Câu 1200 - 1399.
Dứt tình họ Lục, mến tình họ Vương. Kể từ định chước hại chàng Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui Ngày ngày trang điểm phấn giồi Phòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê Xẩy đâu Tử Trực vừa về Vào nhà họ Võ thăm bề Vân Tiên Công rằng: Chớ hỏi thêm phiền Trước đà lâm bệnh huỳnh tuyền xa chơi Thương chàng phận bạc ở đời Cũng vì Nguyệt Lão xe lơi mối hồng Nghe qua Tử Trực chạnh lòng Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa Than rằng: Chạnh nhớ linh xưa Nghĩa đà kết nghĩa, tình chưa phỉ tình Trời sao nỡ phụ tài lành Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn Cùng nhau chưa đặng vuông tròn Người đà sớm thác ta còn làm chi Trong đời mấy bậc cố tri Mấy trang đồng đạo, mấy người đồng tâm Công rằng: Lão cũng thương thầm Tủi duyên con trẻ sắt cầm dở dang Thôi thôi khuyên chớ thở than Lão đà tính đặng một đàng rất hay Tới đây thì ở lại đây Cùng con gái lão sum vầy thất gia Phòng khi hôm sớm vào ra Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên Trực rằng: Ngòi viết đĩa nghiên 1230.Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau Vợ Tiên là Trực chị dâu Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì Chẳng hay người học sách chi Nói sao những tiếng dị kỳ khó nghe Hay là học thói nước Tề Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công Hay là học thói Ðường cung Vợ người Tiểu Lạc sánh cùng Thế Dân Người nay nào phải người Tần Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm Nói sao chẳng biết hổ thầm Người ta há phải là cầm thú sao Võ công hổ thẹn biết bao Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua Thể Loan trong trướng bước ra Miệng cháo: Thày Cử tân khoa mới về Thiếp đà chẳng trọn lời thề Lỡ bề sửa tráp lỗi bề nâng khăn Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng Ðêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy Chẳng ưng thì cũng làm khuây Nỡ buông lời nói chẳng vì, chẳng kiêng Trực rằng: Ai Lữ Phụng Tiên Hòng toan đem thói Ðiêu Thuyền trêu ngươi Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi Lòng nào mà lỡ buông lời nguyệt hoa Hổ hang vậy cũng người ta So loài cầm thú vậy mà khác chi Vân Tiên anh hỡi cố tri Suối vàng có biết sự ni chăng là Tay lau nước mắt trở ra Về nhà sắm sửa tìm qua Ðông thành Võ công hổ thẹn trong mình Năm ngày nhuốm bệnh thất tình chết oan Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà Ðoạn này đến thứ Nguyệt Nga Hà khê phủ ấy theo cha học hành Kiều công lên chức Thái khanh Chỉ sai ra quận Ðông thành chăn dân Ra tờ khắp hết xa gần Hỏi thăm họ Lục tìm lần đến nơi Khiến quân đem bức thư mời Lục ông vâng lệnh tới nơi dinh tiền Kiều công hỏi truyện Vân Tiên Lục ông nhớ đến bỗng liền khóc than Thưa rằng: Nghe tiếng đồn vang Con tôi nhuốm bệnh giữa đàng bỏ thây Biệt tin từ ấy nhẫn nay Phút nghe người hỏi dạ này xốn xang Kiều công trong dạ bàng hoàng Trở vào thuật lại cùng nàng Nguyệt Nga Lục ông người nói cùng cha Duyên con rày đã trôi hoa dạt bào Riêng than chút phận tơ điều Hán giang chưa gặp, Ô kiều lại rơi Nàng rằng quả thiệt như lời Xin cha sai kẻ mời người vào trong Nguyệt Nga đứng dựa bên phòng Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa Công rằng: Nào bức tượng xưa Nguyệt Nga con khá đem đưa người nhìn Lục ông một buổi ngồi nhìn Tay chân mặt mũi giống y con mình Nguyệt Nga lạy gửi phân minh Lục ông khi ấy sự tình mới hay Thương con phận bạc lắm thay Nguyền xưa còn đó, con rày đi đâu Nguyệt Nga chi xiết nỗi sầu Lục ông thấy vậy càng đau gan vàng Kiếm lời khuyên giải với nàng Giải cơn phiền não kẻo mang lấy sầu Người đời như bóng phù du Sớm còn tối mất công phu lỡ làng Cũng như đống tịch đồng sàng Cũng chưa nên nghĩa tào khang đâu mà Cũng như cửa sổ ngựa qua Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền Nàng rằng: Trước đã trọn nguyền Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ Công rằng: Ơn trước ngãi xưa Liền đem vàng bạc tạ đưa cho người Lục ông cáo tạ xin lui Tôi đâu dám chịu của người làm chi Ngỡ là con trẻ mất đi Hay đâu cốt cách còn ghi tượng này Bây giờ con lại thấy đây Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nào? Ngửa than: Ðất rộng trời cao Tre còn măng mất, lẽ nào cho cân Lục ông tạ từ lui chân Kiều công sai kẻ gia thần đưa sang Nguyệt Nga nhuốm bệnh thở than Năm canh lụy ngọc, xốn xang lòng vàng Nhớ khi thề thốt giữa đàng Chưa nguôi nỗi thảm, lại vương lấy sầu Công đà chờ đợi bấy lâu Thà không cho gặp buổi đầu thì thôi Biết nhau chưa đặng mấy hồi Kẻ còn người mất trời ơi là trời Thề xưa tạc dạ ghi lời Thương người quân tử biết đời nào phai Tiếc thay một bậc anh tài Nghề văn, nghệp võ nào ai dám bì Thương vì đèn sách lòng ghi Uổng công nào thấy tiếng là gì đâu Thương vì hai tám trên đầu Người đời như bóng phù du lỡ làng Thương vì chưa đặng hiển vang Nước trôi sự nghiệp, hoa tàn công danh Thương vì đôi lứa chẳng thành Vùa hương, bát nước ai dành ngày sau Năm canh chẳng ngớt giọt châu Mặt nhìn bức tượng ruột đau như dần Dương gian nay chẳng đặng gần Âm cung biết có thành thân chăng là Kiều công thức dậy bước ra Nghe con than khóc, xót xa lòng vàng Khuyên rằng: Con chớ cưu mang Gẫm trong còn mất là đường xưa nay Ðàn cầm ai nỡ dứt dây Chẳng qua con tạo đổi xây không thường Nàng rằng: Khôn xiết nỗi thương Khi không gẫy gánh giữa đường chẳng hay 1Nay đà loan phụng rẽ bầy Nêm nghiêng, gối chính phận này đã cam Trăm năm thề chẳng lòng phàm Sông Ngân đưa bạn, cầu Lam rước người Thân con còn đứng giữa trời Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi Kiều công trong dạ chẳng vui: "Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?" Có người sang cả, ngôi cao Thái sư chức trọng trong trào sắc phong Nghe đồn con gái Kiều công Tuổi vừa hai tám, tơ hồng chưa xăng Thái sư dùng lễ vật sang Mượn người mai chước kết đàng sui gia Kiều công khôn ép Nguyệt Nga Lễ nghi đưa lại về nhà Thái sư Thái sư chẳng biết rộng suy Ðem điều oán giận sớm ghi vào lòng Xẩy đâu giặc mọi làm hung Ô-qua quốc hiệu, binh nhung dấy loàn Ðánh vào tới cửa Ðồng-Quan Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần Sao cho vững nước an dân Các quan ai biết mưu thần bày ra Thái sư sẵn có cừu nhà Vội vàng quỳ gối tâu qua ngai vàng Thuở xưa giặc mọi dấy loàn Cũng vì tham sắc phá tàn Trung Hoa Muốn cho an giặc Ô-qua Ðưa con gái tốt giao hòa thì xong .Nguyệt Nga là gái Kiều công Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh Nàng đã sắc khuynh thành Lại thêm rất bậc tài tình hào hoa Ðưa nàng về nước Ô-qua Phiên vương ưng dạ ắt là bãi binh Sở vương nghe tấu thuận tình Châu phê khiến sứ ra dinh Ðông-thành Sắc phong Kiều Lão Thái Khanh Việc trong nhà nước, trẫm đành cậy ngươi Nguyệt Nga nàng ấy nên người Lựa ngày tháng chín, hai mươi cống Hồ Kiều công vâng lệnh nhà vua Lẽ nào mà dám nói phô điều nào Nguyệt Nga trong dạ như bào
Chú thích: 1.Huỳnh tuyền (hoàng tuyền): suối vàng, cõi chết. Nói Vân Tiên đã bị bệnh chết rồi 2.Xe lơi: xe lỡ, xe dở dang. 3.Linh: tiếng dùng để chỉ người đã chết rồi. 4.Ðồng đạo: cùng theo một đạo lý. Ðồng tâm: cùng chung một lòng. 5.Thất gia: nhà cửa (như nói gia đình), tức vợ chồng 6.Ngòi viết, đĩa nghiên: bút nghiên, hình tượng này được dùng để chỉ tình bằng hữu thân thiết trong việc học hành. 7.Vợ Tiên là Trực chị dâu: Trực chị dâu tức là chị dâu Trực, tác giả theo cú pháp chữ Hán. Người Trung-quốc thường coi người bạn thân hơn tuổi như anh ruột, và coi vợ bạn như chị dâu. 8.Tử Củ: con Hi Công nước Tề. Hi Công chết anh Tử Củ là Tương Công lên kế ngôi, chính sự rối nát, bị bầy tôi là Vô Tri giết chết. Khi ấy Tử Củ chạy sang nước Lỗ, em là Tiểu Bạch chạy sang nước Cử. Sau Tiểu Bạch về nước trước, lên làm vua (tức là Hoàn công) sai người nói với vua Lỗ giắt Tử Củ và lại lấy vợ Tử Củ. 9.Ðường cung: cung nha Ðường (618-907) 10.Thế Dân: Lý Thắ Dân, tức Ðường Thái Tông. Thế Dân giết em là Tiểu Lạc và lấy vợ em. Tích này trong Ðường sử chép lại là Nguyên Cát, đây nói là Tiểu Lạc, có lẽ sai. 11.Bất Vi: Lã Bất Vi, người nước Tần, một lái buôn giàu có và xảo quyệt. Khi Bất Vi đến nước Triệu, thấy cháu vua Tần là Dị Nhân đang làm con tin ở đó, y nói: "Người này là món hàng quí có thể tích trữ đầu cơ được" (Kỳ hóa khả cư), rồi y mưu mô cho Dị Nhân được về nước lên kế ngôi làm vua, và y làm Tể Tướng. Bất Vi còn lấy một người thiếp rất đẹp, khi có thai, đem gán cho Dị Nhân, ít lâu sau sinh được người con trai, Dị Nhân vẫn tưởng là con mình, nên được kế ngôi, tức Tần Thủy Hoàng. Sau Bất Vi vì thông tinh với thái hậu (mẹ Thủy Hoàng, tức người thiếp của y trước), việc tiết lộ, bị đày vào Tứ-Xuyên, rồi y uống thuốc độc tự tử. 12. Dạ thỏ: lòng con thỏ, Thể Loan ví với lòng mình. Người xưa bảo cung trăng có con thỏ, -lại bảo con thỏ trông bóng trăng mà chửa. Hai câu này: giải theo thuyết trên thì nghĩa là: ôm nặng tấm lòng, như con thỏ ngồi trong bóng trăng mà chờ đợi, hay theo thuyết dưới, thì... con thỏ trông lên bóng trăng mà chờ đợi, nhưng theo thuyết dưới thuận nghĩa hơn. Thể Loan nói có lòng chờ đợi Tử Trực. 13.Lữ Phụng Tiên: Lã Phụng Tiên. Lữ Bố, một võ tướng đời Tam quốc, con nuôi và chân tay của Ðổng Trác. Trác mưu cướp ngôi nhà Hán. Vương Doãn, một trung thần nhà Hán, có người con gái hát trong nhà (ca cơ) tên là Ðiêu Thuyền, sắc đẹp, bàn dùng kế ly gián: trước hứa gả cho Lữ Bố, sau lại đem hiến cho Ðổng Trác. 14.Thất tình: bị việc gì trái mình mà uất ức phiền não trong lòng. 15.Cư tang: đạ tang, chịu tang 16.Thái khanh: một chức quan to 17.Chăn dân: do chữ Hán "mục dân": trị dân. 18.Dinh tiền: trước dinh. 19.Xốn xang: xôn xao, thổn thức, (tiắng miền Nam) 20.Hán giang: có bản chép là Hàn giang, xét ra không đúng nghĩa. Hàn giang tức là sông Hán (sông Ngân) trên trời; theo chữ Hán, sông này có nhiều tên: Thiên hà, Thiên hán, Ngân hà, Ngân hán, Vân hán, Hà hán. 21.Ô kiều: cầu Ô. Theo các sách Hoài Nam và Phong tục ký: Ðêm thất tịnh (đêm mồng bảy tháng bảy âm lịch) chim ô thước (quạ và vẹt) sắp hàng làm cầu bắc qua sông Ngân cho vợ chồng Ngâu gặp nhau. Câu này nói: Nguyệt Nga chưa được gặp Vân Tiên mà nhân duyên lỡ dở, cũng như vợ chồng Ngâu chưa được gặp nhau trên sông Ngân, mà nhịp cầu Ô đã long mất, rơi mất rồi. 22.Phù du: con vờ, một thứ trùng có cánh, hay bay trên mặt nước, sống một thời gian rất ngắn. nói đời ngước, sống một đời người ngắn ngủi. 23.Ðồng tịch đồng sàng: cùng giường cùng chiếu, chỉ vợ chồng. 24.Cửa sổ ngựa qua: nói đời người chóng qua như bóng ngựa chạy qua cửa sổ 25.Dẫu thay mái tóc phải nhìn qua mối tơ: dẫu tóc bạc tuổi già cũng phải giữ lấy mối tơ. 26.Cáo tạ: cũng như cáo từ, từ tạ với chủ nhân đạ xin về. 27.Dám chịu: dám nhận 28.Tre còn măng mất: nói cha già thì còn, con trẻ thì đã chết. 29.Gia thần: người hầu hạ trong nhà quan. 30.Ðèn sách ghi lòng: ký chú việc đèn sách. 31.Vùa hương: bình hương 32.Dương gian: khoảng có mặt trời chiếu tức cõi sống. 33.Âm cung: âm phủ, chỗ toàn bóng tối, tức cõi chết. 34 Thành thân: nên vợ nên chồng, nói: sống không lấy được nhau, không biết chết xuống cõi âm có được thành vợ thành chồng không? 35.Cưu mang: ôm ấp, bận bịu, lo ngại. 36.Loan phụng: hai chữ chim thường dùng để tượng trưng cho vợ chồng đôi lứa tốt đẹp 37.Gối chích: gối chếch (lệch). Nệm nghiêng gối chích: nói loan phụng phải rẽ nhau, tình cảm đổi xây đột ngột nệm gối như bị xô lộn mà nghiêng lệch đi. Chữ Hán cũng dùng: khi trầm (gối nghiêng). 38.Sông Ngân: xem chú thích ở câu 245, 246. 39.Cầu Lam: chữ Hán Lam kiều, tức cầu trên ngòi Lam (Lam Khê) ở huyện Lam-Ðiền tỉnh Thiểm-Tây (Trung-quốc). Theo sách Thái-Bình quảng ký. Bùi Hàng đời Ðường gặp bà tiên Vân Kiều cho bài thơ, trong có chữ Lam Kiều, sau Hàng đến trạm Lam-kiều, khát nước, vào xin một bà lão gần đấy, được Vân Anh, con gái bà đưa nước ngọc dịch (thứ nước tiên) cho uống. Hàng thấy Vân Tiên tuyệt đẹp, muốn lấy, bà lão bảo: bà cần dùng cối ngọc và chầy ngọc để gia (luyện) thuốc huyền sương (thứ thuốc tiên) nếu có những thứ ấy làm sính lễ thì gả cho. Hàng về tìm được cối chầy ngọc đưa đến lại ở đấy giã thuốc tiên cho bà một trăm ngày, rồi Hàng lấy Vân Anh và hai vợ chồng cùng thành tiên (Truyện Kiều: "Chầy sương chưa nệm cầu Lam", sương tức thuốc huyền sương. 40.Tiết: xem chú thích ở câu 6 và câu 164 41.Thái sư: chức quan to nhất triều đình 42.Xăng: xe chặt, gắn bó 43.Mai chước (mối chước): người làm mối trong việc lấy vợ, lấy chồng 44.Lễ nghi: các cuộc lễ có nghi thức chương trình, cũng có nghĩa là các lễ vật. Ðây là các lễ vật mà Thái sư đưa đến để hỏi vợ cho con. 45.Ô-qua: Theo Gia định Thông chí thì ở miền Châu-Ðốc Hà-Tiên trước kia thường có giặc Qua Oa ở ngoài bể vào cướp phá. Quân Miến-Ðiện xưa, còn gọi là Ô-đỗ cũng hay đe dọa miền Hà-Tây, Châu-Ðốc. Có thể là Nguyễn Ðình Chiểu đã nhớ lại những giặc xâm lược này mà đặt tên nước Ô-qua chăng. 46.Binh nhung: binh sĩ, cũng có nghĩa là khí giới. Ðây chỉ binh sĩ. Dấy loàn: làm loạn. Nói nước Ô-qua đem quân quẫy nhiễu cõi biên. 47.Ðồng-Quan: một cửa ải hiểm yếu ở biên giới Hán Hồ. 48.Lưỡng ban: hai ban văn võ. Quân thần: bầy tôi trong một triều đình 49.Cừu: thù hằn 50.Khuynh thành: nghiêng thành. Lý Diên Niên đời Hán có câu ca: "Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc" (có bản chép là "Nhất tiếu"... "tái tiếu"...), nghĩa là một cái nhìn làm nghiêng thành, hai cái nhìn làm nghiêng nước (hay một cái cười... hai cái cười...), nói: cái nhìn (hay cái cười) của người con gái đẹp khiến vua chúa phải say mê đến nỗi mất thành mất nước. Do đó, người ta thường dùng danh từ "khuynh thành" "khuynh quốc" để chỉ những người con gái có sắc đẹp. 51.Hào hoa: hào là khí phách khác người, hoa là văn vẻ tỏ dạng. 52.Châu phê: vua hạ bút son phê vào tờ chiếu chỉ (châu: son) 53.Cống Hồ: đem dâng cho nước Hồ (tức nước Hung-nô ở phía Bắc Trung-quốc, người Trung-quốc thường gọi là nước Hồ)