← Quay lại trang sách

Câu 1000 - 1199.

Nhớ nơi nghèo khổ, quên nơi sang giàu Ðã ba thứ tóc trên đầu Gẫm trong sự thể thêm âu cho đời Vân Tiên thưa đã hết lời Ngư ông chẳng đã tách rời đưa sang Dắt Tiên vào trước tiền đàng Vũ công xem thấy lòng càng hổ ngươi Chẳng qua sợ thế gian cười Một lòng gượng gạo chào người ngày xưa Ngư ông đã có công đưa Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn Ngư rằng lòng lão chẳng sờn Xin tròn nhân ngãi còn hơn bạc vàng Nhớ xưa trong núi Lư san Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ viên Tới sau đình trưởng đỗ thuyền Giúp ngươi Hạng Võ qua miền Ô-giang Xưa còn thương kẻ mắc nàn Huống nay ai đã quên đàng ngãi nhân Một lời gắng giúp keo sơn Ngư ông từ giã lui chân xuống thuyền Võ công không ngớt lòng phiền Ân tình, thế lợi khó tuyền đặng vay Dạy Tiên: Ngươi hãy ngồi đây Cho ta trở lại sau này lo toan Công rằng: Hỡi mụ Quỳnh Trang Dò lòng ái nữ Thể Loan thế nào Mặc bay toan liệu làm sao Vốn không ép vợ, nỡ nào ép con Loan rằng: Gót đỏ như son Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn Ai cho sen muống một bồn Ai từng chanh khế sánh phồn lựu lê Thà không trót chịu một bề Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu Dốc lòng chờ đợi danh nhu Rễ đâu có rễ đui mù thể nay Ðã nghe người nói hội này Rằng Vương Tử Trực đậu rày thủ khoa Ta dầu muốn kết sui gia Họ Vương, họ Võ một nhà mới xinh Công rằng: Muốn trọn việc mình Phải toan một chước dứt tình mới xong Nghe rằng trong núi Thương tòng Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra Ðông thành ngàn dặm còn xa Ðem chàng bỏ đó ai mà biết đâu Phút vừa trăng đã đứng đầu Vân Tiên ngồi trước nhà cầu thở than Võ công ra đó dỗ chàng Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Ðông thành Ra đi đương lúc tam canh Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên Bỏ rồi rón rén bước liền Xuồng gay chèo quế dời thuyền tách xa Tiên rằng: Các chú đưa ta Xin đưa cho tới quê nhà sẽ hay Ghi lòng dốc trọn thảo ngay Một phen mà khỏi, ngàn ngày chẳng quên Lặng nghe văng vẳng hai bên Tay lần hang tối đá trên chập chờn Vân Tiên khi ấy hãi hùng Nghĩ ra mới biết Võ công hại mình Nực cười con tạo trớ trinh Chữ duyên tráo chác, chữ tình lãng xao Nghĩ mình tai nạn xiết bao Mới lên khỏi biển, lại vào trong hang Dây sầu ai khéo vương mang Tránh nơi lưới thỏ gặp đàng bẫy cheo Trong hang sau trước quạnh hiu Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi Oan gia nợ đã khéo gây Ôi thôi thân thể còn gì mà toan Ðã đành xa cõi nhân gian Dựa mình vào chồn thạch bàn nằm co Ðêm khuya ngọn gió thổi lò Sương sa lác đác, mưa tro lạnh lùng Năm ngày nhịn đói khát ròng Nhờ ba hườn thuốc đỡ lòng hôm mai Du thần xem thấy ai hoài Xét trong mình gã có bài phù tiên Mới hay là LụcVân Tiên Cùng nhau dìu dắt đều liền đem ra Khỏi hang một dặm vừa xa Ðến nơi đại lộc trời đà hửng đông Du thần trở lại sơn trung Vân Tiên còn hãy giấc nồng mê man Lão tiều cơm gói sẵn sàng Sớm mai sách búa đi ngang qua rừng Tới đường đại lộc là chừng Xẩy nghe có tiếng trong rừng thở than Hay là yêu quái tà gian Rung cây nhát lão làm đường hại nhân Lão tiều liền bước lại gần Thiệt là một gã văn nhân mắc nàn Chi bằng lên tiếng hỏi han Nhân sao mắc việc tai nàn thế nay? Vân Tiên nghe tiếng mừng thay Vội vàng gượng dậy trình bày trước sau Lão tiều nghe nói giờ lâu Gẫm trong thế sự lắc đầu thở than ít người trong tuyết đưa than Khó ngồi giữa chợ, ai màng đoái thương Vân Tiên nghe nói mới tường Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay Ngửa trông lượng cả cao dày Cứu trong một thuở ơn đầy tái sinh Mai sau về tới Ðông thành Ðền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi Lão tiều mới nói thôi thôi Làm ơn mà lại trông hồi sao hay Già hay thương kẻ thảo ngay Này thôi để lão dắt nay về nhà Tiên rằng: Trong dạ xót xa Nay đà sáu bữa không hòa mùi chi Lại thêm rũ liệt tứ chi Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi Lão tiều này ngỡ nực cười Mở cơm trong gói miệng mời Vân Tiên Gắng mà ăn uống cho yên Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà Khỏi ra rừng tới ngã ba May đâu gặp một chàng là Hớn Minh Lão tiều lật đật bôn trình Hớn Minh theo hỏi sự tình một khi Vân Tiên nghe nói cố tri Vội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mình Minh rằng: Dám hỏi nhân huynh Cớ sao nên nỗi thân hình thế ni? Tiên rằng: Chẳng xiết nói chi Thân này nào có khác gì cây trôi Lênh đênh gió dập sóng giồi Rồi đây mai đó, khôn rồi gian nan Minh rằng: Ðây khó hỏi han Xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau Tiều rằng: Chẳng dám ngồi lâu Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên Hớn Minh quỳ gối lạy liều Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành Nay hai lạng bạc trong mình Tôi xin báo đáp chút tình cho ông Tiều rằng: Lão vốn tay không Một mình ngẩn ngơ non tòng hôm mai Tấm lòng chẳng muốn của ai Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng Kìa non nọ nước thong dong Trăng thanh gió mát, bạn cùng hươu nai Công hầu phú quí mặc ai Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày Vân Tiên nghe biết người ngay Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn Lão tiều trở lại lâm sơn Tiên, Minh vội vã phản hoàn am mây Tiên rằng: Ðã gặp khoa này Cớ sao ngọc hữu ở đây làm gì? Minh rằng: Xưa dốc xuống thi Gặp nơi miếu võ cùng đi một lần Anh thì trở lại viếng thân Tôi thì mang gói trước lần xuống kinh Ði vừa tới phủ Ô Minh Gặp con quan huyện Ðặng Sinh là chàng Giàu sang ỷ thế dọc ngang Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì Tôi bèn nổi giận một khi Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò Mình làm nỡ để ai lo Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng. Án đày ra quận Sóc phang Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây Vừa may lại gặp chùa này Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương Vân Tiên nghe nói thảm thương Lại bày mọi khúc tai ương phận mình Minh nghe Tiên nói động tình Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng Tiên rằng: Thương cội thung huyên Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao Trông con như hạn trông dào Mình này trôi nổi phương nào biết đâu Vầng mây giăng bạc trên đầu Ba năm chưa trọn một câu sinh thành Hữu tam bất hiếu đã đành Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan Tưởng thôi như cắt ruột gan Quặn đau chín khúc, chứa chan mấy lần. Minh rằng: Người ở trong trần Có khi phú quí, có lần gian nan Thấp cao vàng biết tuổi vàng Gặp khi lửa đỏ màu càng thêm xuê Thôi thôi anh chớ vội về Ở đây nương náu toan bề thuốc thang Bao giờ hết lúc tai nàn Ðem nhau ta sẽ lập đàng công danh Cam La sớm gặp cũng xinh Muộn mà Khương tử cũng vinh một đời Nên hư có số ở trời Bôn chôn sao khỏi, đổi dời sao xong Vân Tiên khi ấy an lòng ở nơi am tự bạn cùng Hớn Minh Võ công làm việc trớ trinh

Chú thích: 1.Ba thứ tóc trên đầu: đầu đã đốm bạc, có ba thứ tóc đen, vàng (dở đen dở trắng) và trắng. 2.Âu: âm chính của chữ "ưu": lo 3.Lo lừa: lo tính, mưu làm một việc gì. 4.Lư-san: một núi có nhiều thắng cảnh ở tỉnh Giang-Tây, Trung-Quốc, đời Ân, Chu, anh em Khuôn Tục làm nhà ở ẩn trên núi này, nên cũng gọi là núi Khuông-Lư. 5. Ngũ viên: tên tự là Tử Tư, một tướng tài đời Xuân Thu, người nước Sở, cha và anh bị Sở Bình Vương giết, Tử Tư chạy trốn sang Ngô. Ðến một dòng sông, gặp ngư phủ, ngư phủ thấy Tử Tư đói, đi kiếm cơm cho ăn, và chở qua cứu thoát nạn. Sau Tử Tư giúp Ngô đánh phá Sở, báo thù cho cha anh. 6.Ðình trưởng: đời Tần, Hán, cứ mười lý đặt làm một đình, có đình trưởng coi giữ trộm cướp, Ðình còn gọi là nhưng quán nghỉ lập dọc đường, năm dặm một "đoản đình", mười dặm một "trường đình". 7.Hạng Võ (Vũ): một tướng tài có sức mạnh phi thường, đã đánh phá nhà Tần, lập nên cơ nghiệp nước Sở, tự xưng là Tây Sở Bá vương, giành thiên hạ với Lưu Bang tức Cao Hán Tổ, nổi tiếng bách chiến bách thắng trong cuộc "Hán Sở tranh hùng". Sau cùng, Hạng Vũ lại thua to, chạy đến sông Ô-Giang giáp đất Giang-đông, xứ sở của Vũ. Một người đình trưởng biết Vũ, chào thuyền mời Vũ qua sông để về Giang-Ðông. Vũ nghĩ thẹn với đồng bào và xứ sở của mình, không chịu về và lấy gươm tự tử. 8.Ân tình thế lợi khó tuyền đặng vay: một bên là ân tình, một bên là lợ thế (quyền thế, tài lợi), mâu thuẫn nhau, khó trọn vẹn được cả hai. 9.Ai cho sen muống một bồn: không ai trồng cây sen và rau muống trong một chậu 10.Phồn: tiếng miền Nam, có nghĩa là hạng người, như ta nói quân này, quân kia. 11.Thà không chót chịu một bề: thà không chồng mà ở một mình còn hơn. 12.Danh nhu (nho): người học trò nổi tiếng 13.Thủ khoa: người đậu đầu trong khoa thi hương. 14.Nhà cầu: cái nhà ngang nối nhà trước với nhà sau. 15.Tam canh: Canh ba (một đêm có năm canh) 16.Gay: buộc mái chào vào cọc chào, sửa soạn bơi thuyền đi. 17.Trớ trinh: tráo trở, đành hanh, trêu ngươi. 18.Cheo: tên một con thú, thuộc loài sóc. 19.Oan gia: chính chữ là "oán gia", tục (tiếng tục Trung-quốc), gọi trại là oan gia, chỉ kẻ oán thù với mình hay sự oán thù nói chung. Ðây là Vân Tiên nói có lẽ kiếp trước mình có nợ oán thù gì với Võ công, nên mới bị hãm hại như thế này (nói theo thuyết nhà Phật). 20.Thạch bàn: bàn đá, tảng đá lớn và phẳng. 21.Mưa tro: (tiếng miền Nam) mưa bụi, mưa phùn. 22.Du thần: vị thần đi dạo các nơi để xem xét nhân gian 23.Phù tiên: bùa tiên để giữ mình, tức đạo bùa của thầy Vân Tiên cho khi Vân Tiên đi thi. 24.Ðại lộc: lộc là chân núi, đại lộc tức dưới chân núi lớn (theo Kinh thư). 25.Sơn trung: trong núi. 26.Tới đường đại lộc là chừng: chừng: mức độ ấy, khoảng ấy, nói ông tiều qua rừng tới khoảng đường chân núi thì nghe thấy tiếng Vân Tiên ở quanh nơi đấy. Chữ "đại lộc" ở đây cũng như chữ "đại lộc" trên kia, nhiều bản chép là đại lộ (đường cái), xét ra không đúng nghĩa chỗ này. Du thần chỉ đưa Vân Tiên ra khỏi hang một dặm tới dưới chân núi trong rừng thôi, chứ không đưa ra ngoài đường cái, vì câu dưới nói: "Có tiếng trong rừng thở than", và mãi tới dưới nữa lại có câu: "Khỏi rừng ra tới ngã ba", rõ là Vân Tiên trước còn ở trong rừng, mãi sau ông tiều mới cõng ra đường cái. 27.Nhát (hoặc nát): dọa cho người ta sợ 28.Trong tuyết đưa than (hoặc cho than): do thành ngữ chữ Hán "Tuyết trung tống thán": cho than để sưởi ấm khi trời tuyết. Tống Thái Tông nhân tiết mưa tuyết, trời rét lắm, sai cho những người già yếu nghèo khổ than sưởi và gạo ăn. Nhân đó, người ta thường dùng chữ "Tuyết trung tống thán" để chỉ sự giúp đỡ người khi cần kíp cùng quẫn. 29.Khó ngồi giữa chợ, ai màng đoái thương: do câu thơ chữ Hán: "Bần cư nào thị vô nhân vần. Phú tại thâm sơn hữu khách tầm" nghĩa là người nghèo ở ngay giữa chợ búa nhộn nhịp không ai hỏi han, giàu ở tận trong núi sâu cũng có kẻ tìm đến. 30.Ẩn dật: ở ẩn không theo thế tục. 31.Hồi: trả lại, đền lại. Nói làm ơn mà trông báo đáp lại sao nên. 32.Bôn trình: đi vội trên đường, như nói rảo bước. 33.Còn nghi nỗi mình: Vân Tiên đã bị Trịnh Hâm và Võ công tráo trở hãm hại, nên tuy mừng gặp bạn cũ, nhưng vẫn còn nghi ngại nỗi mình. 34.Nhân huynh: người anh tốt, tiếng xưng hô. 35.Bán chầu: bán vào buổi ấy. 36.Non tòng: núi có nhiều cây thông. 37.Lộc rừng: lộc của rừng cho (đây là củi) 38.Lâm sơn: rừng núi. 39.Phản hoàn: quay trở về. Am mây: chùa trong mây, tức chùa trong núi. Ðây là ngôi chùa ở nơi vắng vẻ. 40.Ngọc hữu: bạn ngọc, bạn quí như ngọc 41.Viếng thân: thăm cha mẹ 42.Cưỡng gian không nghì: lấy sức mạnh mà hãm hiếp phụ nữ 43.Bẻ đi một giò: bẽ gãy một chân 44.Huyện đàng (đường ): dinh quan huyện 45.Sóc phang (phương): cũng như Bắc phương, nói quận ở phương Bắc. 46.Mai danh, ẩn tích: vùi tên, giấu tích, không cho ai biét đến mình. 47.Dào: mưa dào, mưa to. 48.Sinh thành: đẻ ra và nuôi dạy nên người, chỉ công ơn cha mẹ 49.Hữu tam bất hiếu: rút ra ở câu chữ Hán: "Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại" nghĩa là bất hiếu có ba điều, không có con là điều nặng nhất. Ðây nói: mình phải bỏ cuộc thi, chưa lập được công danh, để báo đáp công ơn cha mẹ, lại đeo tật bệnh, chưa lập được gia đình, để nối dõi dòng giống, thật là điều bất hiếu to lớn. 50.Tiểu đồng trước đã vì mình đã thác oan: câu này nối câu trên nói: đã không vẹn đạo con với cha mẹ, lại không vẹn tình thầy với trò, Vân Tiên cảm thấy vô cùng chua xót. 51.Cam La: người nước Tần thời Chiến quốc, sớm có tài mưu lược, mười hai tuổi đã đi sứ sang nước Triệu, vua Triệu thân ra đón tận ngoại thành và phải nhượng đất cho Tần, khi thành công về nước, được phong là chức Thượng Khanh. 52.Khương tử: ông họ Khương ("tử" là tiếng xưng hô chung về nam giới của Trung-quốc, như ta nói ông, chàng, gã v.v...), tức Khương tử Nha, xem chú thích ở câu 515. Hai câu này nói: công danh được sớm như Cam La (mười hai tuổi) càng hay, mà dù muộn như Khương tử (hơn tám mười tuổi) cũy vẫn vẽ vang. 53.Bôn chôn: vội vàng, hấp tấp, nóng ruột. 54.Am tự: am, chùa, chùa chiền.