VỤ 1: GIẤC NGỦ SAY Phần I - 1 - Emma Emma
Thoạt nhìn, bà ta trông như nữ thánh. Hồi thập niên 1980, Dorothea Puente thuê nhiều phòng ở cho những người cao tuổi và khuyết tật ở Sacramento, California. Nhưng những người khách của bà bắt đầu mất tích. Người ta tìm thấy bảy thi thể chôn trong vườn. Sau khi phân tích độc dược pháp y, họ lần ra được những toa thuốc ngủ của bà ta. Puente bị buộc tội giết các khách trọ của mình hòng chiếm đoạt tiền lương hưu của họ để giải phẫu thẩm mỹ và mua áo quần đắt tiền với mong muốn duy trì hình ảnh người phụ nữ thượng lưu trong xã hội ở Sacramento. Bà bị cáo buộc sáu tội giết người và bị kết án ba trong số đó.
Năm 1998, khi đang chịu hai án chung thân, Puente bắt đầu cộng tác với một nhà văn tên là Shane Bugbee, và gửi cho ông ta những công thức nấu ăn. Về sau, chúng được xuất bản trong quyển sách với tên gọi Nấu ăn với Kẻ giết người hàng loạt.
Cứ việc bảo tôi điên, nhưng không đời nào tôi động vào mấy món đó đâu.
-1- EmmaNhìn đâu tôi cũng thấy những dấu hiệu của một cuộc vật lộn. Các lá thư rơi vãi khắp sàn nhà bếp, chiếc ghế đẩu lật nhào. Điện thoại rơi khỏi kệ, và pin treo lủng lẳng giữa đám dây xoắn. Có một dấu chân mờ ngay ngưỡng cửa phòng khách, hướng về thi thể con trai tôi, Jacob.
Nó nằm duỗi như con sao biển ngay trước lò sưởi. Máu loang đầy thái dương và cả hai tay. Tôi đứng đó một lúc, không thể cử động, không thể thở.
Đột nhiên, nó đứng dậy. “Mẹ, thậm chí mẹ còn không cố làm gì.”
Đây đâu phải chuyện thật, tôi tự nhủ, rồi nhìn nó lại nằm xuống đúng tư thế cũ, ngửa mặt lên và chân vặn qua trái.
“Ừ, có đánh nhau,” tôi nói.
Jacob khẽ nhếch miệng. “Và…?”
“Con bị đánh vào đầu.”
Theo lời Jacob đã bảo đến hàng trăm lần, tôi quỳ xuống và để ý thấy chiếc đồng hồ pha lê thường nằm trên mặt lò sưởi giờ ló ra dưới tràng kỷ. Tôi cẩn thận nhặt nó lên, thấy có máu vương ở góc. Tôi dùng ngón út khẽ chạm vào chất lỏng đó và nếm. “Ôi, Jacob, đừng bảo mẹ con lại dùng sirô bắp của mẹ…”
“Mẹ! Tập trung nào!”
Tôi ngồi xuống tràng kỷ với chiếc đồng hồ trong tay. “Kẻ trộm đột nhập, và con chống cự với chúng.”
Jacob ngồi dậy thở dài. Màu thực phẩm và sirô bắp bết trên mái tóc sẫm, đôi mắt nó rực lên, dù không nhìn thẳng vào mắt tôi. “Mẹ thực sự tin là con tạo cùng một hiện trường vụ án đến hai lần sao?” Nó mở nắm tay ra, và giờ tôi mới thấy một nhúm tóc mềm màu râu bắp. Bố của Jacob tóc vàng, hay ít nhất là trong trí nhớ của tôi trước khi anh bỏ ra đi mười lăm năm trước, để lại cho tôi Jacob và Theo, em trai tóc vàng của nó.
“Theo giết con?”
“Mẹ à, nhóc tì mẫu giáo cũng có thể phá vụ này, con nói thật đấy,” Jacob nói rồi bật người đứng dậy. Máu giả nhỏ giọt một bên mặt, nhưng nó chẳng để ý. Mỗi lúc tập trung hết mình phân tích hiện trường vụ án, thì dù có bom nguyên tử phát nổ bên cạnh, nó cũng chẳng nao núng. Jacob bước lại phía dấu giày nơi rìa thảm và đưa tay chỉ. Giờ tôi mới để ý thấy đó là dấu của đôi giày trượt ván Vans mà Theo đã dành dụm nhiều tháng để mua. Trên rìa thảm là chữ -NS- nửa sau của logo công ty in trên đế giày. “Có đụng độ trong nhà bếp,” Jacob giải thích. “Kết cục là con ném điện thoại để tự vệ, rồi bị rượt đuổi đến phòng khách, và ở đây Theo đóng gạch con.”
Tôi khẽ mỉm cười. “Con nghe được từ đó ở đâu thế?”
“Trong CrimeBusters, tập bốn mươi ba.”
“Nói cho con rõ nhé, nó có nghĩa là đấm ai đó. Chứ không phải là đánh họ bằng cục gạch.”
Jacob chớp chớp mắt, mặt ngây ra. Nó sống trong một thế giới tuyệt đối theo nghĩa đen, và đây là một trong những biểu hiện đặc trưng của hội chứng nó mắc phải. Nhiều năm về trước, khi chúng tôi chuẩn bị chuyển đến Vermont, nó hỏi nơi đó thế nào. “Nhiều cây cối, và đồi núi chao đảo,” tôi bảo. Đột nhiên, nó òa khóc, “Chúng không đè chúng ta chứ?”
“Nhưng động cơ là gì?” Tôi hỏi lại, và ngay lúc đó, Theo lao xuống cầu thang.
“Thằng khùng đâu rồi?” nó hét lên.
“Theo, con không được gọi anh con…”
“Con sẽ không gọi thế nữa, nếu như anh dừng ngay chuyện trộm đồ trong phòng con.” Tôi bước ra đứng giữa ngăn hai đứa, dù cho Jacob cao hơn tôi và Theo cả cái đầu.
“Anh không trộm thứ gì trong phòng em cả,” Jacob bảo.
“Ồ, thật hả? Vậy đôi giày của em đâu?”
“Chúng nằm ở hành lang cửa trước,” Jacob dè dặt nói.
“Thiểu năng,” Theo nói gằn, và tôi thấy mắt Jacob bừng bừng.
“Anh không thiểu năng,” nó gầm gừ, và lao đến em mình.
Tôi dang tay ra chặn nó lại. “Jacob, con không được lấy gì của Theo mà không hỏi ý em. Và Theo, mẹ không muốn nghe cái từ đó nữa, nếu không mẹ sẽ lấy đôi giày của con ném vào sọt rác. Rõ chưa?”
“Con đi đây,” Theo lúng búng, rồi lê chân đi tìm đôi giày. Không lâu sau, tôi nghe tiếng cửa đóng sầm.
Tôi theo Jacob vào bếp và xem nó lúi cúi đi về một góc phòng. “Vấn đề ở đây,” Jacob lầm bầm, và giọng nó đột nhiên lè nhè, “là… không thể giao tiếp.” Nó ngồi thụp xuống, hai tay ôm gối.
Khi không tìm được từ để diễn tả cảm giác của mình, Jacob mượn từ của người khác. Câu vừa rồi là của Cool Hand Luke. Jacob nhớ hết lời thoại trong tất cả những phim nó từng xem.
Tôi đã gặp rất nhiều bậc cha mẹ có con cái bị tự kỷ ở mức độ trầm trọng nhất, những đứa trẻ hoàn toàn trái ngược với Jacob. Con tôi mắc hội chứng Asperger. Người ta bảo tôi may mắn khi có đứa con trai rất nhanh miệng, thông minh, sắc sảo, có thể tháo rời chiếc lò vi sóng hư và chỉ mất một giờ để làm nó hoạt động trở lại. Họ nghĩ không có gì khủng khiếp hơn là có một đứa con khóa mình trong thế giới riêng của nó, không hề biết bên ngoài kia còn có một thế giới rộng lớn hơn để khám phá. Nhưng bạn thử có một đứa con bị khóa trong thế giới riêng của nó nhưng vẫn muốn nối kết với bên ngoài mà xem. Một đứa con cố gắng để giống với mọi người, nhưng lại thực sự chẳng biết làm cách nào.
Tôi cúi người xuống định vỗ về nó, nhưng rồi kìm lại. Một cái chạm nhẹ cũng có thể khiến Jacob nổ tung. Nó không thích bắt tay, cũng không thích ai vỗ vai hay vuốt tóc nó. “Jacob,” tôi nói, rồi nhận ra không hẳn là nó đang buồn bực. Nó cầm trên tay ống nghe điện thoại, uốn cong, và tôi thấy một vết đen mờ trên rìa ống. “Mẹ còn bỏ sót một vân tay,” Jacob hớn hở nói.
“Không có ý gì đâu, nhưng con sẽ là một thám tử điều tra khá ồn ào đấy,” tôi nhận xét.
Nó lấy một miếng khăn giấy, nhúng vào bồn rửa. “Mẹ đừng lo, con sẽ lau hết vết máu.”
“Con chưa cho mẹ biết động cơ khiến Theo muốn giết con.
“À.” Jacob ngoái lui nhìn tôi với nụ cười bí hiểm. “Con đã trộm giày của nó.”
Tôi nghĩ, hội chứng Asperger không phải để nói về đặc tính của Jacob cho bằng về đặc tính mà nó đã mất. Khoảng lúc hai tuổi, nó bắt đầu ít nói, bớt nhìn vào mắt người khác, và tránh giao tiếp với mọi người. Nó không thể nghe được chúng tôi, hoặc là không muốn nghe. Một ngày nọ, tôi nhìn nó nằm trên sàn cạnh chiếc xe tải đồ chơi. Nó đang xoay mấy bánh xe, dí mặt sát vào chúng. Tôi chợt nghĩ, Con đâu mất rồi?
Tôi tìm cách biện minh cho hành vi của Jacob. Với tôi, việc nó rúc vào đáy xe hàng mỗi khi chúng tôi đi mua sắm là bởi trong siêu thị quá lạnh. Và tôi tháo những chiếc khuy ra khỏi áo quần nó là bởi chúng quá sắc nhám. Khi dường như nó không thể kết thân với bất kỳ đứa trẻ nào ở trường mẫu giáo, tôi đã tổ chức cho Jacob một tiệc sinh nhật không giới hạn khách khứa, với bóng nước và đủ trò chơi. Tiệc được khoảng nửa tiếng, tôi bỗng nhận ra Jacob đi đâu mất. Lúc đó tôi đang mang bầu sáu tháng và bị hoảng loạn. Các ông bố bà mẹ khác bắt đầu giúp tôi tìm kiếm khắp sân, trong nhà và ngoài đường. Nhưng tôi là người tìm thấy nó, đang ngồi dưới tầng hầm, cứ liên tục mở ra lắp vào chiếc băng casette.
Khi nghe bác sĩ chẩn đoán cho Jacob, tôi đã bật khóc. Hồi đó là năm 1995, và kinh nghiệm duy nhất của tôi về chứng tự kỷ là qua anh chàng Dustin Hoffman trong phim Rain Man. Theo bác sĩ tâm lý đầu tiên mà chúng tôi tìm gặp, thì Jacob bị suy giảm hành vi và giao tiếp xã hội, nhưng lại không bị hạn chế về ngôn ngữ, vốn là một biểu hiện đặc trưng của các dạng tự kỷ khác. Nhiều năm về sau chúng tôi mới biết đến cái tên Hội chứng Asperger. Hầu như chẳng có ai nghĩ đến chứng này khi chẩn đoán cho Jacob. Nhưng lúc đó, tôi đã có Theo, và Henry, chồng cũ của tôi cũng đã bỏ đi. Anh là lập trình viên máy tính làm việc tại nhà, và anh không thể chịu nổi những cơn náo động Jacob gây ra mỗi khi có gì kích động nó, dù đó chỉ là một ánh sáng nhẹ trong phòng tắm, tiếng xe tải đi qua đường sỏi, hay thậm chí là hình dạng ngũ cốc ăn sáng của nó. Rồi tôi lại hoàn toàn chú tâm vào việc tìm cho Jacob những trị liệu viên can thiệp, là hàng đoàn người đến nhà chúng tôi để tìm cách đưa nó ra khỏi thế giới riêng nhỏ bé của mình. “Anh muốn cái nhà này như cũ,” Henry bảo thế, “Anh muốn em như cũ.”
Lúc đó, tôi đã để ý thấy, với các biện pháp trị liệu hành vi và ngôn ngữ, Jacob bắt đầu giao tiếp trở lại. Tôi thấy rõ sự tiến triển. Và vì thế, tôi thậm chí còn không thấy có gì phải lựa chọn.
Vào đêm Henry bỏ đi, Jacob và tôi đang ngồi trong bếp chơi trò chơi. Tôi làm vẻ mặt, và nó cố gắng đoán xem đấy là cảm xúc gì. Tôi cười, dù cho nước mắt chảy chan chứa trong lòng, và chờ Jacob bảo rằng tôi đang hạnh phúc.
Henry sống với gia đình mới của anh ở Thung lũng Silicon. Anh làm việc cho Apple và hiếm khi nói chuyện với bọn trẻ, dù cho đều đặn tháng nào anh cũng gửi ngân phiếu để hỗ trợ nuôi con. Nhưng Henry luôn luôn giỏi sắp xếp công việc. Và những con số nữa. Thuở chúng tôi hẹn hò, khả năng ghi nhớ trọn bài báo trên tờ New York Times và đọc lại đúng từng chữ một của anh, thật quá đỗi hấp dẫn theo kiểu hàn lâm học sĩ. Nhưng nó hoàn toàn khác biệt với cách Jacob ghi nhớ toàn bộ chương trình tivi lúc mới sáu tuổi. Phải nhiều năm sau khi Henry bỏ đi, tôi mới lờ mờ nhận ra chính anh cũng có dấu hiệu chứng Asperger.
Còn nhiều tranh cãi về việc hội chứng Asperger có phải là tự kỷ không, nhưng tôi nói thật, chuyện đó chẳng thành vấn đề. Nó là một thuật ngữ mà chúng tôi dùng để thuận tiện hóa những điều Jacob cần ở trường, chứ không phải một cái mác để giải thích con người nó. Nếu lúc này bạn gặp thằng bé, bạn sẽ chú ý thấy ngay rằng nó dường như quên thay chiếc áo đã mặc từ hôm qua, hoặc quên chải tóc. Nếu nói chuyện với nó, bạn sẽ phải là người bắt chuyện. Nó sẽ không nhìn thẳng vào mắt bạn đâu. Và nếu bạn dừng lại để nói chuyện với ai khác dù chỉ một chút, thì khi quay lại bạn sẽ chẳng thấy Jacob nữa.
Hôm thứ Bảy, tôi và Jacob đi mua thực phẩm.
Đây là một phần trong lịch trình của nó, nghĩa là chúng tôi hiếm khi bỏ lỡ hay chậm trễ việc này. Bất kỳ chuyện gì mới đều phải được giới thiệu hay chuẩn bị trước, dù đó là một buổi gặp nha sĩ, một chuyến dã ngoại hay một du học sinh mới nhập vào lớp toán của nó lúc giữa kỳ. Tôi biết Jacob sẽ dọn sạch hiện trường vụ án giả của nó trước mười một giờ, bởi đấy là lúc Cô Mẫu thử Miễn phí bày chiếc bàn của mình ra trước mặt Siêu thị Thực phẩm Townsend. Bây giờ, cô đã quen mặt Jacob và thường cho nó hai bánh cuộn trứng nhỏ hay những miếng bruschetta, hay bất kỳ cái gì cô làm trong tuần đó.
Theo vẫn chưa về, nên tôi để lại cho nó một mảnh giấy, dù thằng bé cũng biết rõ lịch trình như tôi vậy. Lúc tôi lấy ví và áo khoác, Jacob đã yên vị nơi băng ghế sau. Nó thích chỗ đó, bởi có thể nằm soài ra. Jacob chưa có bằng lái, dù cho chúng tôi thường phải tranh luận chuyện này, bởi dù gì nó đã mười tám tuổi và đáng ra có thể thi lấy bằng từ hai năm trước. Nó biết hết cơ chế hoạt động của đèn giao thông, và có thể tháo chúng ra rồi lắp vào, nhưng tôi không thể nào hoàn toàn yên tâm về Jacob, bởi có lẽ khi gặp vài chiếc xe đang chạy đến từ nhiều hướng, không biết nó có thể nhớ lúc nào nên đứng hay đi không nữa.
“Con còn bài tập về nhà nào nữa không? Tôi hỏi, khi chúng tôi lái vào xa lộ.
“Ngữ văn ngu ngốc.”
“Ngữ văn không ngu ngốc,” tôi bảo.
“Vậy thì, thầy giáo Ngữ văn ngu ngốc.” Nó nhăn mặt họa lại ông thầy. “Thầy Franklin ra để bài viết về một subject[1] yêu thích, và con muốn viết về bữa trưa, nhưng thầy không cho.”
“Tại sao không?”
“Thầy bảo nó không phải subject.”
Tôi nhìn qua Jacob. “Đúng là không phải.”
“Vậy,” Jacob nói, “nó cũng không phải là vị ngữ. Chẳng lẽ thầy không biết thế sao?”
Tôi phải nín cười. Bản năng hiểu nghĩa đen của Jacob, tùy theo hoàn cảnh, có thể rất khôi hài hoặc rất bực mình. Nhìn vào gương, tôi thấy nó đang dí ngón tay cái vào cửa sổ xe. “Trời quá lạnh để lưu lại dấu vân tay,” tôi buột miệng nói, một chuyện mà Jacob đã chỉ cho tôi.
“Nhưng mẹ biết vì sao không?”
“À,” tôi nhìn nó, “Chứng cứ tiêu tan khi nhiệt độ xuống dưới âm?”
“Trời lạnh ngăn mồ hôi tiết ra,” Jacob nói, “sự bài tiết giảm xuống, thế nghĩa là không có gì để dính vào bề mặt và để lại dấu trên lớp kính.”
“Mẹ cũng đoán thế đấy,” tôi đùa.
Tôi thường gọi Jacob là thiên tài nhỏ của mẹ, bởi từ lúc còn nhỏ, nó đã phun ra hàng tràng giải thích kiểu thế đấy. Tôi nhớ có lần, khi được bốn tuổi, Jacob đang đứng đọc biển hiệu của một ông bác sĩ, thì người đưa thư đi ngang qua. Ông này không thể rời mắt khỏi nó, nhưng mà dù gì thì một đứa trẻ chưa đi học lại đọc được từ Vị tràng học rõ ràng rành mạch, không phải là chuyện ngày nào cũng gặp.
Khi tấp xe vào bãi, tôi bỏ qua một chỗ đỗ tốt, bởi chẳng may nó nằm kế một chiếc xe màu cam sáng, và Jacob lại không thích màu cam. Tôi có thể cảm thấy nó nín thở và chỉ thở hắt ra khi chúng tôi lái ngang qua chiếc xe đó. Chúng tôi ra khỏi xe, Jacob chạy đi lấy xe đẩy, rồi hai mẹ con vào.
Chỗ thường lệ của Cô Thử Miễn phí giờ trống không.
“Jacob,” tôi nói ngay, “không phải chuyện gì to tát đâu.”
Nó cúi xuống nhìn đồng hồ. “Giờ là 11:30. Cô ấy đến lúc 11:00 và đi lúc 12:00.”
“Hẳn phải có chuyện gì rồi,” tôi nói.
“Giải phẫu viêm chân,” một nhân viên đang chất từng thùng cà rốt, nói vọng vào. “Bốn tuần nữa, cô ấy sẽ trở lại.”
Jacob bắt đầu lấy tay đập vào đùi. Tôi nhìn quanh cửa hàng, tính toán trong đầu xem liệu tôi có gây ồn ào khi cố gắng kéo Jacob ra khỏi đây trước khi những kích động của nó nổ bùng, hoặc tôi có thể nói chuyện để nó dịu lại. “Con biết cô Pinham đã phải nghỉ dạy ba tuần vì bị zona, và cô đã không thể báo trước cho con chứ? Chuyện này cũng vậy.”
“Nhưng giờ là 11:15,” Jacob nói.
“Cô Pinham đã khỏe lên, phải chứ? Và mọi chuyện trở lại bình thường.”
Đến lúc này, anh chàng xếp cà rốt đã bắt đầu nhìn chúng tôi chằm chằm. Sao lại không cơ chứ? Jacob trông như một thanh niên hoàn toàn bình thường. Nó toát lên nét thông minh rõ ràng. Nhưng khi lịch trình trong ngày bị gián đoạn, Jacob sẽ rơi vào cảm giác hệt như lúc bạn bất thần được yêu cầu nhảy bungee từ tháp chọc trời vậy.
Khi tiếng gầm gừ bắt đầu thoát ra khỏi cổ họng Jacob, tôi biết là không còn đường lùi nữa rồi. Nó bước lùi lại, va vào một giá đầy lọ nước dầm và gia vị. Vài chai rơi xuống nền nhà, và tiếng thủy tinh vỡ như kích nổ cơn bùng phát của nó. Bất thần, Jacob hét lên, một nốt cao tột độ vốn đã là bản nhạc nền cho bộ phim cuộc đời tôi. Nó bước đi như người mù, đánh cả vào tôi khi tôi cố đến gần.
Chỉ ba mươi giây, nhưng ba mươi giây có thể là mãi mãi khi bạn bị tất cả mọi người chăm chăm nhìn vào, khi bạn đang vật đứa con trai cao mét tám xuống sàn, và ghìm chặt nó bằng hết trọng lượng cơ thể mình, áp lực duy nhất có thể xoa dịu nó. Tôi kề miệng sát tai Jacob.“Tôi đã bắn cảnh sát trưởng,” tôi hát. “Nhưng không bắn cảnh sát phó…”
Từ khi còn nhỏ, lời nhạc của Bob Marley đã có tác dụng xoa dịu nó. Có nhiều lúc, tôi hát bài này 24 tiếng một ngày, chỉ để giữ nó bình tĩnh, và ngay cả Theo cũng thuộc hết lời bài hát từ khi mới lên ba. Cơ bắp Jacob mềm đi, và đôi cánh tay nó thả lỏng hai bên mình. Một giọt nước mắt ứa ra từ khóe mắt nó. “Tôi đã bắn cảnh sát,” nó thì thầm,“nhưng tôi thề tôi chỉ tự vệ.”
Tôi dùng cả hai bàn tay giữ mặt nó nhìn thẳng vào mắt tôi. “Ổn rồi chứ?”
Jacob ngập ngừng, như thể nó đang làm một bản kê khai nghiêm trọng vậy. “Rồi.”
Tôi ngồi dậy, vô thức quỳ gối giữa vũng nước dầm. Jacob cũng ngồi dậy, hai tay bó gối sát vào ngực.
Mọi người đã quây quanh chúng tôi. Ngoài anh chàng chất cà rốt, còn có giám đốc cửa hàng, vài người đi mua sắm và hai cô bé sinh đôi giống nhau đến từng nốt tàn nhang trên má, tất cả đều nhìn chằm chằm vào Jacob với sự tò mò, kinh hãi và thương hại cấu xoáy chúng tôi. Jacob chẳng làm hại một con ruồi, cả theo nghĩa đen. Tôi từng thấy nó khum bàn tay quanh một con nhện suốt chuyến xe dài ba tiếng đồng hồ, để khi đến nơi, nó có thể thả con nhện ra khỏi xe. Nhưng nếu gặp một người lạ, và lại là một người cao lớn lực lưỡng làm loạn cả lên, thì bạn sẽ chẳng nghĩ anh ta đang tuyệt vọng đâu. Bạn sẽ nghĩ anh ta là người thô bạo.
“Nó bị tự kỷ,” tôi nói ngay. “Các người có muốn hỏi gì không?”
Tôi thấy nổi giận là hiệu quả nhất. Nó là luồng điện giật để họ quay cái nhìn chằm chằm của mình đi nơi khác. Như thể chưa có chuyện gì xảy ra, những người đi mua sắm lại tiếp tục chọn cam và cho những quả ớt chuông vào giỏ. Hai cô bé sinh đôi lao xuống dãy hàng bơ sữa. Anh chàng chất cà rốt và ông giám đốc không còn nhìn nhau nữa, và với tôi thế là được rồi. Sự tò mò không lành mạnh của họ thì tôi xử lý được, nhưng lòng tốt của họ mới là thứ có thể khiến tôi sụp đổ.
Jacob nấp sau lưng khi tôi đẩy xe hàng đi. Nó giữ chặt bàn tay vẫn còn đang co giật nhẹ vào người.
Điều tôi ao ước nhất cho Jacob chính là mong muốn những khoảnh khắc như thế này không xảy đến.
Tôi sợ nhất là khi chúng xảy đến và tôi thì không phải lúc nào cũng ở đó để giữ mọi người đừng nghĩ những điều xấu nhất về con trai.