Chương V NGƯỜI ĐÀN BÀ PHIÊU LINH-1
Chuyện tai biến của Liza và vụ hạ sát Maria Lebiadkina làm Satov chới với thực sự. Như tôi đã nói ở trước, tôi bắt gặp anh sáng nay và trông anh như kẻ mất hồn. Sẵn dịp, anh có cho tôi biết buổi chiều hôm qua, khoảng chín giờ - nghĩa là ba giờ trước khi vụ hỏa hoạn xảy ra - anh có lại thăm Maria Lebiadkina. Sáng hôm nay, anh đến nhìn qua xác các nạn nhân, nhưng theo như tôi biết thì anh chẳng khai một lời với cảnh sát. Tuy nhiên trước khi ngày tàn, bão tố nổi dậy trong lòng anh, và tôi có thể nói chắc rằng lúc sẩm tối anh bồn chồn muốn đi nói ra mọi sự. Chỉ anh mới có thể nói ra “mọi sự” đó là cái gì, nhưng dĩ nhiên anh sẽ không làm nên được gì, và chỉ khiến người ta thêm nghi ngờ. Anh không có một bằng cớ nào rõ rệt khả dĩ giúp giải quyết cái tội ác mới phạm, bởi vì chính anh chỉ có những phỏng đoán mơ hồ và riêng anh coi là đủ kết thành điều chắc chắn. Nhưng anh có ý muốn hiến thân để nhìn thấy cái bọn mà anh gọi là “lòng lang dạ thú” bị đập tan. Piot’r đoán đúng phần nào tính bột phát của Satov, và chính Piot’r biết rằng hoãn thi hành kế hoạch ghê gớm kia lại một ngày thì liều lĩnh vô cùng. Piot’r biểu dương ở đây lòng tự tin hằng có vào khả năng của riêng mình vượt thắng mọi tình thế và sự khinh thị vô biên đối với tụi “mấy dăm hơi” mà hắn đang đối phó nói chung, và đối với Satov nói riêng. Hắn đã khinh nhờn từ lâu, sự khóc nhè xuẩn động của Satov, như hắn thường nói trong những ngày hai người còn sống ở ngoại quốc, và hắn tin chắc tài sức của mình đủ đương đầu tên khù khờ này, nghĩa là trông chừng nó suốt ngày và ngăn chặn bất cứ hành vi nguy hiểm nào từ lúc mới chớm. Thực ra, cái trường hợp cứu thoát - ít nhất được một lúc - lũ mà Satov gọi là “lòng lang dạ thú” và những tên anh muốn đập tan, không một ai trong bọn ngờ tới chút nào.
Khoảng bảy tám giờ chiều, lúc các tổ viên sốt ruột của tổ năm người trong tỉnh chúng tôi đang tức giận trông đợi Piot’r tại nhà Erkel, thì Satov, nhức đầu và hơi sốt, nằm dài trên giường trong bóng tối đen kịt. Anh bị giày vò bởi cơn phẫn nộ và không biết phải làm gì. Anh thấy mình quyết định đó, rồi lại không thể được và anh chửi thề, đồng thời thấy dù sao đi nữa cũng chẳng đi tới đâu. Tuy nhiên, anh chìm dần trong giấc ngủ chập chờn với cơn ác mộng. Anh thấy mình bị trói chặt nằm trên giường không nhúc nhích được, trong lúc ấy tiếng đập chan chát vào hàng rào, vào cổng, vào chái lều của Kirillov ở trong sân, và vào cửa phòng anh, làm rung động cả nhà; và từ cõi xa xăm vọng tới một giọng quen thuộc yếu ớt đang gọi tên anh. Anh chợt tỉnh và ngồi dậy. Anh ngạc nhiên thấy tiếng đập cổng còn tiếp tục, và mặc dù không đến nỗi chan chát như trong mộng, nhưng cũng khá mạnh và khẩn thiết. Anh cũng nghe cái giọng quen thuộc ngoài cổng, mặc dù nó không phiền muộn như trong mộng nhưng bồn chồn và bực dọc, ngắt quãng bởi một giọng khác ôn tồn hơn. Anh đứng dậy, đi tới mở cửa sổ ra. Anh hỏi, cứng người lên vì sợ:
- Ai đó?
Tiếng trả lời từ dưới cổng vang lên, khó chịu và bồn chồn:
- Satov, có phải anh đấy không? Làm ơn giùm tôi, anh hãy nói thật lòng cho tôi biết rõ là anh có tiếp tôi không?
Không còn nghi ngờ gì nữa! Anh nhận ra giọng nói rồi!
- Maria, em đó à?
- Phải, tôi chứ ai - Maria Satova - báo cho anh biết là tôi không thể giữ xe đợi lâu thêm một phút nữa đâu.
Satov thốt lên yếu ớt:
- Đợi tí xíu - anh đốt đèn cái đã.
Anh chạy đi tìm hộp diêm. Trong những trường hợp như - vậy anh thường không tìm ra nổi. Anh buông giá nến xuống sàn và ngay khi nghe cái giọng bồn chồn gọi lên nữa, anh thôi tìm liền và chạy ào xuống lầu như người điên, ra mở cổng. Anh mới tới cổng, Maria Satova ấn vào tay anh cái va li nhẹ bỗng bằng vải rẻ tiền có đính nút đồng và vừa nói:
- Làm ơn giữ cái va li giùm, để tôi tính với anh xe chết bầm này.
Rồi chị giận dữ chồm tới người đánh xe và hét lên:
- Nói cho anh biết, anh cố lấy thêm tiền tôi. Anh chở tôi qua những con đường dơ dáy làm mất thêm một tiếng đồng hồ; đó là lỗi của anh, tại anh không tìm được con đường chó chết và cái nhà mắc dịch này. Vậy anh nên lấy ba mươi xu cho anh - anh không được một xu nhỏ nào nữa đâu.
- Thưa bà, nhưng, bà vẫn cứ nằng nặc quyết một đường “Thăng thiên” trong khi chúng ta cần tới đường Giáng sinh. Đường “Thăng thiên” cách xa hàng dặm. Bà hãy nhìn con ngựa tôi xem, nó thở như ống khói tàu mà chẳng được cái tích sự gì.
- Ôi chao, đường Thăng thiên, Giáng sinh, giáng siếc, anh phải biết những cái tên chó chết đó hơn tôi chứ, anh chạy xe trong tỉnh này mà. Hơn nữa, anh lại nói sai bét: lúc tôi thuê anh tôi bảo là nhà của Filippov và anh nói biết. Dĩ nhiên anh có giỏi đi thưa tôi đi, nhưng bây giờ anh hãy để cho tôi yên đã.
Satov vội vã móc tiền đưa thêm cho người đánh xe:
- Đây này, năm xu đó, cầm đi.
Maria Satova trừng mắt và nói:
- Đừng làm vậy! Đừng làm vậy, tôi bảo mà!
Nhưng người đánh xe ra roi và chiếc xe chuyển bánh, trong khi Satov nắm tay chị ta kéo vào cổng.
- Đi nào, lẹ lên em; bỏ qua đi. Coi này - em ướt như chuột lột! Cẩn thận nhé, cầu thang đây. Xin lỗi không có đèn. Coi chừng, nấc thang đứng lắm, vịn anh, vịn chặt đi... phòng anh đây rồi. Xin lỗi không thắp đèn kịp. Đợi một chút.
Anh nhặt giá nến lên, nhưng anh tìm hộp diêm rất lâu. Maria đứng đợi bất động giữa phòng. Anh vui mừng reo lên, và thắp nến:
- Dữ không, đây rồi.
Maria đảo mắt nhanh một lượt khắp phòng, vừa tiến về phía chiếc giường vừa phật ý nói:
- Tôi nghe nói anh sống rất nghèo khổ nhưng tôi không thể ngờ được là tệ đến thế này.
Chị ta ngồi xuống giường, trông mệt lả người:
- Mệt ơi là mệt! Anh để cái va li của tôi xuống giùm và ngồi trên ghế đó. Được, tùy ý anh, nhưng anh đứng tôi trông thấy mà mệt. Tôi sẽ phải ở đây với anh cho đến khi tìm được việc làm, vì tôi mù tịt cái tỉnh này và không có đồng xu dính túi. Nhưng nếu tôi ở đây làm phiền anh, làm ơn nói ngay bây giờ đi - như một người trung thực có thể làm. Thực ra tôi cũng có thể bán món đồ gì đó ngày mai để trả tiền thuê phòng ngủ. Chỉ có vậy, trong trường hợp đó, tôi phải nhờ anh đưa tới khách sạn. Ồ, nhưng tôi mệt quá rồi!
Satov bắt đầu run, giọng anh như van lơn, tay anh nắm lại:
- Không đâu em, sao lại đi khách sạn? Khách sạn nào? Sao, tại sao?
- Nếu không tới ở khách sạn, tôi phải có đôi lời giải thích với anh. Anh Satov, chắc anh nhớ là chúng ta đã sống với nhau với tư cách vợ chồng già nửa tháng ở Thụy Sĩ, sau đó chúng ta xa nhau, tuy chẳng một lời qua tiếng lại, nhưng đã gần ba năm rồi. Bây giờ tôi không muốn anh nghĩ rằng tôi trở lại để tiếp nối cái tình xưa nghĩa cũ ngu xuẩn của chúng ta. Tôi đến đây để tìm việc làm, và nếu tôi chọn ngay cái tỉnh này bởi vì tôi sống ở đâu cũng vậy thôi. Chắc chắn là tôi đến đây không phải để xin lỗi điều gì cả; và anh làm ơn đừng lầm tưởng ngu ngốc như vậy.
Satov nói lí nhí:
- Ồ, em đừng nói - em đừng nên nói...
- Nếu anh nghĩ được vậy, nếu may ra anh đủ văn minh hiểu biết tình huống, tôi xin mạo muội nói thêm rằng bây giờ tôi đến thẳng với anh là vì tôi không bao giờ coi anh như một người đáng khinh - thực ra có lẽ anh khá hơn “tụi chẳng ra gì”.
Đôi mắt chị ta ánh lên. Có lẽ chị ta đã đau khổ quá nhiều với “tụi chẳng ra gì”.
- Tôi không có nhạo báng anh đâu, tôi nói thật đó. Khi nói thế, tôi coi anh là người đàng hoàng. Tôi nghĩ sao nói vậy, chẳng màu mè hoa mĩ, thứ tôi đại kị. Nhưng tầm phào tất cả, tôi luôn luôn yên trí là anh đủ khôn ngoan không làm phiền tôi. Bấy nhiêu đó tưởng cũng đủ. Tôi thực sự mệt lắm.
Chị ta nhìn anh chăm chăm, mệt mỏi và bối rối: Satov đứng gần vách đối diện với chiếc giường cách chị ta chừng năm bước. Anh rụt rè lắng nghe, nhưng gương mặt anh rạng rỡ lạ kì, một đời sống mới biến chuyển trong anh. Con người lực lưỡng và cục mịch này, thường xuất hiện với bộ mặt lông lá trước mọi người, nay thình lình trở nên yếu mềm và rực rỡ vui tươi. Có điềm bất thường và không ngờ khuấy động tim anh. Ba năm cách biệt và cuộc hôn nhân tan vỡ chẳng gây chút đổi thay trong tim anh. Trong suốt ba năm trường, có lẽ anh nghĩ không nguôi tới người đàn bà có lần nói với anh “em yêu anh” và vẫn còn thân thiết trong lòng anh từ đó tới nay. Anh giản dị và khiêm tốn kì cục, cho mình xấu xa thậm tệ, thù ghét cái bản mặt và tính nết của mình, và anh coi mình như loại quái thai có thể mang đi khắp nơi triển lãm trong các chợ phiên. Và vì ngần ấy thứ, anh quí chuộng sự chân thành hơn tất cả mọi sự, anh cuồng nhiệt trong những xác tín của anh, rụt rè, hãnh diện, hay cãi vã, và lầm lì. Ôi con người duy nhất từng yêu quí anh (anh luôn luôn tin tưởng như vậy) dù cho chỉ có nửa tháng, con người anh luôn luôn cho rằng cao hơn anh vô biên, mặc dù anh tỉnh táo đánh giá những lầm lẫn của chị ta; con người mà anh có thể tha thứ tất cả (điều này chẳng còn phải hỏi, thực ra, dưới mắt anh, anh luôn luôn là kẻ vô tội đối với chị ta - ồ, người đàn bà ấy, Maria Satova, lại đang ở trong nhà anh, lại ở với anh. Anh hoàn toàn không thể hiểu nổi hay tin tưởng được. Anh choáng váng, thật là đáng sợ hãi và đồng thời thật là sung sướng! Thật tự nhiên đến nỗi anh không thể nào - có lẽ anh không ước ao đến, và anh sợ phải - trấn tĩnh được xúc động. Nhưng khi chị ta bối rối và kiệt sức nhìn anh, anh chợt hiểu là người đàn bà mình yêu quí vô vàn đang đau khổ, và có lẽ chị ta đã bị đối xử tệ bạc. Tim anh se thắt, anh quan sát gương mặt chị ta với nỗi xót xa trong lòng: vẻ hồng hào của thời thanh xuân biến mất từ lâu trên gương mặt mệt mỏi của chị ta. Nhưng chị ta trông vẫn còn xinh và, đối với anh, chị ta vẫn đẹp như thuở nào.
Thực ra bây giờ chị ta chừng hai mươi lăm, vóc đáng khỏe mạnh và cao ráo (chị ta cao hơn Satov), tóc vàng hoe và dày, mặt trái xoan nhợt nhạt, đôi mắt tròn xoe đen nháy, giờ đây long lanh run rẩy. Cái bồng bột nhẹ dạ, khờ khạo, hiền lành của chị ta thuở xưa bây giờ bị thay bằng cái tính bẳn gắt, chua chát, và một thái độ khinh bạc mà chị ta chưa thích ứng hẳn và nó còn đè nặng trên người. Nhưng tệ hơn cả là chị ta đau yếu - anh có thể nhìn thấy rõ. Dù e dè đối với chị ta, anh cũng cuồng nhiệt lao nhanh tới giường và nắm lấy đôi tay của chị ta:
- Maria - em chắc mệt lắm - em đừng giận. Có lẽ em phải dùng cái gì mới được - ít nhất dùng trà. Trà làm lại sức, em biết chứ. Em thử dùng trà nhé! Em bằng lòng không?
- Có cái gì mà bằng lòng? Dĩ nhiên tôi bằng lòng. Anh vẫn ngớ ngẩn như trẻ con. Nếu có thể, anh cho tôi chút trà. Nhưng phòng anh lại hẹp và lạnh lẽo làm sao!
Satov trở nên bối rối vô cùng.
- Ờ... em đợi một tí... củi, củi, anh có mấy khúc đây... Anh có mấy khúc cây nhưng - đấy - em đợi một chút, anh đi lấy đây, cả trà nữa.
Anh quơ tay trông như thể với quyết định vô vọng, và anh chộp chiếc mũ.
- Anh đi đâu vậy? Thôi, tôi biết rồi, trong nhà không có trà phải không?
- Chỉ một phút thôi, sẽ có đủ hết. Anh... - Anh lấy khẩu súng trên kệ. - Anh đem bán hay cầm nó...
- Vô lối! Dù sao nó cũng mất nhiều thì giờ. Đây, anh không có sẵn thì cầm lấy tiền tôi này. Đây này, có tám mươi xu. Tôi tin là tất cả tôi có bấy nhiêu. A, ở đây như cái nhà thương điên.
- Thôi, thôi, em cất nó đi. Chẳng lâu lắc gì đâu. Anh chẳng cần cầm bán súng cũng có được.
Anh chạy qua gặp Kirillov. Bấy giờ chừng hai tiếng đồng hồ trước khi Piot’r và Liputin tới. Satov và Kirillov ở cùng trên khoảng sân, ít có tới lui với nhau và ngay khi đụng đầu, họ cũng không buồn chuyện trò hay chào hỏi nhau. Họ thực sự đã nằm kề bên nhau quá lâu ở bên Mỹ.
- Kirillov, nhà anh luôn luôn sẵn trà. Anh có trà và ấm, phải không?
Kirillov đang bách bộ tới lui trong phòng, như mỗi đêm anh thường làm. Anh dừng lại, và mặc dù chẳng lộ chút gì ngạc nhiên đặc biệt, anh cũng nhìn chằm chặp Satov, người khách tất tả thốt ra những lời đó.
- Tôi có trà, đường và ấm. Nhưng chẳng cần ấm làm gì - trà còn nóng mà. Anh ngồi xuống đi và cứ tự nhiên.
- Kirillov, chúng ta nằm kề bên nhau ở Mỹ... Vợ tôi vừa đến. Tôi - anh cho tôi chút trà - tôi cũng cần cái ấm nữa.
- Nếu có vợ anh ở đây, anh cần cái ấm, được. Nhưng trở lại lấy ấm sau. Tôi có tới hai cái. Bây giờ anh cầm lấy cái bình trà trên bàn kia kìa - còn nóng lắm. Lấy mọi thứ đi, lấy hết đường, lấy cho nhiều bánh mì - tất cả những gì trên bàn. Tôi cũng có ít thịt bê nữa đây. Tôi có đồng rúp trong tủ này.
- Cho tôi mượn nhé. Mai tôi trả lại. Ôi, anh Kirillov!
- Đó là người vợ anh ở, lúc bên Thụy Sĩ hả? Tốt lắm. Cách anh vội vã như thế này cũng tốt nữa.
Satov vừa cặp cái bình trà, vì tay anh cầm bánh mì và đường, vừa nói to:
- Kirillov! Anh Kirillov này! Nếu anh có thể - nếu anh có thể từ bỏ những ý nghĩ ngông cuồng và liệng những mê sảng vô thần của anh - ôi, anh sẽ là một người tuyệt diệu vô cùng!
- Tôi thấy anh vẫn còn yêu vợ, ngay cả sau chuyện xảy ra ở Thụy Sĩ. Sau cái vụ đó, như vậy tốt lắm. Bất cứ lúc nào cần trà anh cứ tới, lúc nào cũng được, ban đêm tôi không ngủ. Cái ấm cho anh đó, cầm lấy đồng rúp, về với vợ đi, tôi ở đây nghĩ về anh, về vợ anh.
Maria dường như hài lòng việc trà mang về mau lẹ và chị ta thấy thèm vô cùng. Nhưng Satov không phải đi trở lại lấy thêm cái ấm trà nữa: chị ta chỉ uống có nửa tách trà, nhắp từng ngụm một, và nuốt một mẩu bánh mì nhỏ. Chị ta có vẻ bực dọc và ghê tởm chê món thịt bê. Satov đứng đợi rụt rè kề bên, nói:
- Maria, anh trông em không được khỏe.
- Dĩ nhiên tôi không khỏe. Anh làm ơn ngồi xuống đi. Trà ở đâu ra, vì rõ ràng là anh không có tí nào?
Satov mới kể vắn tắt về Kirillov. Chị ta có nghe qua về Kirillov trước rồi.
- Tôi biết, anh ta khùng. Nhưng, bấy nhiêu cũng đủ về anh ta rồi. Tôi biết còn có khối người điên khùng đần độn trên đời này. Như vậy anh có đi Mỹ? À, đúng rồi, tôi có biết chuyện này, anh đã viết cho tôi.
- Phải, anh viết ở Paris.
- Đủ rồi, anh làm ơn - nói chuyện khác, về tư tưởng, anh có phải là người theo chủ nghĩa Xlav?
- Anh à? Không đúng hẳn - nhưng vì không thể là người Nga, nên anh thành người theo chủ nghĩa XIav.
Satov nói với cái cười méo xệch, cảm thấy mình giống như một người cố ra vẻ ỷ nhị không đúng lúc và không đúng dịp.
- Nhưng anh không phải là người Nga ư?
- Không, anh không phải.
- Phi lí làm sao! Anh ngồi xuống đi, tôi van anh! Tại sao anh cứ lăng xăng lít xít khắp phòng? Anh cho là tôi điên à? Rất có thể lắm. Có phải anh nói là trong nhà này chỉ có hai người ở không?
- Ờ hai người, nhưng ở dưới lầu.
- Và cả hai bảnh gớm! Nhưng anh nói ở dưới lầu có nghĩa gì? Anh có nói ở dưới lầu phải không?
- Không, không có gì hết.
- Đừng nói “ không, không có gì hết”; anh cứ nói. Tôi muốn biết mà.
- Anh có ý muốn nói là chỉ có hai ta thôi, nhưng anh em Lebiadkin trước kia sống ở dưới.
- Chị ta đứng phắt dậy:
- Anh muốn nói là người đàn bà bị hạ sát hồi hôm? Ngay khi tôi vừa đặt chân đến tỉnh này, tôi đã nghe nói tới chuyện đó trước tiên. Và có đám cháy ở đây nữa, phải không?
- Phải. Và nếu anh tha cho chúng thì thật sai lầm.
Anh đứng dậy và bước tới lui trong phòng, vung tay như điên khùng. Nhưng Maria chẳng hiểu anh muốn nói gì cả. Nói chung, chị ta chẳng mấy để tâm đến lời anh nói; thực sự chị ta hỏi chỉ để mà hỏỉ, chẳng màng câu trả lời:
- Toàn là những chuyện đẹp mặt nhỉ. Tất cả thật đáng khinh! Ai nấy đều hèn hạ ti tiện. Nhưng anh làm ơn ngồi xuống - bộ anh không nhận ra là anh làm tôi bực dọc đến thế nào sao?
Chị ta hoàn toàn mệt nhoài và rũ rượi ngã đầu xuống gối.
- Xin lỗi em, Maria, anh sẽ đứng im. Nhưng em có thấy là em phải nghỉ đôi chút không?
Chị ta không trả lời. Chị ta rã rời và mắt nhắm nghiền. Gương mặt chị ta tái nhợt, trông hệt như một xác chết. Trong giây lát chị ta thiếp đi. Satov nhìn dáo dác, cắt tim ngọn nến, lo lắng nhìn lại lần nữa gương mặt người đàn bà đang ngủ, đan tay chắp trước ngực và rón rén bước ra khỏi phòng tới chỗ đầu cầu thang. Ồ đầy anh đứng trong một góc, áp mặt vào vách im lìm bất động như vậy độ một chặp. Anh sẽ đứng lâu hơn nếu không bất chợt nghe tiếng người bước rón rén lên lầu. Bây giờ anh mới nhớ ra mình quên khóa cổng.
Anh hỏi khẽ:
- Ai đó?
Người khách không trả lời, cứ tiếp tục chậm rãi leo lên. Người này dừng lại ở chỗ đầu thang, nhưng Satov không thể nhận ra ai trong bóng tối. Rồi thình lình người kia hỏi cặn kẽ:
- Có phải Ivan Satov?
Satov trả lời phải và dang tay chặn lối người kia, nhưng khách chụp lấy bàn tay Satov, và Satov thót người như thể chạm phải loài nhớp nhúa gớm ghiếc.
Satov hấp tấp nói với giọng thật khẽ:
- Đứng lại. Tôi không cho anh vào. Vợ tôi vừa mới trở về với tôi. Đợi đó, tôi bưng đèn ra.
Khi cầm đèn trở ra, anh thấy một người sĩ quan rất trẻ mà anh nhở mang máng đã gặp ở đâu rồi, nhưng anh không biết tên. Người sĩ quan tự giới thiệu:
- Erkel đây, chúng ta đã gặp nhau tại nhà Virghinxki.
Satov vừa bước tới vừa nổi khùng lên, nhưng vẫn khe khẽ nói:
- Nhớ rồi - anh ngồi và cắm cúi viết suốt buổi. Nghe đây. Anh ra dấu bằng cách nắm tay tôi khi nãy. Nhưng anh biết chứ, tôi khinh bỉ tất cả những dấu hiệu này... Tôi không cần biết tới thứ đó; tôi không muốn dính líu gì tới chuyện đó. Anh biết là tôi có thể quăng anh xuống lầu dễ như bỡn không, nếu tôi muốn?
Erkel chẳng chút phật ý, trả lời một cách hiền hòa:
- Không, tôi không biết gì về điều đó cả, và tôi cũng không hiểu sao anh giận như vậy. Tôi mang tin cho anh, tôi đến đây là vì vậy; và tôi chỉ mong sao không làm mất thì giờ. Anh có một máy in, không phải của anh nhưng anh lại chịu trách nhiệm, như anh biết rõ đó. Tôi được giao phó tới báo tin với anh là ngày mai anh bàn giao nó lại cho Liputin đúng bảy giờ chiều. Và người ta còn sai tôi nói với anh rằng chuyện này xong xuôi sẽ không bao giờ phiền tới anh nữa.
- Không bao giờ? Tuyệt đối không bao giờ. Lời yêu cầu của anh được chấp thuận và anh được ra khỏi Phong trào luôn, vĩnh viễn. Tôi được chỉ thị là bảo đảm với anh chắc chắn về chuyện đó.
- Ai ra chỉ thị cho anh?
- Những người cho tôi biết mật hiệu.
- Anh có đi nước ngoài về không?
- Điều đó... tôi thiết tưởng nó chẳng ăn nhằm gì tới anh.
- Nhưng, đồ chó chết, tại sao anh không đến sớm hơn nêu người ta bảo anh nói với tôi tất cả điều đó?
- Tôi phải tuân theo một số chỉ thị, và hơn nữa không phải chỉ có một mình tôi trong...
- Tôi hiểu rõ là không phậi chỉ có mình anh. Tôi biết mà. Nhưng mắc mớ gì mà Liputin không đích thân tới đây?
- Ngày mai tôi sẽ tới đây sáu giờ, và chúng ta cùng đi tới đó. Chỉ có ba chúng ta ở đó thôi.
- Còn Piot’r?
- Piot’r sẽ không có ở đó. Anh ấy sẽ đi khỏi tỉnh lúc mười một giờ sáng mai.
Satov nổi nóng rít lên, đấm tay xuống đùi.
- Tôi nghĩ không sai mà. Nó chuồn, đồ chó má!
Satov cực kì dao động. Erkel nhìn anh chăm chăm, nín thinh đợi chờ.
- Nhưng làm sao anh lấy nó được? Anh không dễ bưng nó lên và mang đi, anh biết chứ?
- Chúng tôi không phải làm như vậy. Anh chỉ chỗ cho chúng tôi, để chúng tôi biết chắc là nó có chôn ở đó là được rồi. Anh biết không, chúng tôi chỉ cần biết đại khái nó ở chỗ nào. Hiện chúng tôi không biết nó ở đâu. Anh có chỉ cho ai khác không?
Satov buồn cười nhìn anh ta.
- Nhưng này - anh thật là trẻ con và một đứa trẻ con rất ngu si; anh húc đầu vào như con cừu dại dột. Nhưng người ta chỉ cần như vậy, bọn thanh niên hăng tiết như anh. Được rồi, anh về đi. Và đừng quên cái thằng chó má kia đã gạt gẫm đông đảo các anh và chuồn thẳng.
Erkel, ra vẻ không hiểu, im lặng và tỉnh khô nhìn Satov. Satov rít lên:
- Piot’r đã cao bay xa chạy! Nó để các anh ở lại lãnh đủ.
- Nhưng anh ta chưa đi mà. Anh ta chỉ dự định là mai thôi, - Erkel thuyết phục nhỏ nhẹ. Erkel tiết lộ, thật như đứa trẻ khù khờ: - Tôi cố nài nỉ anh ấy tới chứng kiến; bởi vì tất cả mệnh lệnh cho tôi đều chuyển qua anh ấy cả, nhưng bất hạnh là anh ấy từ chối và cắt nghĩa là anh ấy phải đi, và tôi biết rõ là anh ấy gấp rút lắm.
Satov thương hại nhìn cái tên ngây ngô này lần nữa, đoạn anh nhún vai như thể muốn nói: “mặc xác chúng”. Anh bảo cộc lốc:
- Được rồi, mai tôi sẽ đến. Nào lặn đi - tôi bỏ vô đây!
Erkel lễ phép cúi đầu thưa:
- Mai tôi đến anh đúng sáu giờ.
Và Erkel vội vã xuống lầu. Satov không dằn lòng được, từ đầu thang nói vọng xuống:
- Con nít ke dại dột!
Erkel nói với lên:
- Cái gì?
- Không, đi đi.
- Tôi tưởng anh nói gì chớ.
2Erkel là “con nít ke dại dột” thiếu đầu óc phán đoán, nhưng đầy thói hư tật xấu và thủ đoạn lại không thiếu. Anh ta cuồng tín và ấu trĩ dâng hiến hết mình cho Phong trào - đúng ra cho Piot’r, người ra chỉ thị cho anh ta hành động. Những chỉ thị này anh ta nhận lãnh trong buổi họp tổ năm người của tỉnh, khi những nhiệm vụ cho ngày hôm sau được quyết định và cắt đặt cho từng người. Piot’r giao Erkel làm liên lạc viên, và đã kéo anh ta ra chỗ riêng dặn dò chừng mười phút đồng hồ. Thi hành mệnh lệnh là một nhu cầu tối cần của bản tính nông cạn không suy nghĩ của Erkel, tự thâm tâm chỉ khát khao tùy thuộc vào ý chí kẻ khác. Ôi, ý chí chẳng cần phải nói, nó có thể chỉ khoác áo “lí tưởng chung vĩ đại” nào đó - nhưng lí tưởng nào cũng được. Hạng tốt đen cuồng tín như Erkel không thể hiểu nổi cái lí tưởng mà họ cho là phục vụ, nếu không đồng hóa nó với con người mà theo họ là hiện thân của lí tưởng. Chú bé con dễ cảm, tử tế, dịu dàng này có lẽ là kẻ sát nhân lạnh lùng nhất tấn công Satov. Anh ta có thể nhúng tay vào máu mà chẳng cần thù oán cá nhân, và chẳng chút run tay. Trong lúc này Erkel được căn dặn khi đến báo tin cho Satov anh ta phải tìm hiểu những thói quen của Satov càng nhiều càng tốt. Lúc Satov tiếp Erkel ở đầu thang và buột miệng về chuyện vợ mình mới trở về, Erkel đủ quỉ quyệt chẳng để lộ chút quan tâm thêm trong chuyện này, mặc dù đầu óc Erkel lúc ấy vụt lóe lên ý nghĩ là sự có mặt của vợ Satov ảnh hưởng lớn vào thành công kế hoạch của bọn họ.
Và quả thế, chỉ có sự trở về của Maria mới làm Satov đình chỉ thi hành ý định của anh. Đồng thời, nó cũng giúp bọn kia “trừ khử” anh. Khởi đầu là sự có mặt của vợ làm Satov rối loạn, không e dè, mất thận trọng và linh tính về mối hiểm nguy. Đầu óc anh quá nhiều bận rộn để nghĩ tới sự an lành cho chính mình. Anh chỉ ngạc nhiên khi hay tin Piot’r đã quyết định bỏ trốn, bởi vì điều này phù hợp với sự ngờ vực từ lâu của anh. Anh trở vào phòng, ngồi chống tay lên đùi, vùi mặt vào lòng bàn tay trong một góc. Những ý tưởng cay đắng xâu xé lòng anh.
Thỉnh thoảng anh ngẩng lên, đứng dậy, rón rén lại gần giường và nhìn vợ. Anh nghĩ: “Trời ơi, nàng sẽ lên cơn sốt kinh khủng sáng mai. Cơn sốt đã bắt đầu rồi không chừng. Chắc chắn là nàng phải cảm lạnh. Nàng nào có quen với khí hậu khủng khiếp này, nàng cũng đâu có quần áo ấm - chỉ chiếc áo mỏng dầm mưa dãi gió. Mà lại đi toa hạng ba mới khổ chứ! Sao người ta có thể bỏ rơi nàng như vậy, chẳng chút chi đỡ đần! Còn cái va li, nhỏ xíu, nhăn nhúm chừng năm cân là nhiều! Thảm thương thay, nàng quá rã rời. Nàng phải trải qua biết bao nhiêu mà kể! Nhưng nàng vẫn kiêu hãnh và chẳng chút oán than. Nhưng nàng rất cáu kỉnh. Đó là vì đau yếu - ngay như thần thánh cũng cáu kỉnh khi đau yếu huống chi người. Ta tưởng chừng như trán nàng phải khô nóng đến độ nào - đôi mắt thâm quầng - và, bất chấp ngần ấy thứ, gương mặt trái xoan thanh tú của nàng vẫn mĩ miều làm sao với mái tóc dày vẫn đẹp đẽ..”.
Và anh vội quay mặt đi, bước ra xa, dường như sợ sệt chính cái ý nghĩ phải nhìn thấy chị ta khác hơn là một sinh vật mòn mỏi, đáng thương mà anh phải giúp đỡ. Không, không, anh không được mơ ước gì ở chị ta. Ôi, đàn ông là một con vật ti tiện đáng khinh thay! Anh trở lại ngồi xuống chiếc ghế trong góc phòng, lại vùi mặt vào lòng bàn tay, lại hồi tưởng và trầm tư - những mơ ước lại nhảy múa trong đầu óc anh.
Tiếng nói yếu ớt và lạc giọng của chị: “Ôi, tôi mệt quá!” còn vang trong tai anh. Trời hỡi, sao con người đàn ông đó có thể bỏ nàng như vậy! Trong chiếc ví bé bỏng cũ kĩ của nàng vẻn vẹn tám mươi xu! Nàng về tìm việc làm, nàng có biết gì về việc làm đâu? Họ nghĩ nước Nga là gì? Nhưng tất cả họ đều giống như những con trẻ thơ ngây; họ sống trong một thế giới sản phẩm của trí tưởng tượng mình! Và bây giờ, người đàn bà khốn nạn này đang nổi giận bởi vì nước Nga khác xa với điều nàng ở nước ngoài đã mơ mộng về nó. Ôi, những con người thơ ngây đáng thương! Nhưng tôi phải nói, ở đây lạnh thực sự.
Anh nhớ lại lời Maria than lạnh và anh đã hứa đốt lửa... “Củi sẵn trong nhà đây, ta có thể đi lấy, phải ráng tránh động chạm đánh thức nàng. Còn món thịt bê chẳng biết làm sao đây? Khi nàng thức, nàng có thể muốn ăn. Được rồi, ta sẽ liệu sau. Kirillov thức trọn đêm. Lấy gì đắp cho nàng đây? Nàng ngủ say quá, nhưng ta chắc nàng phải lạnh lắm!”
Anh đến gần giường và nhìn chị ta lần nữa. Chiếc váy của chị ta bị kéo lên một chút để lộ chân phải tới đầu gối. Anh lẹ làng quay chỗ khác, gần như khiếp đảm; anh vội vã cởi chiếc áo choàng nặng nề ra, chỉ còn mặc áo chẽn sứt chỉ, đắp cho chị ta, tránh nhìn da thịt chị ta để lộ.
Nhóm lửa, đi rón rén, nhìn người đàn bà ngủ, mơ mộng trong góc phòng, lại nhìn người đàn bà ngủ - tất cả chiếm hết thì giờ. Đôi ba tiếng đồng hồ lướt qua; trong lúc đó Piot’r và Liputin có thời giờ tối, gặp Kirillov, và ra về. Sau cùng, khi Satov thiếp đi trong góc phòng, chị vợ mơ ú ớ, thức giấc, và gọi anh. Anh nhảy tới, cảm thấy như mình là một tội phạm.
- Maria em, anh hối lỗi vô cùng. Anh ngủ thiếp đi - ôi, anh thực là trâu bò, em Maria....
Chị ta ngồi dậy và ngạc nhiên nhìn chung quanh, dường như cố nhớ ra chị ta đang ở đâu. Rồi thình lình chị ta quạu cọ vô cùng.
- Tôi nằm trên giường anh rồi ngủ thiếp đi bởi vì tôi mệt muốn chết. Nhưng tại sao anh chẳng đánh thức tôi dậy? Tại sao anh dám nghĩ là tôi muốn làm phiền lụy anh!
- Nhưng anh không thể đánh thức em dậy được.
- Anh có thể làm và lẽ ra anh phải làm! Anh chẳng có chiếc giường nào khác, mà tôi lại giành giường anh. Anh không có quyền đẩy tôi vào cái thế sai quấy như vậy. Bộ anh cho là tôi đến đây lợi dụng từ tâm của anh sao? Tôi yêu cầu anh trở lên giường ngay tức khắc! Tôi sẽ ngả mình trên mấy cái ghế trong góc phòng.
- Nhưng anh không có đủ ghế, và hơn nữa anh không có gì để lót lên trên...
- Được rồi, có sàn đây. Nếu tôi không ngủ dưới sàn thì anh cũng phải ngủ dưới đó. Tôi muốn xuống dưới sàn ngay bây giờ - ngay bây giờ!
Chị ta đứng dậy và cố cất bước, nhưng một cơn đau đớn quặn người làm tan rã quyết định của chị ta và quét sạch tàn lực nơi chị ta. Chị ta đau đớn rên lên, rơi phịch xuống giường. Satov vội chạy tới. Maria úp mặt xuống gối, nắm lấy bàn tay anh siết vặn tuyệt vọng. Chuyện xảy ra chừng một phút.
- Em Maria, có bác sĩ quanh đây. Bác sĩ Eranxel, bạn rất tốt của anh. Để anh chạy đi rước.
- Tầm phào.
- Sao lại tầm phào? Em đau ở đâu? Để anh chườm cho em nhé? Chườm ở bụng à? Anh làm được mà, khỏi cần bác sĩ. Hay dán cao được không?
Chị ta ngước đầu nhìn anh đăm đăm và hỏi một cách lạ kì:
- Làm sao thế này?
Satov hỏi, bối rối:
- Gì, em? Em hỏi gì? Maria em, ôi, anh mất trí rồi; anh chẳng hiểu chuyện gì nữa. Anh xin lỗi em, Maria!
Chị ta gắt lên cay đắng:
- Ôi, hãy để tôi yên nào. Anh có biết gì đâu, lại có phải chuyện của anh nào cho cam. Thực ra, cũng tức cười quá... Này, anh nói cái gì đi chứ - đi tới lui trong phòng và nói đi; đừng đứng đó nhìn tôi chăm chăm như vậy. Tôi nói với anh lần này là lần thứ năm trăm rồi!
Satov cất bước quanh phòng, mắt ngước lên trần, anh ráng hết sức để khỏi nhìn chị ta.
- Có - có - xin em bớt nóng giận, xin em - có thịt bê và trà - gần đó. Em mới ăn có mấy miếng....
Chị ta nóng nảy, xua tay và Satov cắn môi một cách tuyệt vọng.
- Anh Satov, tôi định mở tiệm đóng sách ở đây, đặt trên những nguyên tắc hợp tác xã bình đẳng. Anh sinh sống ở đây, ý anh thế nào? Liệu có thành công không?
- Ở tỉnh này ít người đọc sách, vả lại kiếm đỏ con mắt mới ra một quyển quanh đây. Và dù họ có một quyển sách, họ cũng chẳng vội gì đem nó đi đóng bìa đâu?
- Họ là ai?
- Độc giả trong tỉnh - dân địa phương nói chung.
- Này, ăn nói cho rõ ràng. Làm sao tôi có thể biết anh muốn ám chỉ “họ” là ai? Anh không thể học nói cho đúng phép tắc à?
Satov lẩm bẩm:
- Đó là tinh thần của tiếng nước ta.
- Ôi chao, tinh thần chó chết gì, anh làm tôi phát mệt. Sao độc giả hay dân chúng lại không đem sách đóng bìa?
- Bởi vì đọc sách và đem sách đóng bìa là hai trình độ khác nhau trong sự phát triển văn hóa, hai giai đoạn phân biệt hẳn hoi. Trước tiên, dần dần con người thâm nhập thói quen đọc sách. Người ta tiêm nhiễm rất là chậm. Phải mất hằng thế kỉ, và suốt thời gian này người ta quăng sách lung tung và xé rách, không cho chúng là vật trang trọng. Còn đóng bìa sách là dấu hiệu kính trọng quyển sách, con người không những hưởng thú đọc sách mà còn coi sách là vật trang trọng. Toàn thể nước Nga chưa đến trình độ thứ hai đó, nhưng ở Âu châu người ta đã đóng bìa sách từ lâu rồi.
- Dù rằng anh nói như nhà mô phạm, nhưng cũng có lí và làm tôi nhớ con người anh ba năm về trước. Khi đó lắm lúc anh cũng nói nhiều câu thông minh lắm. Chị ta khen tặng anh với giọng khinh nhờn như khi chị nổi cáu. Satov xúc động sâu xa và nói:
- Maria em, ba năm qua biết bao vật đổi sao dời! Anh nghe nói rằng em khinh thị anh vì anh đã thay đổi ý kiến. Nhưng anh đã từ bỏ những con người nào? Những kẻ thù nghịch của mọi sự sống đích thực; những tên tự do cổ lỗ, sợ độc lập; lũ nô lệ tư tưởng; những kẻ thù của tự do cá nhân, những tên thuyết giáo cằn cỗi của sự chết và rữa nát! Họ có gì dâng hiến cho đòi? Sự cằn cỗi, ba phải; sự tầm thường của bọn tiểu tư sản giả hình nhất; sự bình đẳng đặt nên tảng đố kị; và sự bình đẳng thiếu vắng niềm kiêu hãnh cá nhân, như thể cái quan niệm của bọn tôi tớ của nước Pháp năm 1793110. Và tệ lậu nhất, bọn chúng chỉ là bầy heo không hơn không kém, cả một lũ xấu xa đần độn.
Maria thốt lên và thình lình quặn mình dưới cơn đau:
- Ờ, hiển nhiên có khối bọn heo xấu xa quanh đây.
Chị ta nằm duỗi ra, im lìm, dường như sợ cử động, đầu nằm nghiêng trên gối hơi ngả về sau, đôi mắt sốt nóng mệt mỏi nhìn đăm đăm lên trần, mặt tái nhợt và môi khô rang.
Satov kêu lên:
- Bây giờ em đã biết ra rồi!
Chị ta cố gắng lắc đầu không nhận, nhưng sự ráng sức làm cơn đau quặn thắt. Chị ta lại úp mặt xuống gối và bấu tay Satov cả phút đồng hồ - anh đã hốt hoảng chạy tới bên chị ta.
- Maria em, không chừng nghiêm trọng lắm đó em!
Chị ta quay lại quát Satov như điên loạn:
- Im ngay - mặc tôi, tôi không cần! Đừng nhìn tôi với bản mặt ngớ ngẩn xót thương của anh. Đi đi, đi tới đi lui và nói chuyện đi!
Satov bấn loạn lí nhí nói chẳng nên lời. Chị ta nóng nảy gạt ngang, miệt thị:
- Anh sống bằng cách gì ở đây?
- Anh làm công cho tiệm buôn. Em biết không, nếu anh để tâm kiếm tiền, ngay như ở đây anh cũng có thể kiếm khối ra.
- Vậy tốt cho anh...
- Maria, anh không có ý muốn nói gì đâu. Anh nghĩ sao nói vậy.
- Anh còn làm gì nữa? Bây giờ anh giảng đạo gì đây? Tôi biết thừa anh không thể sống mà không giảng đạo. Bản tính anh vậy mà.
- Maria. Anh đang rao giảng là có Chúa.
- Mà chính anh lại không tin ở ngài? Đó là điều tôi không bao giờ có thể hiểu được.
- Thôi, hãy tạm gác chuyện đó lại sau này.
- Ả Maria Lebiadkina thuộc hạng nào?
- Chuyện đó cũng vậy, thủng thẳng chúng ta sẽ bàn sau.
- Sao anh dám gạt phắt tôi đi như vậy? Có phải những tên đó phải chịu trách nhiệm về cái chết của ả ta không?
Satov rít lên:
- Hẳn rồi.
Đột nhiên Maria cất đầu và thét như người lên cơn:
- Tôi cấm anh nói chuyện đó với tôi. Tôi cấm, nghe không?
Cơn đau lại quặn thắt toàn thân, chị ta buông đầu xuống gối. Đây là lần thứ ba và lần này đau hơn hết - rên rỉ trở thành tiếng thét.
- Tôi chịu anh hết nổi!
Chị ta oằn oại, lăn lóc trên giường, không còn ngại rằng điều này làm cơn đau càng thêm dữ dội hơn, và chị ta xô Satov đang đứng bên ra xa.
- Maria, em bảo gì, anh sẽ nghe theo. Anh đi lại tới lui và nói chuyện nhé!
- Ui chao, chó chết, anh không biết nó đã bắt đầu à?
- Cái gì bắt đầu, em?
- Làm sao tôi biết được? Bộ anh tưởng là tôi biết nhiều về những chuyện này à? Ui chao, mồ tổ nó từ lúc đầu, chuyện chó chết.
- Nhưng Maria, em bảo nó đã bắt đầu... vậy chắc anh nên... anh làm gì nào, hả em?
- Anh vô tích sự, chỉ giỏi nói chuyện trên trời. Trần gian này toàn là địa ngục!
- Maria, em...
Satov tưởng chị ta trở nên điên thật. Chị ta ngồi dậy, nhìn anh chằm chặp, mặt chị ta nhăn nhó thù hằn.
- Thực anh không biết tôi sắp sinh hay sao? Tôi nguyền rủa đứa con từ lúc nó chưa chào đời.
Đột nhiên Satov nhận ra sự tình.
- Maria em! Nhưng sao em không nói với anh từ trước?
Anh trấn tĩnh và chụp lấy chiếc mũ với vẻ cương quyết vô cùng.
- Làm sao tôi biết được khi tôi tới đây? Bộ anh nghĩ là tôi biết trước nên tôi mới tới đây hay sao? Người ta cam đoan với tôi ít nhất phải mười hôm nữa mới tới ngày. Nhưng bây giờ anh đi đâu? Tôi cấm anh!
- Đi rước bà mụ. Anh bán cây súng. Trước tiên phải có tiền đã.
- Đừng kêu mụ, anh nghe chứ! Chỉ cần một người đàn bà - một bà già được rồi. Có tám mươi xu trong ví - anh lấy đi. Đàn bà nhà quê xoay xở cũng xong, không cần mụ. Dù sao đi nữa, nếu tôi có ngoẻo cũng đáng kiếp.
- Anh sẽ kiếm một người đàn bà, một bà già - bất cứ người nào em muốn, nhưng làm sao anh có thể bỏ em một mình cho đành?
Nhưng rồi anh quyết định rằng tốt hơn phải bỏ chị ta một mình dù chị ta đang như thế nào đi nữa, hơn là chẳng có ai ở bên đỡ đần khi chị ta sinh. Vì vậy, mặc chị ta đang rên rỉ và cuồng loạn phản đối, anh lao xuống thang như một người điên.
3Trước tiên anh qua nhà Kirillov, bấy giờ chừng một giờ khuya, Kirillov đang đứng giữa phòng.
- Anh Kirillov, vợ tôi có con.
- Anh nói gì?
- Nàng vừa - nàng sắp sinh.
- Chắc không?
- Chắc, chắc mà, nàng đang chuyển bụng - anh biết đó. Cần một người đàn bà, bà già nào đó, tức tốc. Anh có thể tìm cho một người không? Anh thường có khối bà già...
Kirillov trầm ngâm nói:
- Chịu thôi, tôi không biết chửa đẻ. Tôi không muốn nói là tôi không thể chửa đẻ, mà còn không giúp gì được trong việc chửa đẻ cả - không, không phải điều đó. Tôi muốn nói - không, tôi không biết cắt nghĩa làm sao.
- Anh muốn nói là anh không biết đỡ đẻ chứ gì. Nhưng tôi không đòi hỏi như vậy. Tôi tìm một bà già, bất cứ người đàn bà nào, một y tá, một người giúp việc - bất cứ kẻ nào!
- Tôi sẽ tìm cho anh một bà già, nhưng ngay bây giờ thì không được. Có lẽ trong lúc này tôi có thể thay vì...
- Không thể được. Tôi phải rước cô mụ Virghinxcaia.
- Mụ chó chết!
- Đúng vậy, nhưng chị ta là mụ giỏi nhất ở đây. Ôi, tôi có thể thấy trước sự thể sẽ ra sao - chị ta lên mặt khinh khỉnh và chửi thề nguyền rủa, chẳng chút cung kính và vui mừng trước một biến cố rất trọng đại và huyền diệu: giờ phút chào đời của một con người mới. Ôi, nàng đã nguyền rủa hài nhi trước rồi.
- Nếu anh cần, tôi có thể...
- Không, không, nhưng trong lúc tôi chạy đi - ôi, tôi sẽ lôi tuốt mụ Virghinxcaia tới đây! - Anh có thể tới nhà tôi nghe ngóng giùm. Nhưng nhớ đừng vào. Anh có thể làm nàng hoảng sợ. Đừng có vào, dù có gì xảy ra đi nữa. Chỉ nghe ngóng thôi. Dĩ nhiên, trong trường hợp cực kì khẩn yếu - thì mới nên vào.
- Hiểu rồi. Đồng rúp nữa đây. Tôi định ngày mai mua con gà, nhưng nay đổi ý. Bây giờ dông đi - ba chân bốn cẳng mà chạy. Cái ấm của tôi sẽ nấu suốt đêm.
Kirillov không biết gì về số phận dành cho Satov; quả nhiên, anh không hề hay biết mảy may gì về sự hiểm nguy của Satov. Anh chỉ biết có chuyện chưa thanh toán giữa Satov và “những người nọ”. Dù rằng chính Kirillov đã dính dáng ít nhiều với những chỉ thị từ nước ngoài gửi về cho anh (những chỉ thị này khá mơ hồ, vì anh không hề có liên hệ chặt chẽ với chuyện gì cả), nhưng mấy lúc sau này anh ngưng thi hành bất cứ chỉ thị nào và, rút lui hoàn toàn, nhất là rút khỏi những vụ liên hệ tới phong trào chung, anh sống thuần túy trầm tư. Mặc dù trong buổi họp mặt tại nhà Erkel, Piot’r đã quyết định dẫn Liputin theo đến nhà Kirillov để chứng tỏ cho Liputin thấy rằng khi chuyện ngã ngũ Kirillov sẽ nhận hết trách nhiệm về “vụ Satov”, Piot’r không hề đả động tới tên Satov trong suốt câu chuyện. Dường như Piot’r không cho rằng mang vấn đề ra bàn bạc là khôn ngoan, và không chắc Kirillov sẽ chấp nhận. Vì vậy Piot’r dời lại tối ngày hôm sau, khi mọi sự xong xuôi và khi Kirillov thực sự cóc cần thế này hay thế khác. Ít nhất đấy là lí luận của Piot’r. Mặc lời bảo đảm của Piot’r, Liputin chú ý thấy tên Satov chẳng hề được nêu ra bao giờ, nhưng bấy giờ thần kinh anh căng thẳng tột độ và anh không còn tâm trí đâu mà phản đối.
Satov lao như cơn lốc trên đường Con Kiến, chửi thề sao nó dài thăm thẳm và thầm hỏi đến bao giờ nó mới dứt. Đến nơi anh phải gõ cửa nhà cô mụ thật lâu - mọi người trong nhà Virghinxki đã an giấc cả mấy giờ rồi. Chẳng chút do dự Satov bắt đầu đập cửa lá sách. Con chó giữ nhà trong sân điên tiết kéo dây xích và sủa cuồng loạn vang động. Chó những nhà khác trên đường hùa theo sủa lên loạn xạ.
Sau cùng, Satov nghe tiếng của Virghinxki ở cửa sổ.
- Sao lại gọi cửa như vậy? Cần gì?
Giọng này dịu dàng lạ lùng đối với một người bị đánh thức trên giường lúc nửa đêm. Cửa lá sách giương lên, rồi đến khung kính phần trên của cửa sổ. Có tiếng đàn bà tru tréo giận dữ:
- Tiên sư cha nó làm gì ầm ĩ thế kia!
Cái giọng quá sức tưởng tượng trong trường hợp này là của cô gái già chị vợ của Virghinxki.
- Dạ tôi đây - Satov. Vợ tôi đã trở về và nàng sắp sửa sinh...
- Kệ xác nó. Còn anh xéo đi.
- Tôi tìm chị Arina Virghinxcaia. Tôi sẽ ở đây đến khi nào rước được chị ấy mới nghe.
Cái giọng đầy ác cảm vẫn rít lên:
- Cô ấy không thể hầu ai cả. Cô ấy không làm đêm. Hãy tới gọi mụ Macseeva, và đừng làm náo loạn, tôi cảnh cáo anh đó.
Satov có nghe tiếng Virghinxki ráng ngăn chị, nhưng cô gái già này đang cơn thịnh nộ vẫn xua đuổi anh. Satov quát lại:
- Tôi nhất định không đi đó.
Cuối cùng Virghinxki đành hạ giọng nói với người chị:
- Xem nào - khoan đã, để tôi hỏi coi. Satov, anh đợi một chút. Tôi gọi Arina; nhưng đừng đập cửa và quát tháo nữa. Ôi, thật khủng khiếp quá chừng!
Sau năm phút dài dằng dặc, cuối cùng Arina Virghinxcaia hiện ra. Giọng chị phát ra từ cửa sổ:
- Vậy vợ anh đã về ở với anh à?
Satov ngạc nhiên thấy giọng của chị không chút khó chịu, chỉ trịch thượng thôi. Nhưng chị ăn nói thế đã quen thói mất rồi.
- Vâng, và nàng sắp sinh.
- Anh nói Maria?
- Maria chứ ai!
Im lặng một phút. Satov đợi chờ. Anh nghe thấy họ thì thầm với nhau trong nhà. Chị Arina Virghinxcaia lại hỏi:
- Vợ anh về bao lâu rồi?
- Hồi tám giờ tối nay. Chị lẹ lên cho.
Anh lại nghe họ bàn tán xì xào.
- Anh có chắc không? Có phải chính vợ anh bảo anh đến tìm tôi không?
- Vợ tôi không bảo tôi đến tìm chị; nàng chỉ cần một người đàn bà, một bà già nhà quê - ai cũng được. Nàng sợ tôi tốn kém nhiều. Nhưng chị đừng ngại, tôi sẽ trả đàng hoàng.
- Được rồi, tôi sẽ đến, dù anh có trả hay không. Tôi luôn luôn kính trọng đường lối suy tư độc lập của Maria, mặc dù chị không thể nhớ biết tôi là ai. Anh có những thứ cần thiết không?
- Chưa có gì hết, nhưng mọi thứ cần dùng tôi sẽ sắm đủ.
Trên đường tới nhà Liamsin, Satov nghĩ ngợi: “Hạng người như vậy mà có thể hào hiệp được kể cũng lạ lùng thật. Con người và niềm tin hoàn toàn khác biệt trên nhiều phương diện. Có lẽ ta đã xét đoán bọn họ bất công quá đáng! Mọi người đều có tội - tất cả chúng ta đều có tội và - a ha, nếu ai nấy đều đinh ninh được như vậy”.
Tại nhà Liamsin, Satov không phải đợi lâu, Satov ngạc nhiên thấy Liamsin tức tốc nhảy xuống giường, chỉ mặc áo ngủ, chân không chạy tới mở cửa sổ, chẳng ngại cảm cúm dễ như bỡn. Điều này thật lạ lùng đối với một người bo bo bảo vệ sức khỏe mình từng li từng tí và cứ tưởng tượng là mình dễ nhiễm đủ mọi bệnh tặt. Nhưng anh ta có một lí do đặc biệt để cảnh giác và gấp rút: sau cái hôm họp ở nhà Erkel, thần kinh Liamsin bị căng thẳng và anh ta không ngủ được; đầu óc anh ta lảng vảng sợ hãi những người khách bất chợt và bất đắc dĩ đến viếng. Anh ta đã lo ngại vô cùng khi nghe Satov có ý định chỉ điểm anh. Sau chót lại thêm tiếng đập cửa kinh hoàng như vậy. Anh ta quá sợ hãi khi thấy Satov, đến nỗi đóng sập cửa sổ lại cấp kì và chạy núp trong giường. Satov đập cửa sổ kêu gào dữ dội.
Liamsin thét lên dọa nạt, mặc dù tim anh ta đang đánh lô tô vì sợ:
- Đêm hôm khuya khoắt sao anh dám đến đây đập cửa như vậy?
Phải mất ít nhất hai phút lấy lại bình tĩnh trước khi anh quyết định mở cửa sổ lại, và đầu tiên anh phải coi cho chắc là Satov chỉ có một mình.
- Khẩu súng lục của anh đây - trả lại tôi mười lăm đồng rúp.
- Bộ anh say hay sao? Chuyện gì đây, ăn cướp à? Anh làm tôi sẽ bị cảm. Khoan, ít nhất để tôi khoác cái chăn lên vai đã.
- Đưa cho tôi mười lăm đồng rúp ngay, nếu không tôi sẽ ở đây la hét đập cửa tới sáng. Tôi sẽ đập tan tành cái cửa sổ.
- Tôi la làng và người ta bắt anh còng lại.
- Bộ anh tưởng tôi câm hay sao? Tôi cũng có thể gọi cảnh sát; và anh nghĩ coi ai phải sợ hơn ai, anh hay tôi?
- Chuyện anh tính làm thật đáng tởm! Tôi biết anh muốn ám chỉ gì. Trời ơi, đừng đập nữa, đừng - đừng. Nhưng ban đêm ban hôm như vậy tôi đào đâu ra tiền! Và anh cần tiền làm gì vào giờ này, nếu anh không say?
- Vợ tôi đã trở lại. Tôi chỉ đòi anh ít hơn giá tiền tôi đã mua của anh đến mười đồng, và tôi chưa hề bắn phát nào. Lấy khẩu súng đi - cầm mau đi không?
Chẳng nghĩ suy, Liamsin thò tay ra cửa lấy khẩu súng. Anh đứng cầm nó một giây, đoạn thình lình anh ló đầu ra cửa sổ và nói hổn hển như thể cơn run đang chạy suốt xương sống anh:
- Anh nói láo! Làm gì có chuyện vợ anh trở lại với anh. Anh chỉ tìm cách trốn khỏi tỉnh.
- Tôi chạy đi đâu? Đồ khùng. Chỉ có Piot’r của tụi bay bỏ trốn thì có. Để hắn chuồn; tôi thì không. Tôi vừa đi rước mụ, chị Arina Virghinxcaia, và chị ta chịu tới. Vợ tôi đang cơn chuyển bụng, chúng tôi cần tiền. Trả tôi mười lăm đồng rúp.
Đầu óc tráo trở của Liamsin lóe lên muốn vàn cơ hội như cả một trời pháo bông rực rỡ. Bây giờ anh thấy mọi sự vật với màu sắc khác hẳn, nhưng dù sao nỗi sợ hãi cũng còn làm tê liệt lí luận của anh.
- Nhưng chuyện ra làm sao? Anh nào có sống với vợ anh đâu?
- Ăn nói như vậy, tôi đập vỡ đầu anh ra.
- Ôi, trời thần ơi, tôi xin lỗi. Tôi chỉ quá sửng sốt - nhưng giờ tôi hiểu rồi. Nhưng chị Virghinxcaia có thực bằng lòng tới không? Anh bảo tôi là chị sẽ tới, phải không? Nhưng anh biết rõ là chuyện này không có thật. Vậy anh thấy không, anh không bỏ được nói láo. Tính đó ăn vào tận xương tủy anh rồi.
- Có lẽ chị ta đang ở với vợ tôi giờ này đây. Đừng để tôi đợi lâu. Tại anh ngu ngốc quá chứ đừng đổ lỗi tại tôi.
- Không phải vậy, tôi không có ngu đâu. Nhưng anh bỏ qua cho tôi, tôi thực sự không thể...
Và một lần nữa, anh không biết làm thế nào để tống khứ Satov khác hơn là đóng cửa sổ lại. Nhưng Satov hét lên đến nỗi Liamsin tức tốc ló đầu ra.
- Nhưng đây là sự vi phạm trắng trợn quyền công dân của tôi. Bây giờ anh đòi hỏi gì nào? Hãy trình bày yêu sách của anh cho rõ ràng. Và anh hãy nhớ là anh trình bày chúng giữa đêm khuya.
- Tôi đòi hỏi mười lăm đồng rúp, đồ ngu!
- Anh làm gì tôi nào, nếu tôi không muốn lấy khẩu súng lại? Anh không khiếu nại tôi được. Anh đã mua nó; chuyện xong xuôi rồi. Hơn nữa, làm sao tôi chạy ra tiền cho anh, giữa đêm giữa hôm như vậy. Anh muốn tôi lấy ở đâu?
- Tôi biết anh luôn luôn có tiền trong nhà. Tôi lại bớt anh mười rúp. Ai cũng biết anh là thằng hà tiện.
- Ngày kia, anh nghe, không - ngày kia, đúng mười hai giờ trưa, tôi trả anh không thiếu một xu nhỏ, chịu không?
Satov lại đập cửa.
- Bây giờ đưa tôi mười đồng, và mai, sáng sớm, năm đồng nữa.
- Ngày kia tôi đưa anh năm đồng, tôi thề là mai tôi không có được. Đừng nên đến, đừng nên...
- Đưa mười đồng đây, đồ hủi!
- Sao anh lại nhục mạ tôi vậy? Khoan, tôi phải đốt đèn. Coi này, anh đã làm bể kính!... Chưa từng nghe có ai nửa đêm đến hành hung người thế bao giờ! Đây này!
Liamsin đưa một tờ giấy bạc qua cửa sổ. Satov chộp lấy. Đó là tờ năm rúp.
- Tôi thề chỉ có bấy nhiêu. Anh có giết tôi, tôi cũng không có một xu mà đưa thêm. Tôi sẽ đưa hết cho anh đúng ngày kia, chứ bây giờ tôi chịu, không đào đâu ra được.
Satov gào lên:
- Tôi không đi!
- Được rồi, đây này, cầm đi. Nhưng tất cả có bấy nhiêu đó. Ngay như anh mà có la tét cả họng thì cũng có bấy nhiêu thôi - bấy nhiêu, chỉ bấy nhiêu!
Liamsin như bị lên cơn, tuyệt vọng và xuất mồ hôi hột. Những tờ bạc anh ta đưa cho Satov sau là giấy một đồng. Bây giờ Satov có trong tay bảy đồng.
- Chó má thật. Ngày mai tôi đến lấy nốt số tiền còn lại. Nếu không có tám đồng cho tôi, tôi đánh cho lòi phèo nghe không?
Liamsin nói lẹ, hổn hển:
- Nhưng mai sức mấy tìm tao có ở nhà, đồ ngốc.
Satov chạy đi; Liamsin la với theo:
- Này, khoan đã, đứng lại! Bây giờ anh hãy nói thật xem, vợ anh về ở với anh thật không? Làm ơn mà, tôi muốn biết.
- Đồ ngu!
Satov nhổ nước miếng và chạy hết tốc lực thẳng một mạch về nhà.
4Tôi phải lưu ý nơi đây là Arina Virghinxcaia chẳng biết chút gì về giải pháp được chấp thuận trong buổi họp ở nhà Erkel. Chồng chị về nhà chới với và chán nản, anh không dám hé môi câu chuyện đó. Tuy nhiên anh dằn lòng không được, mà phải kể ra lời cảnh cáo của Piot’r về ý định của Satov muốn chỉ điểm cả bọn; mặc dù, anh nói thêm, là anh không hoàn toàn tin Piot’r. Arina Virghinxcaia rất sợ hãi và đó là nguyên do chị chịu đi liền khi Satov đến rước, dù rằng chị mệt muốn chết, vì trọn đêm qua chị phải thức để đỡ một vụ sinh khó. Đầu óc chị luôn luôn tin tưởng rằng “đồ rác rưởi như Satov có thể làm bất cứ chuyện gì phản bội xã hội”; nhưng bây giờ sự trở lại của Maria làm thay đổi toàn thể bức tranh. Sự sợ hãi của Satov, giọng nói tuyệt vọng van lơn giúp đỡ chứng tỏ có sự biến đổi cảm nghĩ trong con người phản bội: một con người muốn phá tan chính mình để hủy diệt kẻ khác thì xem ra hay nghe chừng không thể nào như thế được. Và do đó Arina Virghinxcaia quyết định đích thân điều tra sự vụ. Quyết định này làm chồng chị vui sướng, thực vậy, anh chồng như thấy trút được gánh nặng trăm cân trên lưng. Anh còn bắt đầu hy vọng - Satov sẽ không xử sự như lời. Piot’r gán ghép cho.
Đúng như Satov mong mỏi, khi anh về Arina Virghinxcaia đã có mặt tại nhà với Maria. Chị vừa tới và đã mắng đuổi Kirillov đang lảng vảng dưới chân thang lầu. Chị lẹ làng tự giới thiệu với Maria, và Maria không nhớ ra chị. Chị thấy Maria bết bát nhất, nghĩa là tức giận, buồn nản và trong cơn “tuyệt vọng đớn hèn”; chị phải mất chừng năm phút mới chinh phục được thân chủ cố sức chống đối. Chị đang nói thì Satov bước vào.
- Tại sao chị cứ lải nhải không chịu tốn kém rước mụ. Thật là bậy bạ vô cùng, đó là ý tưởng sai lầm đối với trường hợp khác thường như chị hiện tại. Một bà già dốt nát cho chị quá lắm là năm chục phần trăm may mắn đến bờ bến an toàn khi gặp trúc trắc, và kế chị bị nhiều phiền hà hơn và tốn kém hơn là nhờ một cô mụ đắt giá. Hơn nữa, sao chị nghĩ là tôi ăn đắt. Chị có thể trả tôi sau, và tôi hứa không tính đắt chị đâu, trong khi tôi còn bảo đảm mẹ tròn con vuông. Với tôi, chị không có bề gì đâu. Tôi đã từng gặp nhiều trường hợp còn tệ hơn chị nữa kìa! Về phần đứa bé, nếu chị muốn tới có thể đưa nó vào viện dục anh ngày mai, và sau đó cho nó làm con nuôi một gia đình ở thôn quê là xong xuôi cả. Sau này khi chị cứng cáp, tìm nghề lương thiện làm ăn, và chẳng bao lâu chị có thể trả lại Satov chi phí ăn ở, mọi thứ tôn kém có là bao mà chị phải nghĩ ngợi.
- Không phải vậy - tôi không có quyển làm gánh nặng cho anh ấy.
- Đó là cảm nghĩ công dân rất phải lẽ, nhưng tôi bảo đảm với chị là Satov sẽ chẳng phải tốn kém mấy tí, nếu phải chi anh ấy chịu bỏ cái thói lập dị của anh ấy và biết điều một chút xíu. Anh ấy chỉ cần đừng làm cái trò điên rồ đập cửa nhà người ta và chạy khắp tỉnh la bài hãi. Nếu anh ấy không dằn lòng được, thì anh ấy cứ réo hết bác sĩ trong tỉnh thức dậy, như anh ấy đã đánh thức cả lũ chó ở phố tôi. Chẳng cần tới bác sĩ - tôi bảo đảm mọi sự, như tôi đã nói trước. Dù v