← Quay lại trang sách

Chương 6

Những con dơi bay vụt qua đầu anh, cánh của chúng sắc lẹm, cắt rất ngọt. Lũ quái vật. Khả năng sát thủ thấp, nhưng chúng gần như vô hình, giống như những vụn kính vỡ và hầu như không thể nhìn thấy được bằng mắt thường trong những bụi cây đầy gai bên ngoài những lâu đài tối tăm...

Lucas ngước nhìn đồng hồ. Mười một giờ bốn mươi phút. Chiết tiệt. Nếu tên cớm trộm súng định nói thì hắn phải gọi rồi mới phải. Lucas không ngừng nhìn vào cái điện thoại, chỉ trực ngóng nó đổ chuông.

Chuông reo thật. Anh bất ngờ, suýt ngã nhào khỏi chiếc ghế đẩu.

“Tôi nghe?”

“Lucas à? Jennifer đây.”

“Này, anh đang đợi một cuộc gọi, anh cần đường dây được thông suốt.”

“Em vừa có mẩu tin từ một người bạn,” Jennifer nói.

“Anh ta nói có một người sống sót. Người đó đã chống trả tên sát thủ. Em muốn biết đó là ai.”

“Ai lại nói mấy thứ nhảm nhí đó vậy?”

“Đừng chơi em, Lucas. Em biết khá rõ chuyện đó đấy nhé. Cô ấy là Chicana16* hay đại loại thế.”

*Tiếng lóng, chỉ người phụ nữ hoặc con gái có gốc Mê-hi-cô.

Lucas ngập ngừng, rồi anh chợt nhận ra mấy giây đó cho anh một ý hay. “Nghe này, Jennifer, em biết chuyện đó rồi, nhưng anh muốn em chưa dùng mẩu tin đó ngay nhé. Nói chuyện với cảnh sát trưởng trước đi.”

“Ấy, đó không phải là việc hay đâu nhé. Nếu người khác cũng biết tin này rồi cho lên sóng, thế chẳng phải em là con ngốc à.”

“Tin đó là của em, được chưa? Nếu bọn anh phải đưa tin về cô gái này, em sẽ là người đầu tiên phát sóng. Nhưng vấn đề là, bọn anh không muốn tên sát thủ chú ý đến cô ấy. Bọn anh không muốn thách thức hắn.”

“Thôi nào, Lucas...”

“Nghe này, Jennifer, em đang nghe đấy chứ?” “Vâng.”

“Nếu em đưa tin này lên sóng mà không nói với cảnh sát trưởng, anh cũng sẽ chơi lại em đến cùng. Anh sẽ nói với tất cả các đài truyền hình trên thế giới rằng chính em đã mớm cho tên sát nhân hàng loạt tên tuổi và địa chỉ của một cô gái vô tội và biến cô ấy thành mục tiêu cho hắn truy sát, hãm hiếp. Anh sẽ đưa em vào tâm điểm thị phi, và hóa ra em mất hết tất cả vì mẩu tin đó. Rồi em sẽ trở lại với mấy cái tin bài về cuộc đua chó kéo ở Brainerd mà thôi.”

“Em nghe rằng hắn tấn công cô gái ngay tại nhà của cô ấy, như vậy hắn phải biết...”

“Ừ thì đúng rồi. Và chuyện đó cũng sẽ lộ ra sau một tuần người ta bàn tán. Nhưng trước khi ấy, cả đám chị em ở cái thành phố này sẽ đạp gót giày lên mặt em, rồi em sẽ chẳng xin được công việc quái quỷ nào nếu không cuốn xéo đi nơi khác cho mà xem.”

“Tiên sư anh. Khi nào thì em có thể nói chuyện với lão Daniel đây?”

“Chín giờ sáng ngày mai.”

“Em sẽ gọi ngay giờ đây. Chín giờ sáng mai, anh bắt buộc phải tới đấy.”

Lucas gác điện thoại, nhìn nó một thoáng, lại nhấc lên, rồi quay số điện thoại nhà của Daniel. Bà vợ ông ta nhấc máy, rồi một giây sau tiếng Daniel ở bên kia đầu dây.

“Anh tóm được hắn rồi à?” Giọng ông bỏ ngỏ.

“Vầng, tóm rồi,” Lucas cộc lốc. “Ông tới lề đường trước cửa văn phòng đứng đợi đi, hai mươi phút nữa tôi sẽ thả hắn xuống cho ông. Nếu tôi đến trễ, đừng lo, kiểu gì tôi cũng đến. Cứ ở đó đợi nhé.”

Viên cảnh sát trưởng nhai nhồm nhoàm khoảng một phút, rồi nói, “Đùa hay đấy Davenport. Anh muốn gì?”

“Jennifer Carey vừa gọi tôi. Gã nào đó đã kể cho cô ấy chuyện Ruiz rồi.”

“Mẹ kiếp. Không phải anh đấy chứ, hả?”

“Không.”

“Tôi nghe nói là anh đã ngủ với ả xinh gái đó rồi còn gì.” “Mẹ nó chứ...”

“Rồi. Được rồi. Tôi xin lỗi. Vậy anh nghĩ sao?”

“Tạm thời, tôi bịt được miệng cô ta rồi. Cô ta sẽ tới trụ sở gặp ông sáng mai. Chín giờ. Tôi sẽ ngăn cô ta phát sóng vụ Ruiz ít nhất là hai ngày. Nhưng nếu đã có người rỉ tai cô ta, trước sau gì cũng lộ chuyện.”

“Thế thì sao?”

“Thế thì ngày mai, ông bảo cô ấy giữ kín chuyện này vài ngày đã rồi chúng ta sẽ sắp xếp cho cô ấy phỏng vấn cô gái kia, nếu Ruiz đồng ý. Rồi, nếu Ruiz đồng ý làm vậy, chúng ta sẽ sắp xếp cuộc phỏng vấn lúc sáu giờ tối và cho Jennifer ghi hình để phát sóng vào bản tin khuya. Trong khi tôi ở đó với cô ta, ông tổ chức họp báo lúc tám giờ, hoặc tám rưỡi tối. Khi tôi đưa Ruiz tới, chúng ta sẽ để cho đám nhà báo phỏng vấn cô ấy khoảng hai mươi phút hoặc chừng đó và họ sẽ có hình ảnh cho bản tin mười giờ tối.”

“Carey sẽ phát rồ nếu ta chơi cô ta như thế.”

“Tôi sẽ xử lý chuyện đó. Tôi sẽ nói với cô ấy rằng cô sẽ không phát sóng một bản tin nhanh độc quyền, nhưng cô sẽ là nhà đài duy nhất được phỏng vấn riêng với cô gái. Các đài khác chỉ ăn được vài tin tức họp báo kia thôi. Rồi, chúng ta lại nói với các đài kia rằng Carey có nguồn tin riêng và cô ta ép chúng ta, nhưng vì ông và các nhà đài kia đều là bạn bè, nên ông quyết định tổ chức họp báo để công khai cho họ biết. Như thế, tất cả bọn họ đều nợ chúng ta.”

“Thế còn cánh báo viết thì sao? Chúng ta loại họ ra khỏi vụ này à?”

“Chúng ta có thể cho họ ngồi cùng với Carey phỏng vấn để ghi chép và soạn những bài viết dài. Họ sẽ không thể nào kịp phát hành cho tới tận sáng hôm sau, như vậy Carey vẫn có tin nhanh. Tôi sẽ mớm lời cho hai tờ báo khác như kiểu một món quà đặc biệt của ông. Tôi sẽ cảnh báo họ rằng, nếu có vấn đề gì xảy ra, họ sẽ không được đối xử công bằng như thế nữa.”

“Được rồi. Như vậy, chín giờ sáng mai tôi sẽ gặp Carey, trì hoãn cô ta, có thể cho cô ta một miếng ngon. Rồi sau đó, chúng ta sẽ tính toán chi tiết các việc còn lại.”

“Gặp ông ngày mai.”

“Đừng quên cuộc họp nhé.”

Sau khi cúp máy, Lucas dụi mắt, cúi xuống cái bàn vẽ lần nữa. Anh đọc những con số ghi bằng bút chì trong cái danh sách ghi trên tệp giấy ghi chú màu vàng, nhập chúng vào một chiếc máy tính điện tử để bàn17*. Một ly cà phê gần hết ở trên bàn. Lucas nhấp một ngụm cái phần còn thừa trông giống dầu ấy, mặt nhăn nhó.

*Nguyên văn: “electronic desk calculator”.

Lucas viết game. Những game nhập vai kỳ ảo, những sự tái thiết mang tính lịch sử sau nội chiến, mô phỏng các trận đánh trong Thế chiến II, Hàn Quốc, Việt Nam, Stalingrad, Trận Bulge, Đài Loan, trận Puch Bowl, trận Bloody Rigde, trận Điện Biên Phủ, trận Tết Mậu Thân.

Những trò chơi này được một nhà xuất bản ở New York tiếp thị, nhà xuất bản này nhận gần như mọi sản phẩm của anh, thường thường là một năm được hai trò. Trò mới nhất của anh là một trò nhập vai phiêu lưu kỳ ảo. Chúng mang đến cho anh rất nhiều tiền, nhưng lại chẳng có một chút thú vị.

Anh nhìn đồng hồ lần nữa. Mười hai giờ mười. Anh bước tới cạnh dàn âm thanh, lấy ra một chiếc CD và nhét vào khe đĩa, rồi anh quay lại với những con số khi giọng hát của Eric Clapton cất lên bài “I Shot the Sheriff”.

Mạch câu chuyện của trò chơi kỳ ảo mà anh đang viết rất phức tạp. Một trung đội thiết giáp của Mỹ sẽ tới Trung Đông tác chiến vào một thời điểm không cụ thể. Trung đội này nhận được thông tin rằng một cuộc tấn công hạt nhân chiến thuật đang hướng về phía họ và nhiệm vụ của họ là phòng thủ thật vững chắc.

Tiếng nổ vang lên cùng với những tia sáng chói loà, Trung đội hiện ra trong khoảnh khắc cùng với chiếc xe thiết giáp M3 của mình tại Everwhen – một vùng đất có sông hồ, đầm lầy và những cây sồi khổng lồ. Ở đó, vẫn còn những phép màu và những nàng tiên vô hồn hằng đêm vẫn tung tăng nhảy múa.

Tất cả những thứ đó khiến Lucas như muốn nổ tung đầu. Anh nghĩ, mọi trò chơi kỳ ảo trên thế giới này đều có một lũ nghiện máy tính vào vai những cô nàng tóc đỏ xinh xắn, ngực to, tàn nhang cầm gươm lượn khắp những vùng đất được thiết kế theo phong cách Poe-esque.

Nhưng đó là tiền; và anh phải có trách nhiệm đó với những đứa nhóc thông minh chưa đến tuổi dậy thì có thể sẽ mua kiệt tác của anh vào một ngày nào đó: Rặng Cây. Anh chợt nghĩ đến nó trong giây lát, trận Gettysburg đang được anh hoàn thiện bởi nhóm người chơi ở St. Anne. Rặng Cây đòi hỏi một chiếc máy tính IBM và một phòng chơi riêng biệt được thiết kế đầy đủ với một đội game thủ. Mất tới hai đêm để thiết lập tất cả những thứ đó. Nó là một trò khá nặng và khó chơi. Nhưng rất cuốn hút.

Anh gõ gõ cái bút chì vào hàm răng và nhìn vô định vào cái bàn vẽ. Vào đêm thứ năm của trận chiến, Jeb Stuart vẫn chưa bắt liên lạc được với tướng Lee, đang lượn vòng ra xa về phía Đông bên hông đội hình của Liên quân lúc ấy đang chậm chạp di chuyển theo hướng Bắc về phía Gettysburg. Đó là những gì xảy ra trong thực tế lịch sử, nhưng lúc này, trong trò chơi này, Stuart – do người bán tạp hóa ở St. Paul sắm vai – đang di chuyển gấp gáp để rút bớt khoảng cách trở về Gettysburg báo cáo tình hình trinh thám được ở mặt trận phía Nam căn cứ.

Trong khi đó, mệnh lệnh tác chiến của tướng Lee vẫn chưa rõ ràng. Vì ông đã chốt chặn đường vào Gettysburg tại điểm thắt nút của các dãy núi dẫn tới đây, nên sư đoàn tiên phong của Pickett vẫn chưa biết làm gì ngoài việc thả quân đi săn bắn. Thậm chí nếu Reynolds – cậu sinh viên đại học – kịp đến đó trước Stuart và Reynolds sống sót được khi tới nơi, vì cậu ta không tham gia trận đánh trước đó, thì sự hiếu chiến của Pickett cũng sẽ khiến ông ta không tin những thông tin thám báo mà cậu sinh viên thu thập được và ông ta sẽ ra lệnh cho Liên quân miền Nam phòng thủ điểm cao cuối trên vành đai Ceremetary hoặc trên cả vành đai. Nếu ông ta làm vậy, Liên quân miền Bắc buộc phải lựa chọn giữa phát động tiến công hoặc rút lui về Washington.

Lucas thở dài và thả hồn trở về với Everwhen, lúc này rõ ràng đang bị các thế lực hắc ám tấn công. Trung đội thiết giáp thì đã được triệu hồi bởi một tay chơi cự phách, người mà định đưa một yếu tố mới vào một trận đánh sắp thất bại: vũ khí công nghệ. Một khi đã gia nhập vào Chính phái, trung đội thiết giáp sẽ diễu hành trên đầu tòa lâu đài chìm trong mây của Tà phái.

Như thế thì câu chuyện sẽ không còn giữ được tính chân thực nữa. Đưa những chi tiết thực tế vào một trò chơi sao cho lô-gic quả là một thách thức.

Giống những chiếc xe tăng M3 vậy. Làm sao có thể sửa chữa và tiếp nhiên liệu cho chúng? Phép thuật. Vậy làm sao để trung đội có thể có được phép thuật? Bằng những hành động anh dũng. Giải cứu một trinh nữ khỏi nanh vuốt của rồng, rồi chỉ số phép thuật sẽ tăng lên. Còn nếu để bị con rồng xơi tái, chỉ số sẽ giảm.

Những đặc tính của Everwhen – vùng đất Vĩnh Hằng – lại là một vấn đề nhức nhối khác. Chúng phải chứa đựng yếu tố nguy hiểm, nhưng thú vị và mang những nét nguyên bản nhất định. Chúng cũng cần phải độc lạ, nhưng cũng phải quen thuộc một chút để định hình được. Những đặc tính hay ho nhất đơn thuần là giống với những đặc điểm của môi trường thực tế: thằn lằn, rắn rết, chuột bọ, nhện. Những đêm đông lạnh lẽo, Lucas ngồi thu lu trên chiếc ghế da trong phòng mô phỏng, với một bộ đồ họa, cố tưởng tượng ra chúng.

Những con dơi cắt là một sản phẩm tưởng tượng kiểu đó. Chúng là sự lai tạo giữa một con dơi với đôi cánh sắc lẹm. Bọn chúng tấn công vào ban đêm, cắt con mồi thành từng miếng. Không thể tiêu diệt chúng bằng phép thuật nhưng lại dễ dàng hạ chúng bằng vũ khí phù hợp, kiểu như súng ngắn.

Nhưng làm sao để nhìn thấy chúng? Ok! Giống như loài dơi, chúng dùng một loại sóng âm. Khi có phép thuật trong tay, các đài vô tuyến của trung đội có thể dò ra tần số của chúng. Liệu có diệt hết được chúng không? Có thể có, nhưng nếu không, phải có số lượt sát thương. Một nhân vật bị tấn công quá số lượt sẽ chết. Lucas phải hết sức cẩn thận, không để một nhân vật chết dễ quá, nếu không người chơi sẽ nản. Nhưng cũng không được để trò chơi đơn giản quá. Đó là cả một nghệ thuật dẫn dắt người chơi dấn thân ngày càng sâu hơn vào những viễn cảnh đã được phác họa kỹ lưỡng từ trước.

Lucas mải mê làm việc, gần như bò trên mặt bàn vẽ trong quầng sáng của chiếc đèn treo lủng lẳng trên đầu, tính toán những con số, nhấp cà phê. Lúc Clapton bắt đầu cất giọng hát bài “Lay down, Sally”, anh đứng dậy, nhún nhảy theo điệu nhạc quanh chiếc ghế. Rồi anh ngồi xuống, suy tính chừng mười lăm giây rồi lại đứng lên, lắc lư theo bài “Willie and the Hand Jive”. Anh nhảy một mình trong căn phòng tối om, mắt nhìn theo số điện tử hiển thị thời gian chạy của bài hát trên đồng hồ chiếc đầu đĩa CD. Khi “Hand Jive” kết thúc, anh lại ngồi xuống, mở một tệp trên chiếc máy tính IBM lên, đọc to các chi tiết kỹ thuật rồi lại quay về với những con số ngay sau khi mắt anh liếc qua chiếc đồng hồ một cách vô thức. Mười hai giờ mười lăm phút.

Lucas sống trong căn nhà theo phong cách trang trại với ba phòng ngủ, xây bằng đá và gỗ cây tuyết tùng trên đại lộ Mississippi và cách dòng sông chừng ba mươi mét. Vào mùa thu và mùa đông, khi hàng cây rụng sạch lá, Lucas có thể thấy rõ ánh đèn của thành phố Minneapolis từ phòng ngủ của mình.

Đó là một căn nhà lớn. Ban đầu, anh lo rằng nó lớn quá, mình nên mua một căn chung cư thì hay hơn. Có lẽ mua chỗ nào đó gần hồ, nơi anh có thể ngắm những người độc thân chạy bộ, trượt băng, hoặc chèo thuyền.

Nhưng anh vẫn quyết định mua nó và chưa hề hối tiếc. Anh mua căn nhà với giá một trăm hai mươi ngàn đô, trả bằng tiền mặt, khi ấy là năm 1980. Bây giờ, căn nhà đã có giá gấp đôi. Sờ lên mái tóc, Lucas nhận ra mình đã bước qua tuổi ba mươi thật chóng vánh, chẳng mấy chốc sẽ sang tuổi bốn mươi, anh cũng chưa bao giờ nguôi ý nghĩ về một mái ấm gia đình với những đứa trẻ và căn nhà cho chúng chơi đùa.

Ngoài ra, anh cũng nhận thấy thoáng chốc, mọi không gian trong căn nhà đã được anh lấp đầy. Trong nhà xe, bên cạnh chiếc Porsche 5 tuổi còn có thêm một con xe Ford hai cầu rách nát. Phòng sinh hoạt chung đã trở thành một phòng tập thể hình thu nhỏ với bộ cử tạ và một bao đấm, rồi một sàn gỗ để anh tập kata – các bài quyền của ka-ra-te.

Phòng nhỏ18* được sửa sang thành thư viện với khoảng một nghìn sáu trăm đầu sách, bao gồm tiểu thuyết và các tác phẩm phi hư cấu, rồi khoảng gần hai trăm tuyển tập thơ nữa. Một chiếc sô-pha đơn bọc da kèm theo một cái đôn, một chiếc đèn có ánh sáng phù hợp cho đọc sách là tất cả đồ đạc có trong này. Những lúc không hứng thú đọc sách, anh sẽ giải trí bằng chiếc ti vi màu hai mươi lăm inch, bộ đầu băng và dàn âm thanh đi cùng.

*Nguyên văn “Den”: là căn phòng nhỏ trong một ngôi nhà, nơi một thành viên làm những việc cá nhân, riêng tư.

Các dụng cụ, thiết bị giặt là, thiết bị thể thao ngoài trời, cùng với một chiếc bàn chuyên tháo lắp thiết bị vũ khí và một tủ đựng súng được đặt ở tầng hầm. Tủ súng vốn là một chiếc két sắt nhà băng thuộc hàng độc nhất vô nhị. Một chuyên gia phá két có thể mở được tủ súng của anh trong vòng hai mươi phút, nhưng Lucas không nghĩ rằng một tay chuyên nghiệp lại mò vào tầng hầm nhà anh. Còn mấy tên trộm vặt thì không có cửa mà mở được chiếc két.

Lucas có trong tay mười ba khẩu súng. Khẩu súng anh dùng hàng ngày cho công việc là khẩu Keckler & Koch P7 cỡ nòng chín li với hộp đạn mười ba viên. Thi thoảng, anh cũng mang theo một khẩu chín li khác là Beretta 92F. Hai khẩu này, cùng với khẩu súng nhỏ được gắn ở mắt cá chân, được giấu ở ngăn bí mật của chiếc bàn trong phòng làm việc.

Tủ súng ở tầng hầm có hai khẩu Colt 45 Gold Cups. Cả hai khẩu này đã được cải tiến bởi một chuyên gia súng ống ở Texas để có tầm bắn tốt hơn khi tác chiến, ba khẩu 22s gồm một khẩu Rugar Mark II với nòng súng bán tự động dài 14 cm, một khẩu Browning International Medalist và khẩu Anschutz Exemplar là khẩu không tự động duy nhất.

Ngăn dưới cùng của tủ có bốn khẩu súng ngắn anh thu được trong khi thực hiện nhiệm vụ, được tra dầu, gói và bọc kỹ lưỡng. Đó là những khẩu giang hồ, không có chủ nhân và không lần được dấu vết. Vũ khí cuối cùng cũng được cất trong chiếc tủ này là một khẩu shotgun Browning Citori hai nòng19*, đạn 20-gauge, loại cổ mà anh thường dùng để đi săn. Anh dùng để đi săn.

*Nguyên văn “over-and-under”: loại súng có hai nòng nằm chồng lên nhau.

Phần còn lại của căn nhà là hai phòng nhỏ hơn đều có kê giường ngủ.

Phòng ngủ chính trở thành phòng làm việc của anh với chiếc bàn vẽ, các công cụ phác thảo và máy tính IBM. Có hai kệ sách chuyên về vũ khí và quân sự: A-lếch-xan-đrơ, Na-pô- lê-ông, tướng Lee, Hít-le và Mao, từ những chiếc giáo thời kỳ đồ đồng đến những cỗ xe tăng hiện đại của Nga, những tiểu thuyết khoa học giả tưởng mô tả những loại vũ khí của tương lai như quả đạn pháo tự tìm mục tiêu, súng điện từ, vũ khí plas-ma, bom nhiệt hạch. Những ý tưởng đó hoàn toàn có thể được đưa vào các trò chơi của anh. Những con dơi cắt lại nhẹ lướt qua tâm trí Lucas như những mảnh vỡ khi anh tiếp tục công việc trên bàn vẽ và tính toán các con số.

Điện thoại đổ chuông, anh giật nảy người. Nó hiếm khi reo lắm vì chỉ có vài người biết số máy nhà anh. Nhưng tối nay thì số người đó đã lên đến ba mươi có lẻ rồi, anh chợt nghĩ. Đặt chiếc bút chì xuống bàn, liếc mắt nhìn đồng hồ: mười hai giờ hai mươi hai phút. Anh bước qua bên kia phòng, vặn nhỏ âm thanh xuống, bật máy ghi âm đã gắn sẵn vào ống nghe lên và trả lời cuộc gọi đã được nối máy.

“Tôi nghe?”

“Davenport à?” Giọng đàn ông, tuổi độ trung niên hoặc già hơn một chút.

“Tôi đây.”

“Anh đang ghi âm đúng không?” Nghe giọng hơi quen. Anh biết người này.

“Không.”

“Làm sao tôi biết đúng hay không.”

“Tất nhiên ông không biết được. Tôi phải nói thế nào đây?”

Ngừng một thoáng, giọng người kia lại tiếp, “Tôi đã lấy khẩu Smith, nhưng tôi muốn nói chuyện trực tiếp với anh.”

“Thế thì nói luôn đi,” Lucas nói. “Đây là tình huống nghiêm trọng, ông biết đấy.”

“Thỏa thuận như những gì anh nói chiều nay chứ?” “Đúng vậy,” Lucas nói. “Sẽ không có bất cứ chuyện gì

khác. Cũng không lật lại vụ việc.”

Một thoáng ngập ngừng; rồi, “Anh biết nhà hàng Taco bên kia xa lộ I-94 từ trường Cao đẳng Martin Luther chứ?”

“Có?”

“Hai mươi phút nhé. Và, vì Chúa, tới đó một mình thôi, anh hiểu chứ?”

Lucas chỉ mất mười tám phút. Bãi đậu xe của nhà hàng vắng tanh. Phía trong, một khách ăn đang ngồi nhìn chăm chăm ra cửa sổ, nhấm nháp một ly cà phê bên cạnh hộp đồ gói phần thừa mang về. Một nhân viên đang lau chùi sàn nhà và quay ra nhìn khi thấy Lucas bước vào. Cô nhân viên quầy thanh toán, có lẽ là một sinh viên đại học, mỉm cười một cách cảnh giác.

“Cho tôi một lon Coca kiêng nhé,” Lucas nói.

“Còn gì nữa không ạ?” Vẫn đầy cảnh giác. Lucas chợt nhận ra rằng, với chiếc áo bomber da, quần bò, bốt và lớp râu ria cả ngày không cạo, có lẽ bộ dạng của anh lúc này nhìn rất nguy hiểm.

“À! Yên tâm đi, tôi là cớm.” Anh nhe răng cười, tay thò vào túi áo lấy ra tấm thẻ ngành, giơ lên cho cô gái xem và cô cười đáp lại.

“Gần đây chúng tôi có vài vụ lộn xộn,” cô nói. “Sao thế?”

“Tháng trước và tháng trước nữa. Bốn tháng trước thì xảy ra hai vụ. Khu này có mấy tên quái xế.”

Khi viên cảnh sát bước vào, Lucas nhận ra ông ta tức thì. Tóc hoa râm, mặc chiếc áo khoác màu be sáng, quần màu nâu. Roe, anh nghĩ. Harold Roe. Một cớm già, sắp hạ cánh về hưu.

Roe đá mắt xung quanh, dừng lại ở quầy, gọi một ly cà phê rồi bước tới chỗ Lucas.

“Ông đúng không?” Lucas hỏi.

“Anh đeo bộ đàm đấy hả?”

“Không.”

“Nếu có thì anh đang gài bẫy tôi.”

“Tôi thừa nhận, nếu tôi mang theo tức là tôi gài ông. Nhưng tôi không mang.”

“Anh đọc lệnh bắt tôi?” “Không nốt.”

“Hừ. Anh biết đấy. Chuyện này đúng là vớ vẩn,” Roe nói, nhấp một ngụm cà phê. “Nếu họ bắt anh làm nhân chứng, biết đâu anh sẽ nói kiểu khác.”

“Chẳng có nhân chứng nhân chủng gì đâu, Harry. Tôi có thể đi khỏi đây tức thì, tới chỗ Daniel và nói ‘Harry Roe chính là gã đó’ và thế là IAD phanh phui mọi thứ chỉ trong ba ngày. Ông biết chuyện sẽ tới đâu, nếu mọi thứ bắt đầu như vậy.”

“Được rồi.” Roe nhìn xung quanh một cách mệt mỏi, lắc đầu ngán ngẩm. “Lạy Chúa, tôi ghét chuyện này.”

“Vậy nói tôi nghe xem nào.”

“Thực ra cũng chẳng có gì cả. Tôi phát hiện ra rằng đó là khẩu súng lạnh. Nó đã không xuất hiện cả thế kỷ nay rồi. Có một người sống cùng khu với tôi, tên anh ta là Larry Rice, chúng tôi lớn lên cùng nhau. Tôi thường thấy anh ta ở quanh khu vực Toà thị chính. Chắc anh cũng đôi lần nhìn thấy anh ấy. Người to con, dáng đi nặng nề vì một chân bị thương, lúc nào cũng đội cái mũ sọc của công nhân đường sắt.”

“À, tôi nhớ ra anh ta rồi.”

“Nhưng mà, lúc đó, anh ta đang chết dần chết mòn vì căn bệnh ung thư gì đó. Nó tàn phá cơ thể anh ta. Đầu tiên, anh ta không đi lại được nữa, rồi sau đó, mất kiểm soát chuyện vệ sinh, kiểu vậy. Vợ anh ấy vẫn đi làm, còn anh ta nằm ở nhà.

Rồi một ngày, có mấy tên trộm vặt trong khu đó nhảy vào nhà họ cuỗm đi cái ti vi và bộ dàn âm thanh ngay trước mắt anh ta. Anh ta có cái xe lăn nhưng đánh sao được chúng nó. Anh ta còn chẳng biết được bọn đó nữa vì chúng trùm đầu bằng mấy cái túi giấy... Mấy thằng khốn kiếp.”

“Thế là anh lấy cho anh ta khẩu súng đó à?”

“Thì vợ anh ta qua nhà tôi sau vụ đó, hỏi vợ tôi xem có thấy tôi có dư khẩu súng nào ở nhà không. Tôi làm gì có. Tôi không thích súng ống. Xin lỗi, tôi biết anh đam mê chúng, nhưng tôi thì không.”

“Chuyện thường thôi.”

“Vì thế mà tôi mò vào phòng tang chứng, tôi biết khẩu súng đó vì tôi tham gia vụ đó mà. Tôi tính là sẽ chẳng có chuyện quái quỷ gì mà chúng ta phải dùng đến khẩu súng đó cả.”

“Và anh cuỗm nó đi?”

Roe nhấp ngụm cà phê. “Phải.” “Thế cái người tên Rice này ….” “Anh ta ngỏm rồi. Hai tháng trước.” “Mẹ kiếp. Thế vợ anh ta thì sao?”

“Chị ấy vẫn ở đó mà. Sau cuộc họp lúc chiều, tôi đã tới đó hỏi chị ấy về khẩu súng. Chị ta nói chẳng biết nó ở đâu nữa. Lục lọi khắp nhà nhưng chẳng thấy đâu cả. Chị ấy kể khoảng độ hai tuần trước khi chết, Larry gói ghém một đống đồ tư trang đem bán để lấy tiền cho chị ấy. Anh ta sợ sẽ chẳng có gì để lại cho vợ. Chị ấy nói, khi anh ta ra đi, anh ta để lại khoảng một ngàn đô gì đó.”

“Chị ta không biết ai đã mua khẩu súng phải không?”

“Đúng vậy. Tôi hỏi chị ta là ông chồng đã bán khẩu súng như thế nào, chị ấy nói anh ta bán cho người quen, bạn bè, đại loại thế. Anh ta để lại vài dấu hiệu trên cửa sổ, chứ không quảng cáo gì cả. Người ta đi ngang qua có thể thấy dấu hiệu, chỉ vậy thôi.” Roe đẩy qua mặt bàn vài tờ giấy. “Tôi đã nói với chị ấy là anh sẽ tới gặp. Địa chỉ đây.”

“Cảm ơn.” Lucas dốc cạn chai cô-ca. “Giờ thì sao?” Roe hỏi.

“Giờ thì chẳng sao cả. Ông đã nói hết sự thật rồi.”

“Thật như thế đấy,” Roe nói giọng đều đều. “Tôi thấy chuyện này phiền bỏ mẹ.”

“Phải, rất phiền toái. Nhưng sẽ chỉ có tôi và ông biết, mặc dù tôi cho rằng nếu chúng ta yêu cầu chị Rice này đứng ra làm chứng, có thể ai đó sẽ tìm ra manh mối, nhưng sẽ chẳng đi tới đâu cả.”

“Cảm ơn anh. Tôi nợ anh lần này.”

Roe rời đi trước, thấy nhẹ nhõm khi rời khỏi chỗ đó. Lucas nhìn theo xe anh ta lăn bánh khỏi bãi đậu rồi mới đứng dậy đi tới quầy.

“Em có phiền không nếu anh có vài nhận xét?” Anh hỏi cô bé đứng quầy.

“Không ạ. Anh nói đi.” Cô mỉm cười một cách lịch sự. “Em quá xinh để mà làm việc ở đây. Đừng tưởng anh tán tỉnh em nhé, anh chỉ nói để em biết thế thôi. Em chính là sức hút. Nếu em tiếp tục làm ở đây, không chóng thì chầy, em sẽ gặp chuyện.”

“Em cần có tiền,” cô gái nói, nét mặt căng thẳng và nghiêm trọng.

“Nhưng em không thật sự cần đến thế,” Anh nói.

“Em còn hai năm nữa ở đại học, một năm để hoàn thành cử nhân và thêm chín tháng nữa cho xong bằng thạc sỹ.”

Lucas lắc đầu. “Nếu anh biết bố mẹ em, anh sẽ gọi điện nói chuyện với họ. Nhưng anh không biết. Nên anh sẽ bảo em thế này. Nghỉ việc ở đây đi, hoặc chuyển sang làm ca ngày.”

Anh quay người và chuẩn bị bước đi.

“Cảm ơn ạ.” Cô bé nói với theo. Nhưng anh biết chắc cú là cô bé sẽ chẳng thay đổi gì. Anh bước ra ngoài, cân nhắc một hồi rồi quay trở vào trong.

“Liệu em có thể chôm chỉa bao nhiêu chiếc bánh taco mà không bị người ta phát hiện? Ý anh là, mỗi buổi tối ấy. Liệu được đôi chục cái không?”

“Để làm gì ạ?”

“Nếu em mang ra một cốc café kèm một chiếc bánh taco miễn phí cho mỗi cảnh sát đi tuần tạt vào đây, nghe nhé, từ khoảng mười giờ tối đến sáu giờ sáng, thì sẽ có vài cảnh sát luẩn quẩn quanh đây, hoặc tới, hoặc đi, trong suốt ca đêm. Việc đó sẽ cho em một sự bảo đảm nào đó.”

Cô bé lắng nghe một cách chăm chú. “Nhưng không phải cả trăm cảnh sát tới đây chứ ạ? Hay đại loại thế?”

“Không. Vào những đêm cao điểm, nhiều lắm chỉ khoảng đôi ba chục người lui tới là cùng.”

“Tuyệt vời,” cô bé thốt lên sung sướng. “Ông chủ quán này đang gặp nhiều phiền toái trong việc giữ chân người làm.

Ông ấy kiểu như đang tuyệt vọng rồi. Chắc em không phải lấy trộm mấy thứ đó đâu ạ. Em nghĩ là ông ấy sẽ đồng ý thôi ạ.” Lucas lấy ra một tấm danh thiếp rồi đưa cho cô bé. “Đây là số điện thoại văn phòng của anh. Ngày mai gọi cho anh nhé.

Nếu ông chủ đồng ý, anh sẽ rỉ tai các đồng nghiệp ở cả hai thị trấn rằng ở đây em có cà phê với bánh taco miễn phí, rồi họ sẽ bu tới đây như ruồi cho mà xem.”

“Ngày mai em sẽ gọi,” cô nói. “Thực sự cảm ơn anh rất nhiều ạ.”

Lucas gật đầu và đi ra. Nếu tình hình suôn sẻ, anh sẽ lại có thêm một tay chân nữa ở phố này.

Khi Lucas thiết kế các trò chơi, anh bày chúng ra trên các tờ giấy vẽ trắng dày, khổ hai mươi hai nhân ba mươi inh-xơ, như thế anh có thể phác họa sự liên quan giữa các yếu tố trong trò chơi. Sự mô phỏng bằng đồ họa trên giấy giúp anh tránh được những điểm bất nhất trong các trò chơi, vốn luôn thu hút những lá thư phê bình gay gắt nhất từ các game thủ tuổi teen.

Trở về nhà, anh lấy ra bốn tờ giấy đó, mang chúng lên phòng ngủ cho khách, ghim chúng lên tường bằng đinh ghim. Anh dùng một cây bút ngòi lớn, viết lần lượt tên các nạn nhân lên từng khổ giấy: Bell, Moris, Ruiz, Lewis. Dưới các tên, anh viết ngày tháng và phía dưới nữa anh viết những thứ mà anh nghĩ rằng là đặc điểm tính cách liên quan của các nạn nhân.

Khi viết xong, anh nằm vật ra giường, lấy gối chống cao đầu lên và soi xét các tờ giấy đã viết. Chẳng rút ra được điều gì cả. Anh bật dậy, lấy tờ giấy thứ năm, gắn lên tường và viết lên phần đỉnh “Chó điên”. Phía dưới, anh viết:

Khá giả: Giày hiệu Nike - Air. Quần áo sạch sẽ. Nước hoa.

Thuyết phục nữ nhân viên môi giới nhà đất rằng hắn ta có đủ tiền mua căn nhà đắt tiền.

Có thể mới đến đây: giọng khác, mặc áo phông vào đêm tháng Tám.

Có thể đến từ vùng Tây Nam: Ruiz nhận ra giọng hắn.

Làm việc văn phòng: tay và cơ thể mềm mại, da tay trắng.

Không phải là kẻ hay đánh đấm.

Da sáng: Tay nhợt nhạt. Có thể tóc vàng.

Nghiện tình dục? Game thủ? Cả hai? Không cái nào?

Thông minh. Không để lại manh mối. Đeo găng tay ngay cả khi chuẩn bị các mẩu tin nhắn và khi lên đạn.

Anh nghĩ một lát rồi viết thêm, “Biết Larry Rice?”

Anh nhìn chằm chằm vào danh sách đó, rồi vươn tay gạch chân “nữ nhân viên môi giới nhà đất” và “Biết Larry Rice?”

Nếu đúng là hắn ta mới tới đây, có lẽ hắn ta đang tìm nhà thật và vì thế mà gặp Lewis. Đáng để đi xem xét các văn phòng nhà đất vùng này.

Và có thể hắn ta biết Larry Rice, nhưng nếu như thế thì mâu thuẫn với giả định rằng hắn ta mới chuyển tới đây - nếu Rice đang chết dần chết mòn vì căn bệnh ung thư và giả định rằng Rice sẽ chưa thể chết ngay được, và hắn sẽ không dại gì mà kết thân với quá nhiều người.

Một bệnh viện chăng? Một bác sĩ trong bệnh viện? Đó là một khả năng. Như thế có thể lý giải cho việc tên Chó điên dùng dao rất sành. Và một bác sĩ thì có đôi tay với thể hình mềm mỏng và hắn ta cũng sẽ khá giả nữa. Và các bác sĩ, đặc biệt là những người mới, thường không ở cố định. Tất cả những người phụ nữ kia cũng có thể đã tới gặp bác sĩ...

Anh đi qua thư viện và lấy ra một cuốn sách về lịch sử tội phạm và lật giở nhanh các trang. Tội phạm là bác sĩ có hẳn một mục riêng.

Bác sĩ William Palmer ở nước Anh từng giết chết ít nhất sáu người và có lẽ là cả chục người khác vì tiền hồi giữa thế kỷ mười chín. Bác sĩ Thomas Cream cũng từng giết sáu người phụ nữ ở Canada, Mỹ và ở Anh bằng việc phá thai không thành công và đầu độc. Bác sĩ Bennett Hyde từng giết ít nhất ba người ở thành phố Kansas. Bác sĩ Marcel Petiot cũng đã sát hại ít nhất sáu mươi ba người Do Thái được ông ta hứa chuyển lậu khỏi nước Pháp khi đó đang bị Đức quốc xã chiếm đóng. Ở nước Anh, còn có vụ bác sĩ Robert Clements giết hại bốn người vợ của mình trước khi ông ta bị phát hiện. Tay “bác sĩ tra tấn” ở Chi-ca-go, một người theo học ngành y nhưng chưa bao giờ trở thành bác sĩ, đã giết hại phải đến chừng hai trăm cô gái trẻ đến thành phố này trong sự kiện Hội chợ Triển lãm Thế giới năm 1893. Và trường hợp kinh khủng nhất, tất nhiên, chính là Đức quốc xã. Những tên bác sĩ trong các trại tập trung đã giết hại hàng nghìn người.

Danh sách những tên bác sĩ sát nhân đã giết hại một hoặc hai người thì dài dằng dặc và có nhiều vụ xảy ra ở nước Mỹ kể từ thập niên 1950.

Lucas đóng quyển sách lại, trầm ngâm suy tính, rồi nhìn đồng hồ trên tay. Hai giờ ba mươi. Quá muộn để gọi điện. Lucas đi đi lại lại trong phòng rồi lại nhìn đồng hồ. Mặc kệ. Anh đi vào phòng làm việc, lấy chiếc ca táp có chứa số điện thoại của Carla Ruiz và bấm máy. Cô nhấc máy vào hồi chuông thứ bảy.

“Alo, ai đấy ạ?” Giọng ngái ngủ.

“Carla à? Ruiz đúng không?”

“Vâng ạ?” Giọng cô vẫn còn ngái ngủ, nhưng thoáng có chút sự hoài nghi.

“Anh Lucas đây… Là thám tử. Anh xin lỗi đã đánh thức em dậy, nhưng anh đang ngồi ở nhà, phân tích vài manh mối và anh cần hỏi em đôi câu? Được chứ? Em tỉnh ngủ chưa?”

“Dạ, rồi ạ.”

“Lần gần đây em tới phòng khám gặp bác sĩ là khi nào và ở đâu?”

“Dạ, à….” Một khoảng im lặng kéo dài. “Cách đây phải một hai năm gì đó, hình như vậy. Em gặp một bà bác sĩ ở phòng khám ở khu phía Tây.”

“Em chắc đấy là lần gần đây nhất? Không đến bệnh viện, hay phòng khám tư, đại loại thế?”

“Không ạ.”

“Thế nhỡ em đi với bạn thì sao, tình cờ ghé qua, thăm bạn chẳng hạn?”

“Không. Không có chuyện như vậy đâu. Lâu lắm rồi em không tới bệnh viện, từ khi, à, mẹ em qua đời, cách đây mười lăm năm cơ.”

“Em có quen biết xã giao với bác sĩ nào không?”

“Có vài người đã ghé phòng tranh, em nghĩ vậy. Nhưng em không quen ai riêng tư cả. Ý em là, em có nói chuyện với vài người bọn họ qua loa trong những buổi khai trương hay đại loại thế.”

“Được rồi. Nghe này. Giờ thì em ngủ tiếp đi nhé. Ngày mai anh sẽ nói chuyện với em. Và cảm ơn nhé.”

Anh đặt chiếc điện thoại trở lại giá treo. “Chết tiệt,” anh nói oang lên. Có thể lắm chứ, nhưng rất mong manh. Anh tự nhắc mình nhớ phải kiểm tra những người thường lui tới phòng tranh mà là bác sĩ. Nhưng cách đó nghe có vẻ không ổn lắm.

Anh nhìn vào các sơ đồ thêm một lúc, ngáp ngủ, tắt điện và quay trở về phòng ngủ của mình. Gã này quả thực thông minh. Điên rồ, nhưng thông minh. Một game thủ chăng? Có thể lắm chứ.

Có lẽ là một game thủ.