tương lai sẽ làm việc cho chính phủ. Tôi kể lại câu chuyện ác độc này cho cha anh, và mặc dù đang ở trong một tình trạng tâm thần rối rắm, ông cũng trở nên trầm ngâm suy nghĩ. Sau này mới vỡ lẽ rằng Piot’r đã tới đây với nhiều thư giới thiệu, một cái gửi cho vị đệ nhất phu nhân, người gửi là một vị phu nhân già rất quan trọng ở Petersburg có chồng là một trong những cựu nhân vật cao cấp ở thủ đô. Vị phu nhân già kia, tình cờ lại là mẹ đỡ đầu của bà Lembke, nói trong thư là bá tước K. biết Piot’r rất rõ qua trung gian của Nicolai Xtavroghin, và coi anh ta là một thanh niên rất xuất sắc “mặc dù những lỗi lầm đã qua”. Phu nhân vị tổng đốc rất muốn duy trì những mối liên hệ vốn ít ỏi của bà với xã hội thượng lưu ở Petersburg nên rất hài lòng khi nhận được một bức thư của vị phu nhân già quan trọng kia. Nhưng ngoài ra, còn có một điều khác hơn thế nữa: bà đã thân mật với Piot’r và còn ép chồng cũng đối xử như vậy, cho tới khi cuối cùng vị tổng đốc phản đối - nhưng để sau này chúng ta sẽ nói tới chuyện đó. Tôi cũng ghi nhận rằng nhà đại văn hào Karmazinov rất tử tế với Piot’r, và không chần chừ mời ngay anh,tới nhà. Sự vội vã đó đối với một con người kiêu ngạo, tự mãn như Karmazinov làm cho lòng tự ái của ông Verkhovenxki nhức nhới hơn cả, nhưng tôi giải thích chuyện đó như thế này: khi mời một thanh niên theo chủ nghĩa hư vô tối nhà, Karmazinov đã nhắm vào đám thanh niên tiến bộ ở Moskva và Petersburg. Nhà đại tiểu thuyết kia đang khúm núm trước thế hệ cách mạng mới, vì, trong sự dốt nát của mình, ông ta tưởng tượng rằng họ đang nắm tương lai của nước Nga trong tay. Ông ta đang cố gắng nịnh bợ họ một cách nhục nhã, phần lớn bởi vì họ không có chút quan tâm nhỏ nhoi nào đối với ông ta.
2Piot’r có ghé thăm cha anh ta hai lần, tiếc rằng cả hai lần tôi đều vắng mặt. Lần đầu anh đến vào ngày thứ tư, nghĩa là chưa được bốn ngày sau ngày cha con gặp gỡ lần đầu tiên, và lần đó cũng chỉ hoàn toàn vì công việc. Nhân đó, họ giải quyết tiền nong về bất động sản, nhưng không ai rõ giải quyết thế nào. Bà Xtavroghina đảm đương mọi chuyện, tung tiền ra và do đó, dĩ nhiên, thu đất về. Ông Verkhovenxki chỉ được người hầu của bà là Alecxei thông báo rằng mọi chuyện đã giải quyết xong và ông chỉ việc kí vài chữ. Ông lặng lẽ kí với sự trang trọng. Nói tới trang trọng, tôi phải nói trong những ngày đó tôi thật không nhận ra ông. Ông xử sự như chưa hề xử sự như thế bao giờ; ông lặng lẽ và không viết một lá thư nào cho bà Xtavroghina từ sau ngày chủ nhật đó, một sự dằn mình mà tôi cảm thấy gần như là phép lạ. Nhưng, lạ hơn nữa, ông trầm lặng một cách lạ lùng. Chắc ông đã nắm được một ý tưởng khác thường nào rồi nên mới điềm tĩnh như thế. Điều đó thật dễ hiểu. Một khi đã nắm được ý tưởng đó, ông chỉ còn việc ngồi đợi nó tới. Tuy nhiên, lúc đầu, ông nhuốm bệnh. Nhất là, ngày thứ hai, ông bị đau bụng. Vậy mà ông vẫn đứng ngồi không yên nếu không biết những sự việc đang diễn ra - mặc dù, khi tôi dẹp các sự kiện qua một bên để bàn tới bản chất của vấn đề, ông bỏ ngoài tai những nhận xét của tôi với một cái xua tay và bảo tôi ngừng lại. Hai buổi thăm viếng của con ông làm ông đau đớn nhưng không làm ông nhụt đi. Sau mỗi buổi viếng thăm, ông nằm dài trên ghế, đầu đắp một miếng vải tẩm dấm. Nhưng, trong thâm tâm, ông vẫn giữ điềm tĩnh.
Tuy nhiên, thỉnh thoảng ông cũng để tôi nói. Có những lúc tôi nghĩ sự vững tâm dễ chịu, bí ẩn của ông đã xa rời và hình như ông đang phấn đấu trước một ngọn trào cám dỗ mới. Những cơn như vậy không lâu nhưng tôi cảm thấy cũng nên ghi lại ở đây. Tôi ngờ rằng ông đang muốn chứng tỏ dũng khí của ông, từ bỏ cuộc ẩn dật, quyết một trận sống mái.
Vào tối thứ năm, tức sau buổi viếng thăm lần thứ nhì của Piot’r, trong lúc nằm dài trên ghế, dầu đắp một miếng vải tẩm dấm, ông bỗng lên tiếng:
- Con yêu quí, cha tin chắc cha có thể dẹp hết bọn chúng!
Cả ngày, mãi tới lúc đó mới thấy ông nói với tôi một lời:
- Con trai, con yêu quí và v.v. ,- tôi đồng ý rằng đó chỉ là những cách nói nhảm nhi của hạng đầy tớ. Và tôi không trách nó. Bây giờ tôi hiểu rồi. Từ miếng ăn nước uống tôi cũng không cung cấp cho nó. Tôi đã gửi nó từ Berlin tới một nơi thâm sơn cùng cốc khi nó còn đỏ hỏn, gửi nó đi như gửi một gói đồ. Tôi biết thế chứ không phải không. Cho nên bây giờ nó nói: “Cha chưa bao giờ từng trông nom con, cha gửi con cho nhà bưu điện tống đi. Thế mà vẫn chưa vừa lòng, bây giờ cha còn bóc lột con nữa”. Tôi la nó: “Nhưng con ơi, đứa con bất hạnh của cha, suốt đời, cứ nghĩ đến con là cha lại thấy đau lòng xót dạ, cho dù cha gửi con đi qua nhà bưu điện thật!” Nó cười lớn. Nhưng tôi công nhận, tôi công nhận chuyện đó, tôi có tống khứ nó đi, - ông kết luận, hầu như mê sảng.
Năm phút sau, ông lại bắt đầu:
- Thôi, bỏ qua đi. Tôi thực không hiểu được Turgenev51. Cái nhân vật Bazarov con ông tả thật là gượng ép đến độ không thể nào có được. Chính bọn trẻ là những người đầu tiên không chấp nhận hắn, cho rằng hắn không giống ai trên đời cả. Bazarov là một hỗn hợp mù mịt giữa nhân vật Nodrev của Gogol và nhà thơ lãng mạn Byron52 không có cách diễn tả nào khác! Cứ nhìn họ mà xem: họ nhảy cà tưng và rú lên mừng rỡ như những con chó con ở ngoài nắng; họ hạnh phúc; họ là những kẻ chiến thắng. Đúng ý như Byron! Rõ thật tầm thường! Họ có cái kiêu hãnh dễ giận của hàng tôi tớ, một khao khát ti tiện muốn làm rùm beng quanh tên tuổi của nó, không biết rằng tên tuổi của nó... Ồ, trông nó đến buồn cười! Tôi nói với nó “Có khi nào mày thực sự muốn thay Chúa hiến thân cho đời như trường hợp bây giờ không?” Nó cười. Nó cười ngất. Nó cười quá sức. Nó có một nụ cười rất lạ. Tôi không hiểu; mẹ nó ngày xưa đâu có cái cười như vậy. Lúc nào nó cũng cười.
Lại một lúc yên lặng tiếp theo. Bỗng ông lên tiếng:
- Họ thật mưu mô: mọi chuyện ngày chủ nhật đã được hoạch định từ trước.
Tôi vừa dỏng tai vừa hăng hái đồng tình:
Đúng, không còn ngờ vực gì nữa! Tất cả được xếp đặt từ trước và rõ là được cột lại với nhau; hơn nữa, họ diễn xuất hơi vụng về.
- Hẳn thế, nhưng điều tôi muốn nói là họ diễn xuất, vụng về lồ lộ ra như vậy mục đích để những ai... những ai để ý, có thể nhận ra. Anh có hiểu không?
- Không, tôi không hiểu.
- Càng tốt. Bỏ qua đi. Hôm nay tôi rất bực mình.
- Thế sao ông vẫn cãi lí với anh ta làm gì?
- Tôi muốn cải hóa nó. Phải, anh cứ việc cười - Còn bà Varvara đáng thương kia, rồi sẽ được nghe khối chuyện hay! À, này bạn, mong bạn tin một điều - ngày hôm đó tôi cảm thấy yêu nước vô cùng! Tôi luôn luôn ý thức mình là một người Nga. Tuy nhiên, một người Nga chân chính không thể khác chúng ta, như anh và tôi đây, một tí nào. Vẫn có cái gì mù quáng và ám muội trong đó.
- Hẳn là như vậy.
- Sự thật luôn luôn khó tin bạn ạ; chỉ khi nào nó pha với dối trá mới trở nên dễ tin được. Và đó là điều người ta luôn luôn làm. Có lẽ có vài chuyện gì ở đây chúng ta không hiểu. Theo anh, anh có nghĩ rằng có điều gì vượt khỏi tầm hiểu biết của chúng ta trong cái tiếng tru chiến thắng của họ không? Tôi mong là có. Phải, tôi mong là có điều gì trong đó.
Tôi không trả lời và ông cũng giữ im lặng một lúc lâu. Một hồi sau ông lại bắt đầu lảm nhảm, như người lên cơn sốt.
- Họ nói tất cả đều là tư tưởng của người Pháp nhưng điều đó không đúng. Từ trước đến giờ vẫn thế. Tại sao lại đổ tội cho những tư tưởng của người Pháp? Đó chỉ là sự lười biếng cố hữu của người Nga, sự bất lực của chúng ta nặn không ra một tư tưởng, là chủ nghĩa ăn bám ghê gớm của chúng ta trong hàng ngũ quốc tế. Họ hoàn toàn chỉ là những kẻ lười biếng, và không có vấn đề tư tưởng Pháp gì trong đó. Ôi, điều tốt đẹp nhất cho loài người có lẽ là tất cả người Nga bị tiêu diệt hết, như những kí sinh trùng ăn hại. Ôi, chúng ta hoàn toàn không đi đúng hướng. Tôi không còn hiểu điều gì nữa. Tôi bảo nó: “Mày có hiểu rằng nếu mày đẩy cái máy chém của mày lên hàng đầu đó là bởi vì không có gì dễ hơn việc chặt đầu và không có gì khó hơn việc nảy sinh ra tư tưởng. Chúng mày là những kẻ lười biếng! Lá cờ của chúng mày là một cái giẻ rách, một sự bất lực! Những chiếc xe ngựa, hay bất cứ cái gì kia, như trong câu: “Tiếng xe lăn mang bánh tới cho người ta”. Với chúng còn có ích hơn tranh Đức Bà Sistine... Một thứ ngu xuẩn đại loại. Nhưng mày không hiểu phải không, - tôi la với nó, - mày không hiểu rằng con người cũng cần sự bất hạnh như cần hạnh phúc! Nó cười và nói: “Cha thực đã làm được một cuộc phản kháng bằng mồm vui vẻ trong lúc nằm thẳng cẳng trên ghế nhung”. Đúng ra câu nói của nó còn thô tục hơn. Và cái thói con cái coi nhờn cha như vậy không sao cả nếu cha con hòa thuận nhưng khi họ đã bắt đầu gấu ó với nhau thì lại khác.
Lại một phút im lặng nữa. Rồi ông ngồi dậy.
- Anh có biết không, tôi chắc rằng chuyện này sẽ đi tới kết thúc bằng cách này hay cách khác.
- Hắn là như vậy.
- Anh không hiểu. Thôi bỏ qua. Thường thường, trên đời này mọi sự sẽ không đi tới đâu, nhưng chuyện này sẽ chấm dứt bằng một cái gì đó. Tôi cam đoan với anh như vậy.
Ông đi tới đi lui trong phòng trong một trạng thái kích động cùng cực, rồi khi trở lại chiếc ghế dài, ông gieo mình gục xuống đó.
Vào ngày thứ sáu, Piot’r bỏ đi đâu không rõ, mãi đến thứ hai mới về. Tôi biết chuyện đó nhờ Liputin, hắn cũng cho tôi biết rằng hai anh em Lebiadkin hiện đang ở một nơi nào đó gần một làng bên kia sông. Hắn nói: “Chính tôi giúp họ dọn nhà”, và rồi bỏ qua chuyện về anh em Lebiadkin, hắn bất ngờ thông báo rằng Liza sắp lấy Mavriki Drozdov, cháu người cha ghẻ của nàng và rằng mặc dù không được loan báo chính thức, họ đã đính hôn và vấn đề kể như xong. Ngày hôm sau tôi thấy Liza và Mavriki cưỡi ngựa ra phố. Đó là lần đầu tiên nàng ra ngoài kể từ khi nàng ốm. Mắt nàng sáng lên khi nàng trông thấy tôi; nàng cười và thân mật gật đầu chào. Tôi kể lại tất cả cho ông Verkhovenxki, nhưng ông chỉ lưu ý tới phần liên quan đến anh em Lebiadkin.
Bây giờ, tôi đã kể xong những diễn biến trong suốt tám ngày đó, những diễn biến, đối với chúng tôi, những kẻ khi đó không biết gì cả, có vẻ như bí ẩn. Nay tôi sẽ trình bày những chuyện tiếp theo với đầy đủ chi tiết hậu trường, bởi vì mọi chuyện cuối cùng đã bị phát giác và nay ai cũng biết rõ. Tôi sẽ bắt đầu vào ngày thứ tám sau ngày chủ nhật đó, nghĩa là tối thứ hai một tuần sau, bởi vì một vụ tai tiếng mới khởi đầu trong buổi tối hôm đó.
3Vào bảy giờ tối, Nicolai Xtavroghin ngồi một mình trong phòng làm việc. Anh ta vẫn thích căn phòng đó vì có trần cao, thảm, và những đồ gỗ cổ khá nặng nề. Anh ngồi trên một chiếc ghế dài ở góc phòng, quần áo sẵn sàng để đi, nhưng anh có vẻ không có ý định đi đâu cả. Một ngọn đèn thắp trên bàn trước mặt anh, chiếc chụp đèn che mất ánh sáng làm những góc ở xa và căn phòng rộng lớn chìm trong bóng tối. Anh hình như trầm ngâm suy nghĩ, tập trung tư tưởng và bận trí. Mặt anh trông gầy đi và mệt mỏi. Má anh có sưng lên, nhưng tin đồn một chiếc răng bị gẫy là một tin phóng đại: nó chỉ bị lung lay và bây giờ đã chắc trở lại. Môi trên anh bị đứt cũng đã lành, về vết sưng cả tuần lễ vẫn còn là bởi vì anh từ chối không đi bác sĩ để mổ, đợi tự nó xẹp xuống.
Anh cũng không chịu để mẹ anh lại gần: bà chỉ được vào phòng mỗi ngày một lần khoảng một phút, và chỉ được vào sau khi trời tối. Ngay cả Piot’r Verkhovenxki anh cũng không tiếp, mặc dù Piot’r ghé thăm bà Xtavroghina ít nhất hai hay ba lần mỗi ngày, khi anh ở thành phố.
Thế rồi, vào ngày thứ hai, sau khi đi vắng ba ngày và trở về vào buổi sáng, sau khi chạy đôn đáo khắp thành phố và rồi dùng cơm chiều ở nhà bà Lembke, buổi tối Piot’r bỗng đến nhà bà Xtavroghina. Bà đang nóng ruột mong anh ta. Anh ta được thông báo rằng sự miễn tiếp khách đã được Nicolai rút lại. Bà Xtavroghin đích thân đưa khách tới cửa phòng của con. Bà nóng lòng muốn hai người nói chuyện, bởi vì Piot’r đã hứa sẽ kể lại cho bà đại ý cuộc nói chuyện. Bà rụt rè gõ cửa phòng, không nghe tiếng trả lời, bà quyết định mở hé vài phân.
- Nicolai, - bà dằn lòng khẽ hỏi, vừa cố nhìn qua khe cửa xem con ngồi đâu, - mẹ để Piot’r Verkhovenxki vào được không?
- Dĩ nhiên là được. - Chính Piot’r trả lời bà bằng một giọng nói lớn vui vẻ.
Anh ta mở rộng cửa và bước vào phòng, Xtavroghin không nghe tiếng gõ cửa và dù có nghe giọng nói rụt rè của mẹ, anh cũng không có thì giờ trả lời. Trên bàn, trước mặt anh, là một bức thư mà anh mới đọc xong và đang suy nghĩ dữ dội về nó. Giọng oang oang của Piot’r làm anh giật mình; anh vội giấu cái thư dưới cái chặn giấy mà tình cờ anh đang cầm trong tay. Một góc lá thư và hầu như cả chiếc phong bì ló ra ở phía dưới.
- Tôi la lên như vậy để anh có đủ thì giờ - Piot’r nói nhanh, với một giọng thật thà đáng ngạc nhiên, vừa đi vội tới bàn và chú mục vào cái chận giấy.
Không động đậy, Nicolai lặng lẽ nói:
- Và dĩ nhiên anh đã nhận thấy tôi đang giấu một cái thư mà tôi mới nhận được.
- Một cái thư à? Nhưng tôi để ý đến thư của anh làm gì.
Nhưng..., - Piot’r thì thầm, vừa hất đầu chỉ ra phía cửa. Cửa đã đóng chặt. Nicolai lạnh lùng nói:
- Bà ấy không bao giờ đứng sau cửa nghe lén đâu, Piot’r vừa ngồi xuống một chiếc ghế dựa vừa nói lớn một cách vui vẻ:
- Dù bà ấy có làm vậy tôi cũng không có gì phản đối. Nhưng tối nay tôi có đôi chuyện muốn nói thẳng với anh, và cuối cùng bãy giờ tôi được gặp anh. Đầu tiên, anh thấy trong người thế nào? Tôi trông anh có vẻ khỏe. Có lẽ ngày mai là anh có thể xuất viện được rồi, phải không?
- Có lẽ.
Piot’r hoa chân múa tay, nói với một giọng khôi hài và dễ mến:
- Cuối cùng, nên để cho họ yên tâm, cả tôi nữa! Anh không tưởng tượng được bao nhiêu là chuyện vô lí mà hồi này tôi phải cho họ nghe. Mặc dù thực sự chắc anh cũng có tưởng tượng một tí.
Nói xong Piot’r cười.
- Tôi không có một ý nghĩ nào rõ cho lắm. Tôi chỉ nghe mẹ tôi nói anh rất bận rộn.
Piot’r kêu lên, như để tự biện hộ trước một lời buộc tội nặng nề:
- Tôi hả? Không, không, không có gì đặc biệt. Anh biết không, tôi lôi vợ Satov vào câu chuyện, nghĩa là những lời đồn đại về sự liên lạc của anh với nàng ở Paris. Dĩ nhiên, điều đó có thể giải thích được những gì xảy ra hôm chủ nhật. Anh không phiền chứ?
- Tôi chắc anh đã làm hết sức mình.
- Đúng như điều tôi sợ! Mà này, anh nói “làm hết sức mình” nghĩa là thế nào? Tôi nghe như một lời khiển trách. Mặt khác, hình như anh muốn trực tiếp đương đầu với vấn đề. Trên đường đi, tôi đã sợ anh sẽ tránh né.
- Tôi không cảm thấy thích đương đầu trực tiếp với bất cứ cái gì cả, - Nicolai nói, mặt có sắc giận, nhưng rồi anh cười lớn. Piot’r vung hai tay, lời nói phát ra càng lúc càng dồn dập và có vẻ thích thú trước sự nóng giận của bạn:
- Không, không, tôi không nghĩ như vậy. Đừng hiểu lầm chuyện đó. Với tình trạng anh hiện nay, tôi không định đem công chuyện chung của chúng ta ra làm phiền anh. Tôi chỉ tới để nói về vụ ngày chủ nhật, và chỉ nói tới nếu tuyệt đối cần thiết, bởi vì không thể để buông xuôi như vậy được. Cuối cùng..., tôi tới để có một lời giải thích thẳng thắn, có lẽ tôi còn cần hơn anh. Có thể điều đó làm thỏa mãn tự ái của anh, nhưng đó cũng là sự thật. Từ nay trở đi, tôi sẽ luôn luôn thẳng thắn với anh.
- Thế nghĩa là trước kia anh không thẳng thắn phải không?
- Anh biết thừa là không, đôi khi tôi cũng có bóp méo sự thật một tí. Anh cười à; tôi mừng trước cái cười của anh, bởi vì đó là một cái cớ cho một cuộc giải thích thẳng thắn. Tôi khêu gợi cái cười đó bằng cách dụng tâm dùng từ ngữ “bóp méo sự thật”. Tôi biết anh giận tôi vì tôi cả gan trình bầy với anh một hình ảnh sự thật bị bóp méo, nhưng bây giờ tôi xin nói thêm, kèm theo sự giải thích về hành vi của tôi. Anh thấy không, tôi đã cởi mở như thế còn gì nữa! Được rồi, anh có thích nghe chuyện tôi nói không?
Vẻ mặt của Nicolai - vẫn giữ nét thờ ơ một cách khinh miệt lẫn chua cay, mặc dù âm mưu rõ ràng của khách muốn chọc giận anh bằng sự xấc xược có sửa soạn trước kĩ lưỡng, thật thà một cách sống sượng - cuối cùng biểu lộ một nét tò mò bồn chồn.
Piot’r bắt đầu, người càng lúc càng vặn vẹo:
- Nghe này, khi tôi tới thành phố này chừng mười ngày trước, tôi đã quyết định đóng một vai nào đó; dĩ nhiên. Tốt nhất là không phải đóng vai nào cả, cứ tự nhiên là mình, đúng không? Cái khôn ngoan nhất là cứ mang bộ mặt mình, vì sẽ không ai tin cả. Tôi công nhận tôi đã nghĩ sẽ đóng vai một thằng đần độn bởi vì làm một thằng đần độn thì dễ hơn mang khuôn mặt mình. Nhưng, mặt khác, một thằng đần độn là một cực đoan và những cực đoan thì khêu gợi sự tò mò. Bởi vậy cuối cùng tôi quyết định dứt khoát trở về với bộ mặt mình. Được, nhưng bộ mặt đích thực của tôi là gì? Đó là một sự chiết trung: không ngu xuẩn cũng chẳng, thông minh và hơi bất tài, ngoài ra, như một người rơi từ mặt trăng xuống, như nhận xét của những người đáng kính ở đây.
Nicolai cười nhạt nói:
- Có thể tất cả đều đúng.
- À, thế là anh đồng ý rồi! Tốt! Tôi nghĩ đó là nhận xét của anh về tôi. Xin anh đừng lo, tôi không phật lòng một mảy may nào. Tôi nói những điều đó về tôi không phải để anh phản đối và lịch sự nói: “Ồ không, anh thực sự có tài và rất thông minh”, hay đại khái như vậy. À, anh lại cười! Anh lại đi guốc vào bụng tôi lần nữa, anh chẳng hề nghĩ đến chuyện nói với tôi câu “anh rất thông minh”. Cũng được. Nhưng tôi phải đặt mọi giả thuyết. Thôi bỏ qua đi, như lời cha tôi thường nói, và, đặc biệt trong ngoặc kép, tha lỗi cho cái tật dài dòng của tôi. Đó là một thí dụ cho thấy tôi luôn luôn nói nhiều, nghĩa là tôi cứ hấp tấp dùng cả lô chữ, nhưng kết quả chẳng sáng chói gì cho lắm. Mà tại sao thế? Tại vì tôi không biết cách nói, những người nói giỏi thường dùng ít lời hơn. Vậy thì tôi thiếu khả năng, có đúng thế không? Nhưng bởi vì cái thiếu khả năng này là một phần trong bản chất của tôi, tôi không được lợi dụng nó hay sao? Bởi thế, tôi lợi dụng nó. Đúng, trên đường tới đây, tôi nghĩ tôi sẽ cố giữ im lặng. Nhưng giữ được im lặng là một khả năng vĩ đại, cho nên nó ngoài tầm tay của tôi. Lại nữa, im lặng luôn luôn có một tí nguy hiểm. Thế là tôi quyết định rằng con đường tốt nhất sẽ là nói, nói thật nhiều, nói thật nhanh, thuyết phục, biện hộ, nói theo một đường lối ngu xuẩn nhất và làm sao cho những lí lẽ của chính tôi cuối cùng sẽ rối như mớ bòng bong, để thính giả sẽ nhún vai bỏ đi hay nhổ nước miếng khinh bỉ càng tốt. Phân tích đến cùng, như vậy tôi đã làm họ tin sự thẳng thắn của tôi, làm họ ngấy đến tận cổ, và sau đó họ không có một ý niệm nào về những gì tôi muốn nói - như vậy là tôi đạt được cả ba mục tiêu đề ra. Sau đó, có ai còn nghi ngờ tôi âm mưu này nọ nữa? Bất cứ người nào trong bọn họ cũng sẽ giận dữ trước bất cứ ai bảo họ rằng tôi đang có những mưu đồ bí mật. Hơn nữa, đôi khi tôi có thể làm họ cười lên và điều đó có những lợi thế vô cùng to lớn. Bấy giờ họ sẽ tha lỗi cho tôi mọi chuyện, bởi vì cái tên khôn ngoan đã ấn hành những bản tuyên ngôn kia, dưới mắt họ đã trở thành ngu xuẩn hơn cả họ nữa. Cứ xem cái cười của anh, chắc anh đồng ý. Tôi nói đúng không?
Tuy nhiên, Nicolai không mỉm cười gì cả; thật ra anh đang cau mày và hơi mất kiên nhẫn. Piot’r lại tiếp tục nói ào ào, mặc dù Nicolai không thốt một lời:
- Cái gì? Anh bảo không có gì quan trọng hả? Dĩ nhiên, dĩ nhiên, tôi không tới đây để gây liên luỵ cho anh vì liên lạc với tôi. Anh biết không, hôm nay anh thật dễ nổi nóng quá, tôi tới đây một cách vui vẻ với một tấm lòng cởi mở, nhưng anh cứ cố moi móc lỗi lầm trong từng chữ tôi nói ra. Tôi hứa hôm nay tôi sẽ không đưa ra một vấn đề khó xử nào. Anh cứ nhớ lấy lời hứa của tôi, và tôi đồng ý trước với mọi điều kiện của anh.
Nicolai vẫn giữ sự im lặng ương ngạnh.
- Sao? Anh mới nói gì? Tôi chắc tôi lại vụng về lần nữa: anh chẳng bao giờ và sẽ chẳng bao giờ đặt bất cứ điều kiện gì. Được, được, tôi tin anh; anh cứ yên tâm. Chính tôi cũng biết rằng đặt điều kiện với tôi là một việc vô ích, không đúng vậy sao? Bây giờ, tôi đang nói cho cả hai người chúng ta, tôi tin vậy, nhưng anh sẽ phải tha thứ cho cái tật thiếu tưởng tượng cửa tôi. Anh hãy nhớ, mọi sự đều do tôi thiếu khả năng... Anh cười hả? Tại sao, có gì quan trọng không?
Nicolai thở ra:
- Không có gì. Tôi mới nhớ rằng có lần tôi nói anh là một người khá tầm thường, nhưng tôi chắc lúc đó không có mặt anh, bởi thế đáng lẽ phải nhắc lại cho anh nghe. Bây giờ tôi sẽ mang ơn anh rất nhiều nếu anh chịu đi ngay lập tức vào vấn đề.
- Nhưng tôi chẳng vào đề rồi thôi. Nói rõ hơn, tôi đang nói về vấn đề biến cố ngày chủ nhật. Bây giờ, hôm chủ nhật tôi đã đóng vai trò gì, anh hãy nói cho tôi nghe xem. Được, tôi nghĩ tôi đã vội vã đóng vai một kẻ tầm thường và đã làm tất cả mọi người chú ý khi nhấn chìm họ trong cái cách đối thoại tầm thường của tôi. Nhưng họ đã tha thứ cho tôi bởi vì, thứ nhất, tôi đã từ mặt trăng rơi xuống - như tất cả moi người ở đây có vẻ đồng ý - và thứ hai, tôi đã kể một câu chuyện nhỏ hay ho và mang được anh ra khỏi cảnh khó khăn một cách êm ái. Vai trò của tôi tả như vậy có được không?
- Nghĩa là anh đã kể câu chuyện bằng một cách sao cho họ nghi ngờ sự xác thật của nó, và để họ nghĩ rằng chúng ta đã hành động theo một kế hoạch soạn ra từ trước trong khi không có một kế hoạch nào như vậy và tôi chẳng bao giờ bảo anh làm một việc gì như thế.
Piot’r khoái trá kêu lên:
- Đúng, đúng! Tôi đã xếp đặt để ai cũng có thể nhìn thấy sợi dây phía sau. Nhưng, chắc chắn anh cũng nhận thấy rằng tôi đã diễn vở kịch ấy phần lớn là vì anh, bởi vậy tôi đã cố gắng chộp bắt anh và muốn gây liên lụy cho anh. Hơn hết, tôi muốn xem anh sợ đến mức nào.
- Tôi lấy làm lạ tại sao bây giờ anh lại thẳng thắn với tôi như vậy.
- Đừng giận; đừng giận; đừng nhìn tôi như thế. Anh ngạc nhiên không hiểu tại sao tôi lại thẳng thắn với anh như vậy phải không? Được, chỉ vì mọi sự bây giờ đã thay đổi, đã chấm dứt và bị chôn vùi. Ý nghĩ của tôi về anh bỗng thay đổi. Những phương pháp cũ nay là đồ bỏ: tôi sẽ chẳng bao giờ làm anh liên lụy bằng những phương pháp cũ nữa. Từ giờ trở đi tôi sẽ dùng những phương pháp mới
- Thay đổi chiến thuật hả?
- Không có chiến thuật nào cả. Từ giờ trở đi tôi để anh hoàn toàn định liệu: nếu anh muốn thì là có; nếu anh không thì là không. Đó là chiến thuật mới của tôi đó. Về phần mối lo chung của chúng ta, tôi sẽ không hở ra một tiếng cho tới chừng nào tự anh đưa ra. Điều đó làm anh cười à? Tôi mong anh cứ cười thỏa thích đi; tôi cũng muốn cười góp với anh. Nhưng bây giờ tôi tuyệt đối đứng đắn về những gì tôi mới nói, mặc dù chỉ có kẻ vô tài mới có thể luôn luôn vội vội vàng vàng như vậy, điều đó thật dễ hiểu, đúng không? Dù sao, có tài hay bất tài, tôi xin nhấn mạnh những gì tôi vừa nói đều đúng đắn.
Quả thật, trông anh ta nghiêm trang và anh nói với một giọng khác hẳn. Nicolai cũng nhận ra một sự xúc động lạ lùng trong giọng nói của anh và đưa mắt nhìn anh một cách tò mò. Nicolai hỏi:
- Như vậy anh đã thay đổi quan điểm về tôi phải không?
- Tôi đã thay đổi quan điểm của tôi về anh ngay vào lúc anh nhấc tay khỏi vai Satov và..., nhưng như thế đủ rồi, đầy đủ rồi, và xin anh đừng hỏi tôi một câu nào nữa. Tôi sẽ không nói một điều gì nữa.
Anh ta nhảy lên, xua hai tay như thể xua đuổi bất cứ câu hỏi nào có thể được đưa ra. Nhưng bởi vì không có câu hỏi nào được đưa ra và anh ta không có gì vội vã đặc biệt phải ra đi, anh ta lại ngả người xuống chiếc ghế bành trở lại. Khi đã yên vị trên ghế, anh tiếp tục nói như gió:
- À, này, anh cho phép tôi được thông báo, trong ngoặc kép, là vài công dân ở đây đang lảm nhảm rằng anh sẽ không có cách gì khác hơn là giết hắn. Ông Lembke gần như định báo động cho cảnh sát, nhưng vợ ông phản đối. Thôi thế cũng đủ rồi. Tôi chỉ nói cho anh biết mà thôi. Và một chuyện nữa: anh biết không, cũng ngày hôm đó, tôi đã dời anh em Lebiadkin qua bên sông. Anh có nhận được giấy của tôi ghi địa chỉ của họ không?
- Có.
- Được, tôi đã làm vậy do nhiệt tâm thật tình chứ không hẳn vì sự tầm thường của tôi. Nếu kết quả không có gì sáng chói lắm, ít nhất nó cũng vì thiện ý.
Nicolai trầm ngầm nói:
- Được, có lẽ cũng nên làm vậy. Có điều anh đừng gửi giấy cho tôi nữa.
- Không có đâu, tất cả chỉ có một.
- Thế Liputin biết?
- Không thể được. Nhưng tự anh cũng biết rằng hắn sẽ không dám... Nhưng chúng ta cũng nên đi gặp bọn anh em mình thì vẫn tốt hơn, tôi muốn nói bọn họ chứ không phải bọn anh em mình, kẻo không lại sợ anh bới móc lỗi lầm trong mỗi lời tôi nói ra. Không, anh đừng lo, tôi không nói đi ngay bây giờ, mà để hôm nào thuận tiện. Tôi sẽ cho họ biết, để bữa nào buổi tối họ hop lại chúng ta sẽ đến. Họ đang há hốc mồm ra, giống như những con chim trong tổ, để chờ chúng ta tới mang quà ngạc nhiên cho họ. Cả lũ họ đang điên cái đầu. Họ mang sách vở ra sẵn sàng bắt đầu một cuộc tranh luận. Có Virghinxki, con người thế giới chủ nghĩa và Liputin, tín đồ của Fourier, với những tài năng của một thám tử. Tên này là một người có giá trị trên vài phương diện nhưng về những phương diện khác cần phải đối xử mạnh bạo với hắn. Rồi còn cái anh bạn tai dài kia sẽ giảng giải cho chúng ta cái hệ thống riêng của anh ta. Và anh biết không, họ hơi bất mãn bởi vì tôi coi thường họ, và giội những gáo nước lạnh lên đầu họ, làm họ hết cả hăng. Hà hà! Chúng ta thế nào cũng phải tới mà gặp họ.
Nicolai thờ ơ hỏi:
- Và anh đang cố đưa tôi ra như một loại lãnh tụ của họ?
Piot’r cố lờ làm bộ như không nghe thấy gì, và đáp nhanh:
- Này anh biết không, tôi đã gặp mẹ anh tới ba lần một ngày và trong những dịp đó, tôi đã phải nói biết bao nhiêu chuyện.
- Tưởng tượng ra tôi cũng thừa hiểu.
- Anh không phải tưởng tượng gì cả. Tôi chỉ trấn an bà ấy rằng anh không có mảy may ý định giết người nào và nói những chuyện ngọt ngào khác. Nhưng anh nghĩ sao về việc ngay ngày hôm sau bà ấy biết chuyện tôi đã đưa Maria sang bên kia sông? Có phải anh là người nói cho bà ấy biết không?
- Ai mà nghĩ đến chuyện nói với bà ấy.
- Tôi cũng nghĩ không phải anh. Vậy thì ai?
- Liputin, chắc chắn.
Piot’r cau mày lẩm bẩm:
- Không, không phải Liputin. Để tôi tìm xem ai. Có vẻ như thế là Satov... Nhưng chúng ta hãy để qua một bên đã, mặc dù chuyện đó thực rất quan trọng... Mà này, tôi vẫn mong mẹ anh sẽ bất ngờ đưa ra câu hỏi chính yếu bất cứ lúc nào. Đúng rồi, mọi khi trông bà ấy sầu thảm và buồn bã, thế mà hôm nay khi tôi tới, bà ấy tươi như hoa và sáng rỡ. Tại sao vậy?
- Bởi vì tôi đã hứa với bà ấy năm ngày nữa tôi sẽ đi hỏi Liza. - Nicolai nói với một sự thẳng thắn không ngờ.
Piot’r lẩm bẩm như bị lúng túng:
- Phải, dĩ nhiên, tôi hiểu... Có lời đồn đại về việc nàng hứa hôn với một người khác, dĩ nhiên, nhưng anh nói đúng, anh chỉ cần huýt sáo một cái là nàng bỏ nhà thờ chạy lại anh. Tôi mong anh không phiền vì tôi nói như vậy.
- Không sao.
- Tôi bắt đầu nhận thấy rằng hôm nay muốn làm anh mất bình tĩnh thật vô cùng khó khăn, và tôi bắt đầu sợ anh. Tôi rất tò mò muốn biết anh sẽ trình diện với họ ra sao. Tôi cá là anh đã sắp sẵn một số mưu mẹo trong tay áo để chờ dịp đưa ra. Anh không phiền vì câu nói của tôi như vậy chứ?
Nicolai không thèm trả lời, điều đó càng làm Piot’r tức thêm.
- Nhưng mà, khi anh nói với mẹ anh là anh sẽ đi hỏi Liza, anh không nói chơi chứ?
Nicolai ném cho anh ta một cái nhìn lạnh lùng, dò xét.
- À, tôi biết rồi, đó chỉ là để làm cho bà ấy yên tâm. Dĩ nhiên.
Nicolai nghiêm giọng hỏi:
- Thí dụ thực sự tôi muốn vậy thì sao?
- Sao, trong trường hợp đó, trời phù hộ cho anh, như lời người ta nói trong những dịp như vậy. Điều đó sẽ không hại cho sự nghiệp - xin anh để ý cho rằng tôi không nói sự nghiệp của chúng ta bởi vì tôi biết anh không thích chữ “chúng ta”, về phần tôi, có sao đâu, tôi luôn luôn thuộc quyền sử dụng của anh. Anh biết điều đó.
- Có thật đó là những gì anh nghĩ không?
Piot’r nói nhanh, với một tiếng cười:
- Tôi không nghĩ gì cả, bởi vì tôi ý thức rất rõ rằng anh đã suy nghĩ chín chắn mọi chuyện liên quan đến công việc của anh, và, như tôi nói, tôi luôn luôn thuộc quyền sử dụng của anh, ở bất cứ nơi nào và trong bất cứ trường hợp nào - phải, bất cứ trường hợp nào. Anh hiểu điều đó chứ?
Nicolai ngáp dài.
- À, chắc anh chán tôi lắm rồi! - Piot’r kêu lên, bất ngờ đứng bật dậy và với lấy chiếc mũ tròn mới tinh của mình. Anh ta có vẻ muốn đi, nhưng rồi lại thôi. Anh ta lại tuôn ra thao thao bất tuyệt, khi thì đứng ở giữa phòng, khi thì bước tới bước lui, thỉnh thoảng lại đập chiếc mũ vào gối để nhấn mạnh thêm. Cuối cùng anh ta reo lên vui vẻ:
- Để tôi nói cho anh nghe vài chuyện về vợ chồng Lembke cho vui.
- Thôi, để khi khác. Mà này, bà Lembke ra sao?
- A, một thái độ thật lịch sự: sự quan tâm của anh đối với bà ấy không hơn sự quan tâm đối với một con mèo hoang, tuy nhiên anh cảm thấy có bổn phận phải hỏi thăm. Theo tôi điều đó rất đáng khen. Được, tôi có thể trấn an anh rằng bà ta rất khỏe, bà ta nhìn anh với một thứ kiêng nể, và hầu như đang mê tín mong chờ anh làm những điều vĩ dại. Bà ta không đả động tới vụ ngày chủ nhật và tin chắc rằng anh sẽ trỗi dậy với ngọn cờ phấp phới khi anh ra mắt lần đầu. Tôi nói cho anh biết, bà ta cho rằng anh có thể làm được bất cứ điều gì anh muốn. Anh bí ẩn và huyền hoặc hơn bao giờ và điều đó đem lại một tình trạng rất ích lợi. Tất cả bọn họ đều nóng lòng muốn anh xuất hiện. Khi tôi bỏ đi, không khí đã hơi nóng và bây giờ lại còn sôi bỏng hơn. Và, xin cám ơn một lần nữa về bức thư đó. Bọn họ đều sợ bá tước K. Tôi nghĩ họ coi anh như là một nhân viên bí mật của chính phủ, và tôi khuyến khích cho họ tin như vậy. Anh không giận chứ.
- Không sao.
- Điều đó sau này sẽ rất ích lợi về lâu về dài. Anh thấy không, ở đây họ có những lề lối riêng và tôi, dĩ nhiên, tôi khuyến khích điều đó. Đầu tiên là bà Lembke, kế đó là Gagariov. Anh cười hả? Nhưng anh biết dụng ý của tôi: tôi đi quanh giăng những sợi chỉ ngu ngốc, nhưng thỉnh thoảng tôi hở ra một điều thông minh, tình cờ đúng là những gì họ đang mò mẫm. Rồi, khi họ xúm đông xúm đỏ quanh tôi, tôi lại bắt đầu ba hoa. Bấy giờ họ lại bỏ tôi và nói: “Tên này cũng có tài, nhưng hắn từ mặt trăng rơi xuống”. Ông Lembke mời tôi ra làm để uốn nắn tôi. Anh biết không, tôi đối xử với ông ta một cách khủng khiếp, nghĩa là, tôi coi thường ông ta ra mặt và ông ta chỉ nhìn chòng chọc vào tôi. Vợ ông ta khuyến khích tôi. Còn Gaganov, ông này rất giận anh, Hôm nọ, lúc ở trại Dukhov ông ta nói về anh với những lời rất thật - à, không phải tất cả sự thật đâu, nhưng cũng là sự thật. Tôi ở lại Dukhov cả ngày hôm đó. Cái trại thật đẹp và cái nhà cũng đẹp.
Nicolai bất ngờ bị kích thích và nhổm người tới trước, hỏi:
- Sao, bây giờ ông ta có ở Dukhov không?
Piot’r làm như không nhận thấy sự kích động bất ngờ của Nicolai và nói:
- Không, sáng nay chính ông ta đánh xe chở tôi ra tỉnh. Ồ, xin lỗi, tôi làm rơi cái gì thế này, à, một quyển sách. - Anh ta cúi xuống nhặt một quyển sách, loại ấn bản quí có tranh ảnh Những người đàn bà trong đời Balzac53, có cả hình ảnh nữa cơ à? - Anh ta mở ra. Chưa coi bao giờ - Anh biết không, lão Lembke viết cả tiểu thuyết nữa.
- Thật không? - Nicolai hỏi, có vẻ chú ý.
- Ông ta viết bằng tiếng Nga và giữ bí mật mặc dù bà Lembke cũng biết và cho phép. Ông ta là một thứ sợ vợ, nhưng có một vài mưu mô lận trong tay áo. Họ đã dặn xếp với nhau một cách thận trọng: mọi sự đều vào khuôn thước ngăn nắp, và gượng nhẹ hết sức. Tôi mong chúng ta cũng có được lề lối làm việc như thế.
- Anh nói, như thể anh khâm phục những phương pháp làm việc của chính phủ.
- Làm sao tôi không khâm phục cho được. Những phương pháp của chính phủ chúng ta là điều duy nhất thật sự tự nhiên ở Nga và là những phương pháp duy nhất có thể đưa tới kết quả ở đây. - Anh ta bỗng kêu lên. – Được, rồi, tôi sẽ không... Đó không phải là những gì tôi muốn nói. Tôi sẽ không nói một lời nào nữa về cái vấn đề tế nhị đó. Nhưng tôi nghĩ tôi nên từ giã. Trông anh xanh lắm đấy.
- Tôi bị sốt.
- Tôi có thể tin điều đó. Sao anh không nằm xuống. À, có vài hội viên phái Xcopetx54 ở quận này đấy. Thật khó hiểu cho những người gia nhập một môn phái chủ trương thiến, anh có nghĩ vậy không? Nhưng để rồi tôi sẽ nói cho anh chuyện đó. Tôi lại có một chuyện vui nhỏ cho anh. Trong quận có cả một trung đoàn bộ binh đóng. Tối thứ sáu tôi nhậu nhẹt với đám sĩ quan. Trong số họ có ba người là bạn của chúng ta, anh hiểu chứ? Chúng tôi đã nói chuyện về chủ nghĩa vô thần và chẳng nói anh cũng biết, Chúa, bị cách chức một cách thảm hại. Họ thích thú, la hét mừng rỡ. À, Satov cứ nhất định rằng nếu một cuộc khởi nghĩa được khơi mào ở Nga, nó sẽ phải bắt đầu bằng chủ nghĩa vô thần. Có thể hắn nói đúng. Có một đại úy già tóc bạc thô lỗ trong bọn họ. Ông ta ngồi suốt buổi im lặng, nhưng rồi bỗng nhiên ông ta đứng dậy, đứng ở giữa phòng và nói lớn như thể tự nói với mình. “Nếu không có Thượng đế, thì cái lon đại úy của tôi có ra cái thá gì?” Rồi ông ta nhặt lấy mũ két, nhún vai và bước ra.
Nicolai ngáp lần thứ ba và nói:
- Ông ta diễn tả một câu thật đúng luận lí.
- Anh nghĩ vậy thật không? Tôi đã không hiểu và định hỏi anh. À, còn gì nữa nhĩ? À, cái xưởng Spigulin khá lắm. Sử dụng năm trăm thợ, như anh biết rồi. Đó là một ổ vi trùng dịch tả và chưa từng được dọn dẹp lau chùi từ năm mươi năm nay. Những ông chủ triệu phú thì trả lương thợ thiếu thốn. Tôi cam đoan với anh, một vài người thợ đã được nghe nói về phong trào Quốc tế. Sao? Cái đó cũng làm anh cười à? Rồi chính anh sẽ thấy. Cứ để cho tôi một thời gian thật ngắn rồi tôi chứng minh cho xem. Trước tôi đã xin anh thời gian rồi, nhưng tôi phải xin thêm nữa... Nhưng xin lỗi, không, không, tôi không định nói về chuyện đó. Xin anh đừng cau mày. Chào anh. - Nhưng anh ta quay lại nói thêm: - Ồ, quên mất. Tôi quên một điều quan trọng nhất: họ mới báo cho tôi biết va li của chúng ta ở Petersburg đã tới.
Nicolai nhìn anh ta tỏ vẻ không hiểu:
- Anh định nói gì?
- Sao, cái va li đựng quần áo của anh trong đó, dĩ nhiên rồi - có áo khoác, quần dài, đồ lót của anh. Có phải nó tới rồi không?
- Phải, sáng nay họ có nói gì như là nó tới rồi.
- Tôi có thể xem bây giờ được không?
- Bảo Alecxei lấy cho.
- Thôi được, để mai. Sao, ngày mai được không? Bởi vì ngoài quần áo của anh còn có áo khoác của tôi, và ba cái quần đặt may ở tiệm Kẻ quyến rũ theo lời mách bảo của anh, anh nhớ không?
Nicoỉai nới với một tiếng thở ra:
- Tôi nghe nói anh đang cố gắng chưng diện để đóng vai một chàng công tử ở đây. Có thật anh còn có ý định tập cưỡi ngựa nữa phải không?
Piot’r cười một cách nhăn nhó. Anh ta vội nói với một giọng run run và ngập ngừng:
- Tôi xin nói với anh một điều, cả hai chúng ta hãy tránh những nhận xét cá nhân, lần này lần đầu và tôi mong sẽ là lần cuối. Dĩ nhiên, anh có quyền khinh rẻ tôi thế nào cũng được và anh cứ việc cười thỏa thích, nhưng tôi mong trong lúc này anh sẽ cố đừng đưa ra những nhận xét cá nhân.
- Được rồi, tôi sẽ không nói vậy nữa.
Piot’r mỉm cười, đập chiếc mũ vào đầu gối và đổi từ chân nọ sang chân kia. Anh ta có vẻ hoàn toàn lấy lại được bình tĩnh. Anh ta cười và nói:
- Vài người ở đây còn coi tôi như đối thủ của anh đối với Liza, cho nên làm sao tôi lại có thể không chú trọng tới bề ngoài của tôi được? Nhưng tôi muốn, biết anh lấy ở đâu lắm tin tức thế. Hừ, đã tám giờ rồi. Tôi phải đi lo nốt công việc mới được. Tôi đã hứa sẽ gặp mẹ anh một lúc, nhưng tôi nghĩ lần này tôi sẽ trốn. Còn anh, anh đi ngủ đi cho tươi tỉnh lại. Bên ngoài trời tối và mưa, đường sá ban đêm không an toàn lắm, nhưng tôi có một chiếc xe ngựa đang đợi... À này, đâu đây trong tỉnh này có một người tù phát lưu tên là Fedca sống lang thang từ Xibir trốn về, ông ta trước kia là một nông nô của tôi, anh tin hay không cũng không sao. Ông già yêu quí của tôi khoảng mười lăm năm trước đã đẩy ông ta vào quân đội và còn được quân đội thưởng tiền. Một nhân vật rất đáng chú ý.
Nicolai dò xét:
- Anh có... anh có nói chuyện với ông ta chưa?
- Rồi. Ông ta không trốn tránh tôi. Ông ta sẵn sàng làm bất cứ cái gì, để có tiền, dĩ nhiên. Nhưng tôi cũng cần phải nói, ông ta cũng có lập trường, mặc dù là những lập trường hơi kì quái. À phải rồi - lại à nữa - nếu chuyện anh và Liza hồi này là chuyện anh nói đứng đắn, anh cho phép tôi xác nhận một lần nữa rằng tôi cũng là một người sẵn sàng làm bất cứ việc gì, dù ra sao, và hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của anh... Anh định làm gì thế? Anh định với lấy cái gậy để làm gì? Ồ không phải... Tôi chỉ tưởng tượng. Tôi tưởng anh với lấy cái gậy kia của anh.
Nicolai không với lấy cái gì cả. Anh cũng không nói một lời nào. Mặc dù anh có đứng dậy và vẻ mặt co rút một cách kì lạ.
Piot’r bất ngờ chỉ thẳng về phía cái chặn giấy và nói:
- Ngoài ra, nếu anh cảm thấy phải làm một cái gì về ông Gaganov, tôi có thể xếp đặt mọi sự, dĩ nhiên. Tôi chắc anh không thể làm ăn được gì nếu không có tôi.
Không đợi trả lời, anh ta vội vã bước ra phòng, nhưng rồi chiếc đầu lại ngoái trở lại khe cửa, anh ta nói như ăn cướp:
- Tôi nói thế bởi vì Satov cũng không có quyền liều mạng sống của hắn khi hắn đánh anh hôm chủ nhật. Mong anh ghi nhớ điều đó.
4Có lẽ Piot’r Verkhovenxki cho rằng ngay khi anh ta đi rồi, Nicolai còn một mình, sẽ bắt đầu nắm tay đấm vào tường, và chắc chắn anh ta cũng muốn nhìn cảnh đó. Nhưng nếu đúng như vậy thì anh ta tưởng lầm: Nicolai vẫn hoàn toàn trầm tĩnh. Anh đứng nguyên bên cạnh bàn không nhúc nhích khoảng hai ba phút, có vẻ trầm ngầm suy nghĩ. Rồi trên môi nở một nụ cười lạnh lẽo, hờ hững. Anh từ từ ngồi lên chiếc ghế dài mà anh đã ngồi khi Piot’r tới và nhắm mắt như thể mệt mỏi quá sức. Một góc chiếc thư vẫn ló ra khỏi cái chặn giấy, nhưng anh không buồn nhúc nhích để giấu đi. Một lúc sau anh trở nên hoàn toàn vô ý thức với ngoại cảnh.
Khi Piot’r bỏ đi không giữ lời hứa ghé thăm bà Xtavroghina, bà không thể dằn được việc tới phòng con trai, bất kể giờ đó không thích hợp. Bà đã chịu đựng hết nổi trước những lo lắng quá sức và có ý hi vọng rằng con bà sẽ giải thích cho bà tất cả những điều mà bà không hiểu được. Bà gõ cửa và khi không nghe trả lời, bà bước vào, như đã vào khi đưa Piot’r tới thăm con. Thấy Nicolai ngồi bất động trên ghế, bà bước lại gần, tim đập mạnh. Bà ngạc nhiên, thấy con có thể ngủ gà ngủ gật như vậy, ngồi thẳng lưng và bất động, không nghe cả tiếng thở. Mặt anh, nhợt nhạt và khắc khổ. Người như đóng thành băng, lông mày hơi cau lại, trông anh như một bức tượng bằng sáp. Bà đứng gần anh có lẽ tới ba phút, hầu như không dám thở, và bỗng nhiên bà thấy sợ hãi. Bà rón rén ra khỏi phòng, ngừng bên cửa để làm dấu thánh giá hướng về phía anh. Bà bỏ đi không ai thấy, mang theo trong lòng một nỗi buồn nặng nề hơn nữa.
Nicolai ngủ được hơn một giờ, suốt giấc ngủ ở trong trạng thái mê mệt. Không một thố thịt chuyển động trên mặt hay thân thể; cặp lông mày vẫn cau lại một cách khắc khổ như lúc anh ngồi xuống. Nếu mẹ anh nán thêm ba phút nữa, có lẽ bà đã không thể chịu đựng được cảnh mủi lòng trước sự bất động hôn mê ấy và đã đánh thức anh dậy. Nhưng khi anh mở mắt ra thì chỉ có một mình, và dù đã mở mắt, anh vẫn không nhúc nhích suốt mười phút nữa. Anh như chăm chú nhìn vật gì ở góc phòng, mặc dù ở đó không có gì đặc biệt làm anh chú ý.
Rồi chiếc đồng hồ lớn trên tường gõ một cách êm ả và đều đặn đánh dấu nửa giờ. Nicolai quay đầu lại nhìn một cách lo lắng. Đúng lúc đó, chiếc cửa bên trong phòng mò ra và Alecxei, người hầu, bước vào. Một tay ông ta mang chiếc áo ấm, khăn quàng, và mũ của Nicolai, tay kia cầm một cái khay bạc trên có để một mảnh giấy.
- Thưa cậu đã chín giờ rưỡi rồi.
Ông ta loan báo bằng một giọng lặng lẽ, rồi vắt quần áo vừa mang vào lên một chiếc ghế ở góc phòng và chìa cái khay có mảnh giấy cho Nicoilai,