← Quay lại trang sách

- 2 - Theo

Tôi đã mang hai mươi bốn mũi khâu trên mặt, nhờ phúc anh trai tôi đấy. Mười mũi để lại sẹo nơi lông mày trái là do Jacob đánh tôi ngã rơi khỏi ghế lúc tôi mới tám tháng tuổi. Mười bốn mũi khác ở cằm tôi là từ Giáng Sinh năm 2003, khi tôi quá phấn khích vì vài món quà vớ vẩn nên đã vày vò mớ giấy gói, và tiếng động đó khiến Jacob lên cơn. Lý do tôi kể cho bạn chuyện này thật ra chẳng liên quan gì đến anh trai tôi. Mà là bởi mẹ tôi sẽ bảo bạn rằng Jacob không bạo lực, nhưng chính tôi đây là bằng chứng sống cho bạn thấy rằng mẹ chỉ đang tự đánh lừa mình.

Tôi phải bỏ qua cho Jacob, đấy là một trong những luật bất thành văn trong nhà chúng tôi. Và vì thế mà khi thấy một biển báo màu cam, chúng tôi phải đi tránh sang hướng khác, chỉ bởi nó màu cam, và bởi nó quan trọng hơn cả chuyện tôi đi học trễ đến mười phút. Jacob luôn là người được đi tắm trước, bởi cả trăm triệu năm trước, khi tôi còn nhỏ xíu, Jacob đã là người đi tắm trước, và anh không chịu nổi khi lệ thường của mình bị xáo trộn. Lúc mười lăm tuổi, tôi được hẹn đến lấy giấy học lái xe máy, rồi phải hủy chuyện đó chỉ bởi Jacob lên cơn sau khi mua một đôi giày thể thao mới, và tôi cũng phải hiểu rằng những chuyện như thế này không có gì lạ. Chuyện lạ là, trong ba lần tiếp theo tôi cố thuyết phục mẹ lấy cho tôi bằng lái xe máy, luôn có chuyện xảy ra, và cuối cùng tôi chẳng buồn xin nữa. Với tình hình này, chắc tôi sẽ đi ván trượt đến lúc ba mươi tuổi mất.

Có lần khi còn nhỏ, anh em tôi chơi thuyền hơi bên bờ hồ gần nhà. Tôi phải lo canh chừng Jacob, dù cho anh đã theo đủ các bài học bơi giống như tôi, lại còn hơn tôi ba tuổi. Chúng tôi lật úp chiếc thuyền hơi rồi bơi dưới đó, trong khối khí cô đặc và ẩm ướt. Jacob bắt đầu nói về khủng long, một chuyện đã mở ra là anh chẳng bao giờ ngậm miệng được. Đột nhiên tôi bắt đầu thấy lo. Anh đang hút hết oxy trong không gian nhỏ xíu này. Tôi đẩy chiếc thuyền, cố gắng lật nó ra, nhưng lớp nhựa bám trên mặt nước như có keo dính, và tôi càng hốt hoảng hơn nữa. Chắc chắc khi nhìn lại, tôi biết tôi có thể lặn dưới đáy thuyền để bơi ra, nhưng lúc đó không hiểu sao tôi chẳng nghĩ đến chuyện này. Lúc đó, tôi chỉ biết là tôi không thở được. Khi mọi người hỏi tôi lớn lên với một người anh mắc chứng Asperger là thế nào, một chuyện mà tôi cũng luôn nghĩ đến, thì tôi chỉ biết có một câu trả lời, tôi chưa từng được biết cuộc sống không có người anh như vậy là thế nào.

Tôi không phải vị thánh. Nhiều lần tôi làm những việc khiến Jacob nổi điên, chỉ bởi đó là chuyện quá dễ làm. Như lúc tôi lẻn vào phòng và xáo tung áo quần của anh. Hay khi tôi giấu ống kem để anh không thể để nó lại chỗ cũ sau khi đánh răng. Nhưng sau những lúc như thế, tôi lại thấy tội cho mẹ, bởi mẹ thường là người gánh hết hậu quả từ cơn điên của Jacob. Nhiều lần tôi nghe thấy mẹ khóc, lúc mẹ tưởng tôi và Jacob đã ngủ rồi. Lúc đó, tôi mới nhớ ra, cũng như tôi, mẹ đã không chọn sống cuộc sống thế này.

Vì thế, tôi phải can thiệp. Những lúc anh bắt đầu làm mọi người sợ vì nói chuyện quá hăng, tôi là người lôi Jacob đi, theo nghĩa đen ấy. Khi anh cứ đập tay vì bồn chồn trên xe buýt, tôi bảo anh dừng lại, bởi nó khiến anh trông như thằng đần. Trước khi đến lớp, tôi ghé qua lớp của anh, chỉ để cho thầy giáo của Jacob biết là sáng nay anh không được ổn bởi nhà chúng tôi bất ngờ hết sạch sữa đậu nành. Nói cách khác, tôi đóng vai người anh cả trong nhà, dù cho đáng ra đó là phần của Jacob. Và những lúc thấy chuyện này thật bất công, lúc sôi máu lên, tôi chỉ tránh đi. Nếu lúc đó không ở gần phòng mình, thì tôi sẽ lấy ván và trượt đi đâu đó, nơi nào cũng được miễn không phải là nơi mà tôi gọi là nhà này.

Và chiều hôm nay, tôi cũng đang làm thế, sau khi anh trai tôi quyết định biến tôi thành kẻ thủ ác trong hiện trường vụ án giả của mình. Tôi sẽ thành thật với các bạn, tôi sôi máu không phải vì anh ấy lấy giày của tôi mà không hỏi trước, hay vì anh ấy thó lấy tóc từ chiếc lược của tôi (một chuyện rõ ràng thật sởn gai ốc hệt như trong phim Sự im lặng của bầy cừu.) Mà là vì khi thấy Jacob nằm trong bếp lấm lem máu và vết thương giả trên đầu, cũng như toàn bộ chứng cứ quy về tôi, trong một thoáng, tôi đã nghĩ. Tôi ước ao.

Nhưng tôi không được nói ra, rằng cuộc đời tôi sẽ dễ chịu hơn nếu không có Jacob. Tôi còn không được phép nghĩ đến chuyện đó. Đấy là một trong những luật bất thành văn trong nhà tôi. Vậy nên tôi lấy áo mưa và đi, dù cho bên ngoài trời đang là sáu độ âm và gió thổi như dao cắt vào mặt tôi. Tôi ghé qua công viên trượt ván, nơi duy nhất trong thị trấn vớ vẩn Townsend ở Vermont này cảnh sát cho phép lũ nhóc chúng tôi được chơi, dù cho nó cũng chẳng ích gì vào mùa đông, cũng như suốt chín tháng còn lại trong năm.

Đêm qua trời đổ tuyết phải đến năm phân, nhưng lúc tôi đến nơi, vẫn có một đứa chơi ván trượt tuyết đang cố làm cú Ollie xuống cầu thang. Bạn của nó đang quay lại cú trượt bằng điện thoại. Tôi nhận ra chúng học cùng trường với mình, nhưng khác lớp. Tính cách tôi phần nào đi ngược lại chuyện trượt ván. Tôi theo đủ khóa học nâng cao và có điểm trung bình loại giỏi. Tất nhiên, chuyện đó khiến tôi thành con hủi của bọn trượt ván, đồng thời cách ăn mặc và việc tôi thích trượt ván lại khiến tôi thành con hủi của bọn đàng hoàng.

Đứa trượt ván ngã nhào. “Tớ đang đăng nó lên Youtube đấy,” đứa bạn của nó nói ngay.

Tôi bỏ qua công viên trượt ván và đi thẳng vào thị trấn, đến con đường uốn cong như vỏ ốc. Ngay trung tâm con đường xoắn ốc này là một ngôi nhà lòe loẹt, người ta bảo nó là kiến trúc thời Victoria. Căn nhà màu tím này bên hông có một tháp pháo. Tôi nghĩ đó là điều khiến tôi ngoái lại nhìn lúc lần đầu đi ngang qua. Ý tôi là, ai lại xây tháp pháo trên nhà mình chứ. Nhưng sống trong tháp pháo đó là một cô bé trạc mười hay mười một tuổi, và nó có một đứa em khoảng sáu tuổi. Mẹ chúng lái một chiếc bán tải Toyota màu xanh, bố chúng hẳn là bác sĩ, bởi tôi đã hai lần thấy ông đi làm về trong bộ đồ phòng mổ.

Gần đây tôi hay đến đó. Thường thì tôi nấp ở trước cửa sổ lồi nhìn vào phòng khách. Tôi có thể thấy khá rõ mọi thứ, thấy chiếc bàn phòng khách nơi bọn trẻ làm bài tập. Thấy căn bếp, nơi mẹ chúng nấu ăn. Có lúc bà mở hé cửa sổ, và tôi gần như nếm được món ăn của họ.

Nhưng chiều nay lại không có ai ở nhà. Chuyện này khiến tôi thấy bức bối. Dù đang là ban ngày, dù xe cộ vẫn chạy ngược xuôi trên đường, tôi vẫn cứ bước vào sân sau nhà, và ngồi trên xích đu. Tôi xoắn sợi xích rồi gỡ ra, dù cho tôi đã quá lớn cho trò này. Rồi tôi bước lại hành lang sau nhà, và thử mở cửa.

Nó mở thật.

Đây là chuyện sai trái, tôi biết thế. Nhưng dù vậy, tôi vẫn đi vào trong nhà.

Tôi cởi giày theo phép lịch sự, rồi để chúng trên tấm thảm ở lối cửa, rồi đi vào bếp. Trong bồn rửa, có vài bát ngũ cốc. Tôi mở tủ lạnh, và nhìn vào những hộp nhựa chất đống trong đó. Có món lasagna dùng dở. Tôi lấy một hũ bơ đậu và hít một hơi. Tôi không biết mình đang tưởng tượng hay đúng thật là nó thơm hơn hũ bơ Jif ở nhà mình. Tôi lấy ngón tay khoắng một miếng và nếm thử. Rồi dù cho tim đập mạnh, tôi đem chiếc hũ về phía bàn, lấy thêm một hũ mứt Smucker. Tôi lấy hai lát từ ổ bánh trên bàn, và lục lọi trong hộc đến khi tìm được muỗng nĩa. Tôi tự làm cho mình một chiếc sandwich ngay trong căn bếp này, như thể đấy là chuyện thường tình nhất vậy.

Rồi tôi ngồi xuống chiếc ghế mà con bé vẫn luôn ngồi ăn. Tôi ăn bánh và hình dung mẹ tôi từ bếp đi ra với một chú gà tây nướng trên đĩa. “Bố ơi,” tôi gọi to về phía chiếc ghế trống bên trái, vờ như tôi có một người bố thật sự chứ không phải một ông góp vốn tinh trùng mang mặc cảm tội lỗi tháng nào cũng gửi ngân phiếu đến.

Ở trường thế nào? Ông sẽ hỏi tôi thế.

“Con được điểm tối đa bài kiểm tra sinh học.”

Không thể tin nổi. Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu con vào học trường y như bố đâu.

Tôi lắc lắc, cố giũ những ý nghĩ này ra khỏi đầu. Tôi cũng đã tưởng tượng mình tham dự một chương trình sitcom trên truyền hình, hay hình dung mình là kiểu người phức tạp siêu chuẩn.

Ban đêm, Jacob thường đọc cho tôi nghe. Mà, cũng không hẳn. Anh đọc cho mình thì đúng hơn, và cũng không hẳn anh đọc mà là nói lại những gì mình nhớ, và tôi chỉ tình cờ ở trong cùng địa điểm đó, nên không còn cách nào khác ngoài lắng nghe. Dù vậy, tôi thích chuyện đó. Khi nói chuyện, Jacob lên xuống giọng như thể mỗi câu là một bài hát. Cái kiểu này có vẻ quái lạ khi nói chuyện bình thường, nhưng khi đọc chuyện cổ tích thì lại rất được. Tôi còn nhớ mình từng nghe câu chuyện về Goldilocks và ba con gấu, và tôi nghĩ con bé đó thật đúng là đứa thất bại. Nếu nó cư xử cho đàng hoàng, có lẽ nó đã được ở lại rồi.

Năm ngoái, khi vào trường trung học trong vùng, tôi có cơ hội làm lại từ đầu. Có mấy đứa mới chuyển đến từ các thị trấn khác, chúng chẳng biết gì về tôi. Suốt tuần đầu tiên, tôi đi chơi với hai đứa như thế, Chad và Andrew. Chúng học lớp Phương pháp học với tôi và cũng có vẻ khá ngầu, hơn nữa chúng sống ở Swanzey chứ không phải Townsend này và như thế là chưa từng gặp anh trai tôi. Chúng tôi cười cái quần cụt lủn của thầy giáo môn khoa học, và ngồi với nhau trong giờ ăn trưa. Chúng tôi còn lên kế hoạch đi xem phim, nếu như có phim hay vào dịp cuối tuần. Nhưng rồi một hôm nọ, Jacob ghé qua căng tin, bởi anh làm xong bài tập vật lý trong thời gian ngắn đến quái lạ và thầy giáo cho anh ra ngoài, thế là anh tìm thẳng đến tôi. Tôi giới thiệu anh và bảo anh là đàn anh khóa trên. Đấy là sai lầm đầu tiên của tôi, bởi Chad và Andrew quá phấn khích khi được ngồi chơi với một anh khóa trên, nên chúng bắt đầu hỏi chuyện Jacob, xem anh học lớp mấy và anh có nằm trong đội thể thao nào không. “Mười một,” Jacob trả lời, rồi anh bảo chúng là anh không thực sự thích thể thao. “Anh thích pháp y. Các em có từng nghe biết về Tiến sĩ Henry Lee?” Rồi anh nói một mạch suốt mười phút về nhà tội phạm học ở Connecticut đã làm việc trong những vụ án lớn như của O. J. Simpson, Scott Peterson và Elizabeth Smart. Tôi cho là đến đoạn anh dạy chúng về mẫu vết máu, Chad và Andrew đã khiếp vía hết cả rồi. Không cần phải nói, ngày hôm sau khi chúng tôi chọn bạn thử nghiệm trong lớp Phương pháp học, chúng tránh xa tôi ngay tắp tự.

Ăn xong cái bánh, tôi đứng dậy khỏi bàn và lên cầu thang. Phòng đầu tiên trên lầu là của thằng nhóc, và trên tường dán đầy hình khủng long. Khăn trải giường của nó đầy thằn lằn bay huỳnh quang, và một con khủng long bạo chúa điều khiển từ xa nằm trên nền. Tôi bỗng sững người một lúc. Có lần Jacob cũng mất trí vì khủng long, hệt như bây giờ anh đang mất trí vì khoa học pháp y vậy. Không rõ liệu thằng nhóc này có thể nói cho bạn biết về con khủng long thần chết tìm thấy ở Utah, với móng vuốt dài đến gần 40cm trông như thể bước ra từ một bộ phim kinh dị cho con nít hay không? Hay nó có biết về bộ xương khủng long gần như hoàn chỉnh đầu tiên, của một con khủng long mỏ vịt được tìm thấy ở New Jersey năm 1858 hay không?

Không, nó chỉ là một đứa nhóc, chứ không phải một đứa nhóc mắc chứng Asperger. Chỉ cần nhìn qua cửa sổ và xem gia đình họ vào buổi đêm, là tôi đã thấy thế rồi. Tôi biết, bởi căn bếp với những bức tường màu vàng ấm áp này là nơi tôi muốn ở chứ không phải muốn chạy trốn.

Đột nhiên, tôi nhớ lại một chuyện. Cái ngày tôi và Jacob đang chơi trong hồ dưới chiếc thuyền phao, khi tôi bắt đầu kinh hoảng bởi không thở được và chiếc thuyền lại úp chặt trên chúng tôi, Jacop đã mở lỗ thoát khí của thuyền phao phía trên, và quàng tay quanh ngực tôi, đưa tôi lên cao để tôi có thể hít lấy từng ngụm không khí. Anh lôi tôi vào bờ, và ngồi bên tôi mà run lẩy bẩy cho đến khi tôi mở miệng được. Theo trí nhớ, đấy là lần cuối cùng Jacob canh chừng cho tôi, thay vì ngược lại.

Bức tường trong phòng ngủ tôi đang đứng đây, đầy những giá chất đống các trò chơi điện tử. Hầu hết là Wii và Xbox, có chen vào vài trò của Nintendo DS cho đủ bộ. Anh em tôi không có bộ trò chơi điện tử nào, chúng quá xa xỉ với nhà tôi. Cái đống quái quỷ mà Jacob phải tộng vào sau bữa sáng, với đủ thứ thuốc men và thực phẩm chức năng, tiêu tốn cả một gia tài. Và tôi biết mẹ tôi thỉnh thoảng phải thức cả đêm để nhận làm thêm việc biên tập hòng có đủ tiền trả cho Jess, gia sư kỹ năng xã hội của Jacob.

Tôi nghe thấy tiếng máy xe trên con đường vắng trước nhà, và khi tôi hé cửa sổ nhìn ra, chiếc xe tải màu xanh đã bắt đầu rẽ vào. Tôi lao xuống cầu thang, băng qua căn bếp, và ra cửa hậu. Tôi nấp vào bụi cây, nín thở và nhìn thấy thằng nhóc nhảy ra khỏi chiếc xe, trên người mặc một bộ đồ chơi khúc côn cầu. Rồi đến chị nó, cuối cùng là bố mẹ nó. Ông bố lấy túi ở cửa sau xe, rồi họ biến vào trong nhà.

Tôi đi ra đường, và lên ván trượt xa khỏi căn nhà cổ tích này. Trong áo tôi, là thứ tôi đã chộp lấy vào phút chót, bộ Wii với trò Super Mario gì đó. Tôi có thể thấy tim mình đang đập thình thịch lên bộ Wii.

Tôi không thể chơi nó. Tôi còn không thực sự muốn nó. Lý do duy nhất tôi lấy nó, là bởi tôi biết họ sẽ chẳng bao giờ biết được nó đã mất. Làm sao họ biết được cơ chứ? Họ có quá nhiều mà.