← Quay lại trang sách

- 6 - Ảnh cưới

Bất chấp nỗ lực của tôi và Vera, Valentina và con trai cô ả Stanislav đã quay lại Anh vào ngày 1 tháng Ba. Họ vào qua cửa khẩu Ramsgate, thị thực du lịch sáu tháng. Không ai trong Đại sứ quán Anh ở Kiev phản đối cấp thị thực cho họ; người ở Ramsgate chỉ liếc vội qua hộ chiếu của bọn họ. Ngay khi quay lại Peterborough, họ chuyển về ở chung với Bob Tumer. Valentina kiếm được việc làm ở một khách sạn gần thánh đường và nhanh chóng bắt tay vào kế hoạch kết hôn với ba tôi. Sau hàng giờ nói chuyện điện thoại, tôi mới moi ra được chừng đó thông tin.

Ba tôi cố giấu kế hoạch của mình không cho chị em tôi biết. Khi bị hỏi thẳng, ông lảng sang chuyện khác. Nhưng ông không phải là người quen nói dối nên bị bắt giò ngay. Ông quên khuấy mất những điều từng nói với chúng tôi, và tưởng rằng chúng tôi vẫn không thèm nói chuyện với nhau. Nhưng chúng tôi đã bắt đầu chia sẻ thông tin.

‘Đương nhiên là cuối cùng ba cũng gửi cho ả 1.800 bảng, Vera à. Ba chuyển vào tài khoản của ả rồi ả rút ra hết. Ba cũng gởi tiền thường xuyên cho ả trong suốt thời gian ả không có ở đây’

‘Thật hết nói nổi! Quá đáng!’ Giọng Bà Chị Lớn rít lên the thé. ‘Thế là gần hết khoản lương hưu của ông ta rồi còn gì.’

‘Ba còn gửi tiền để ả và Stanislav đi từ Lviv đến Ramsgate. Sau đó ả nói là ả cần thêm tiền để có thị thực quá cảnh qua Áo.’

‘Mẹ nói đúng quá’ Vera thốt lên. ‘Ba mất trí rồi.’ ‘Khi hết tiền thì ba phải bó tay thôi’

‘Có thể. Nhưng có thể đây chỉ là bắt đầu thôi.’

Ba tôi chẳng những cứu vớt người phụ nữ Ukraina xinh đẹp nhưng bất hạnh mà còn muốn vun đắp tài năng cho cậu con trai có trí thông minh thiên tài của ả.

Stanislav, mười bốn tuổi, được gửi đến một nhà tâm lý học độc lập. Ông này được ba tôi trả một khoản lệ phí vừa phải để kiểm tra chỉ số IQ của thằng nhóc và viết giấy chứng nhận nó là một thiên tài. Nhờ thế mà thằng bé (cũng đồng thời là một nghệ sĩ dương cầm tài năng) được nhận vào học ở một trường tư nổi tiếng ở Peterborough. (Đương nhiên nó quá thông minh để vào học ở trường phổ thông địa phương vốn chỉ dành riêng cho con cái của đám nông dân.)

Chị tôi, người phải lo trả một khoản tiền lớn cho hai cô con gái thông minh thiên tài đi học ở một trường cao cấp, đã hết sức phẫn nộ. Tôi, kẻ đưa đứa con gái thông minh thiên tài của mình học ở trường phổ thông địa phương, cũng hết sức phẫn nộ. Cơn giận của chúng tôi nổ đì đùng qua lại theo đường dây điện thoại. Cuối cùng thì chúng tôi cũng tìm được điểm chung.

Và một vấn đề nữa. Romeo và Juliet đã phải trả giá mới hiểu ra rằng kết hôn không bao giờ chỉ là việc của hai kẻ đang yêu mà còn là việc của gia đình hai bên. Vera và tôi không muốn Valentina bước vào gia đình mình.

‘Nói thẳng ra’ Vera lên tiếng. ‘Chúng ta không muốn một kẻ tầm thường như vậy’ (Tôi không có nói đâu nhé!) ‘mang họ của chúng ta.’

‘Ồ thôi nào, Vera. Gia đình chúng ta cũng có gì đặc biệt đâu. Chúng ta cũng chỉ là một gia đình bình thường, như mọi người khác thôi.’

Tôi bắt đầu thách thức vai trò bảo vệ lịch sử gia đình mà Bà Chị Lớn tự khoác vào mình. Chị không ưa điều đó chút nào.

‘Chúng ta là một gia đình tư sản truyền thống, Nadezhda. Không phải là đám mới nổi.’

‘Nhưng gia đình Ocheretko thì sao? Tá điền giàu có...’

‘Chủ nông trại.’

‘... sau trở thành kẻ buôn bán ngựa.’

‘Nuôi ngựa’

‘Lại còn là người Cô dắc nữa. Có thể nói là hơi hoang dã một chút’

‘Sôi nổi chứ’

‘Còn gia đình Mayevskyi là giáo viên’

‘Ông nội Mayevskyi là Bộ trưởng Bộ Giáo dục’ ‘Nhưng chỉ trong vòng sáu tháng. Của một quốc gia không tồn tại.’

‘Đương nhiên là Ukraina Tự do có tồn tại chứ. Thật tình, Nadia à, vì sao cô cứ nhìn mọi việc một cách u ám vậy chứ? Cô nghĩ cô là thư ký của lịch sử à?’

‘Không nhưng...’ (Thực ra đúng là tôi nghĩ như vậy.) ‘Khi tôi còn nhỏ...’ Giọng chị dịu lại. Tôi nghe tiếng chị lục tìm thuốc lá. ‘Khi tôi còn nhỏ, bà Sonia thường kể cho tôi nghe câu chuyện về đám cưới của bà. Một đám cưới là phải như vậy chứ, đâu phải là trò hề thảm hại mà ba chúng ta bị lôi kéo vào đâu’

‘Nhưng nhìn ngày tháng đi, Vera. Cô dâu lúc ấy đã mang bầu bốn tháng rồi’

‘Họ yêu nhau mà.’

Chuyện gì đây? Bà Chị Lớn trở nên lãng mạn lãng xẹt rồi sao?

Bà ngoại tôi, Sonia Blazhko, cưới Mitrofan Ocheretko năm mười tám tuổi tại thánh đường Thánh Michael vòm vàng ở Kiev. Bà mặc một chiếc váy trắng và đeo mạng che mặt, lủng lẳng trên cổ là một mặt dây chuyền vàng tuyệt đẹp. Mái tóc nâu dài của bà đội một vòng hoa trắng. Dù dáng bà thanh mảnh, nhưng cái bụng bầu của bà hẳn đã lộ rõ. Người anh cả của bà, Pavel Blazhko, kỹ sư đường sắt, sau này là bạn của Lênin, dắt bà đi dọc lối đi giữa nhà thờ bởi ba của bà quá yếu không thể đứng suốt buổi lễ. Chị gái của bà, Shura, vừa tốt nghiệp bác sĩ, làm phù dâu. Hai cô em gái vẫn còn đi học tung những cánh hồng vào người bà, và òa khóc khi chứng kiến bà hôn chú rể.

Đàn ông nhà Ocheretko sải bước dài vào nhà thờ với giày cưỡi ngựa, áo sơ mi thêu và quần thụng kỳ dị. Phụ nữ thì mặc váy xòe rộng, đi giày bốt đế nhỏ, tóc thắt dây nơ. Họ đứng túm tụm thành một nhóm nhặng xị ở sau nhà thờ, rồi nhanh chóng bỏ đi vào cuối buổi lễ mà chẳng thèm cho tiền linh mục.

Gia đình Blazhko coi thường gia đình chú rể, cho rằng những người đó thật thô lỗ, chỉ đỡ hơn tướng cướp đôi chút, uống say xỉn và chẳng bao giờ chải tóc. Gia đình Ocheretko lại nghĩ bọn người Blazhkov là đám thị dân cáu kỉnh và là những kẻ phản bội đất nước. Sonia và Mitrofan không quan tâm đến suy nghĩ của cha mẹ. Họ đã ăn nằm với nhau, và trái ngọt đang đến với họ.

‘Đương nhiên nó bị kéo đổ vào năm 1935’

‘Cái gì cơ?’

‘Thánh đường Thánh Michael vòm vàng đấy’

‘Ai kéo đổ?’

‘Thì cộng sản chứ ai’

Ha! Thì ra đằng sau câu chuyện lãng mạn này cũng ẩn giấu thông điệp đấy chứ.

‘Ba và Valentina yêu nhau, Vera à’

‘Sao cô có thể nói những lời ngớ ngẩn đến thế, Nadia? Cô không bao giờ chịu lớn lên à? Nghe này, cô ả muốn kiếm hộ chiếu và giấy phép lao động, và cả số tiền ít ỏi mà ba dành dụm được. Quá rõ ràng rồi. Ba thì bị cặp vú của nó làm mê mẩn. Ba chẳng nói đến thứ gì khác cả.’ ‘Ba cũng hay nói chuyện về máy kéo đấy chứ.’

‘Máy kéo và vú. Thế đấy.’

(Sao chị ấy lại ghét ba đến vậy?)

‘Còn về ba mẹ chúng ta, chị có nghĩ là họ cưới nhau vì tình yêu không? Liệu có phải đó chỉ là một cuộc hôn nhân vụ lợi không?’

‘Chuyện đó khác. Mỗi thời một khác’ Vera nói. ‘Lúc ấy mọi người phải tìm cách để sống sót. Mẹ đáng thương - sau ngần ấy chuyện xảy ra lại lấy phải ba. Đúng là số phận trớ trêu!’

Năm 1930, khi mẹ tôi mười tám, ba của bà bị bắt. Lúc bấy giờ là vài năm trước khi các cuộc thanh trừng lên tới đỉnh điểm kinh hoàng, nhưng chuyện xảy ra thời ấy thật vô cùng đáng sợ: nửa đêm có tiếng gõ cửa, con nít òa lên khóc, bà ngoại tôi Sonia Ocheretko mặc áo ngủ, mái tóc dài buông xõa sau lưng, năn nỉ đám cảnh sát.

‘Đừng lo, đừng lo!’ ông ngoại tôi gọi với lại khi họ kéo ông đi với mỗi bộ quần áo đang mặc trên người. ‘Đến sáng anh sẽ về thôi.’ Bọn họ không bao giờ gặp lại ông nữa. Ông không bao giờ được đưa ra xét xử.

Sáu tháng sau đó, ngày nào Ludmilla cùng các anh chị em cũng theo mẹ đem một gói đồ ăn đến trại giam. Họ đưa đồ ăn cho lính gác ở cửa, hy vọng một phần đồ ăn sẽ tới tay ông ngoại. Một ngày nọ, viên lính gác nói, ‘Mai không cần tới nữa đâu. Ông ấy không cần thức ăn nữa.’

Bọn họ đã gặp may. Những năm thanh trừng chính trị sau đó, chẳng những người phạm tội mà gia đình, bạn bè, đồng nghiệp hay bất kỳ ai bị nghi ngờ có liên quan đều bị bắt đi cải tạo. Ocheretko bị xử tử, nhưng gia đình ông thoát tội. Lúc ấy ở lại Kiev không còn an toàn nữa. Ludmilla cũng bị đuổi khỏi khóa chuyên ngành thú y ở trường đại học - bà giờ đã là con gái kẻ thù của nhân dân. Anh em bà đều bị buộc nghỉ học. Họ chuyển về khutor và cố tìm cơ sống sót.

Chuyện đó chẳng dễ dàng gì. Dù đất nông nghiệp ở Poltava thuộc loại màu mỡ nhất cả Liên Xô, người nông dân vẫn phải đối mặt với nạn đói.

Họ ăn thịt cừu, gà, dê, rồi tới chó, mèo; rồi thì chuột cống, chuột nhắt; rồi chẳng còn gì để mà ăn ngoại trừ cỏ. Khoảng bảy đến mười triệu người đã chết trên khắp Ukraina trong nạn đói năm 1932-1933.

Sonia Ocheretko sống sót. Bà nấu canh suông từ cỏ và lá chút chít dại hái ngoài đồng. Bà đào cải ngựa, rễ atisô, tìm được một ít khoai tây trong vườn. Đến khi rau cỏ đều hết, họ bẫy lũ chuột sống trên mái lá để ăn, rồi đến lúc phải ăn cả mái lá và nhai da thuộc để làm dịu cơn đói. Khi đói quá không ngủ được, họ thường cất tiếng ca:

‘Có một ngọn đồi cao, và bên dưới là đồng cỏ,

Đồng cỏ xanh ngắt tốt tươi

Tưởng như đang ở thiên đường vậy’

Ở làng bên, có một người phụ nữ đã ăn thịt đứa con nhỏ của mình. Chị ta phát điên và lang thang khắp đường làng ngõ hẻm mà kêu khóc, ‘Nó chết rồi mà. Nó chết rồi. Ăn thì có sao? Thật là béo mập! Sao lại lãng phí? Tôi không có giết nó! Không! Không! Không! Nó chết trước mà’

Khutor nằm ở nơi hẻo lánh, nhờ vậy mà họ sống sót - nếu có ai đó nghĩ tới họ thì cũng tưởng họ chết rồi. Năm 1933, họ may mắn xoay được giấy phép đi lại và đã làm một cuộc hành hình dài đến Luhansk, về sau được đổi tên thành Voroshilovgrad, nơi chị của Sonia là Shura đang sống.

Shura là bác sĩ, lớn hơn Sonia sáu tuổi. Bà là người vui tính, thích các loại mũ đắt tiền, tóc bà nhuộm đỏ và giọng cười khàn khàn (bà hút thuốc lá tự cuốn tự tay trồng trong vườn nhà.) Bà sống với một ông chồng già, Đảng viên và là bạn của Nguyên soái Voroshilov, một người rất có thế lực. Họ sống trong một ngôi nhà gỗ kiểu cũ ở ven thị trấn, với mái hiên chạm trổ, cửa sổ sơn xanh, hoa hướng dương và cây thuốc lá mọc đầy vườn. Shura không có con nên rất thương con của Sonia. Khi Sonia tìm được chỗ dạy học và chuyển tới sống trong một căn hộ nhỏ trong thị trấn với hai đứa bé hơn, Ludmilla ở lại với bà Shura. Chồng bà Shura tìm cho cô việc làm trong một xí nghiệp đường sắt ở Luhansk, ở đó cô phải học lái cẩu. Ludmilla ngần ngừ. Cô sẽ làm gì với cần cẩu chứ?

‘Làm đi cháu’ bà Shura thúc giục. ‘Cháu sẽ trở thành một người vô sản’

Lúc đầu, việc điều khiển những cỗ máy khổng lồ này quay theo ý mình khiến Ludmilla cảm thấy thích thú. Nhưng sau đó công việc trở nên chán ngắt. Rồi chán chết đi được. Một lần nữa cô mơ mộng được trở thành bác sĩ thú y. Thú vật tỏa ra sinh khí, lại ấm áp khi chạm vào, làm ta thích thú hơn khi sai bảo, và ngoan ngoãn hơn những cỗ máy đơn thuần chỉ biết hoạt động nhờ đòn bẩy. (‘Cần cẩu hay máy kéo làm sao so sánh được với ngựa hả con, Nadia!’) Bác sĩ thú y thời đó chỉ chữa bệnh cho súc vật đáng tiền - bò cái, bò đực, ngựa. (‘Thử nghĩ xem, Nadia, đám người Anh này sẵn sàng bỏ ra cả trăm bảng để cứu mạng mèo hay chó thứ có thể nhặt đầy đường. Tốt bụng mà ngu ngốc quá!’)

Cô viết thư cho Học viện ở Kiev và nhận được một xấp đơn xin học yêu cầu cô ghi rõ nghề nghiệp của cô, của cha mẹ cô và của ông bà cô - vị trí của họ trong cấu trúc giai cấp. Thời ấy chỉ những người thuộc giai cấp lao động mới được học đại học mà thôi. Cô gửi đơn đi với trái tim nặng trĩu và chẳng ngạc nhiên khi không nhận được hồi âm. Hồi ấy cô hai mươi ba tuổi, vậy mà cuộc đời dường như đã bị chặn ngang. Rồi cô nhận được thư của cậu trai kỳ lạ từng học chung với cô.

Đám cưới, cũng như đám ma, là sàn diễn tốt nhất cho vở bi kịch gia đình: nghi lễ, trang phục biểu trưng và mọi cơ hội để tỏ vẻ hợm hĩnh dưới mọi hình thức. Theo Vera, gia đình ba tôi không thích gia đình Ocheretko. Đứa con gái Ludmilla thì đẹp đấy, bà Nadia nói, nhưng bừa bãi quá; và không may là cha cô ả, nói theo cách nói giảm nói tránh, lại còn là ‘kẻ thù của nhân dân’.

Bà Sonia thì thấy gia đình ba tôi khác thường và kiêu căng. Nhà Mayevskyi là một bộ phận của giới trí thức nhỏ của Ukraina. Ông nội Mayevskyj cha của Nikolai, là một người đàn ông cao ráo, tóc bạc để dài, đeo kính mắt nhỏ. Trong thời gian nở hoa ngắn ngủi của nền độc lập ở Ukraina vào năm 1918, ông trở thành Bộ trưởng Bộ Giáo dục trong sáu tháng. Sau khi Stalin lên cầm quyền và mọi ý tưởng về quyền tự trị cho người Ukraina bị đánh bật gốc, ông trở thành hiệu trưởng trường học tiếng Ukraina ở Kiev, nơi học sinh đăng ký tự nguyện và chịu sự giám sát chặt chẽ của chính quyền.

Ba mẹ tôi gặp nhau lần đầu ở chính ngôi trường này. Họ học chung một lớp. Nikolai là người luôn giơ tay phát biểu đầu tiên, luôn đứng đầu lớp. Ludmilla nghĩ cậu ta đúng là đồ-biết-tuốt hợm hĩnh.

Nikolai Mayevskyj và Ludmilla Ocheretko cưới nhau trong phòng hộ tịch ở Luhansk vào mùa thu năm 1936. Lúc đó họ hai mươi bốn tuổi. Không có nhà thờ vòm dát vàng, chuông hay hoa tươi. Buổi lễ được tổ chức bởi một nữ Đảng viên mập mạp mặc vest xanh ve chai và áo choàng màu cháo lòng. Cô dâu không mang bầu và chẳng có ai khóc, dẫu có nhiều điều đáng phải khóc lắm.

Họ có yêu nhau không?

Không, Vera nói, mẹ cưới ba vì bà cần một lối thoát. Có, ba tôi nói, bà ấy là người đáng yêu nhất ba từng gặp, và là người sôi nổi nhất. Con cứ nhìn đôi mắt sẫm màu của mẹ khi mẹ nổi giận đi. Trên sân trượt, mẹ lướt đi như một bà hoàng. Dáng ngồi trên lưng ngựa của mẹ là một kỳ quan.

Dẫu có yêu nhau hay không thì họ cũng sống bên nhau sáu mươi năm trời.

‘Ba ơi, ba còn nhớ gì về cô Ludmilla ấy? Kể cho con biết mẹ thế nào khi hai người gặp nhau lần đầu đi?’ (Tôi cố dùng liệu pháp hồi ức. Tôi có phần hy vọng khi nhớ về mẹ tôi thì ông sẽ quên đi con ả kia.) ‘Có phải là tình yêu từ cái nhìn đầu tiên không? Mẹ rất đẹp, đúng không?’

‘Ừ. Đẹp về mọi mặt. Nhưng đương nhiên là không đẹp bằng Valentina.’

Rồi ông ngồi đó mỉm cười bí hiểm, những lọn tóc bạc vương nơi cổ áo sờn, cặp kính gãy được dán lại bằng băng keo màu nâu ngự nơi chóp mũi nên tôi không thể nhìn thấy mắt ông, bàn tay sưng lên vì bệnh viêm khớp của ông đang nâng niu một cốc trà. Tôi muốn chộp lấy cốc trà mà hất thẳng vào mặt ông. Nhưng tôi nhận ra ông không biết, không hề biết những lời nói của mình tác động đến tôi thế nào.

‘Ba có yêu mẹ không?’ (Ý tôi muốn hỏi ba có yêu mẹ tôi nhiều hơn con ả kia không.)

‘Ôi tình yêu! Tình yêu là thứ gì! Không ai hiểu nổi. Ở điểm này, khoa học phải nhường bước cho thi ca rồi’

Ba tôi không mời chúng tôi đến dự lễ cưới, nhưng ông vô tình buột miệng nhắc đến ngày cưới. ‘Không cần đến thăm đâu. Mọi việc đều ổn. Con có thể đến sau ngày 1 tháng Sáu’ ba tôi nói.

‘Chúng ta còn bốn tuần để ngăn cản cô ả’ chị tôi nói.

Nhưng tôi ngần ngừ. Tôi cảm động trước hạnh phúc và sức sống mới của ba. Hơn nữa, tôi nghĩ tới ý kiến của Mike.

‘Có lẽ mọi chuyện sẽ ổn thôi. Có lẽ cô ta sẽ chăm sóc ba và làm ba hạnh phúc trong những năm cuối đời. Như thế tốt hơn đi viện dưỡng lão nhiều’

‘Làm ơn đi, Nadia. Cô không nghĩ là con ả đó chịu ở lại khi ba già lão, nhỏ dãi và bất lực chứ? Ả sẽ vơ vét tất cả rồi biến.’

‘Nhưng nói thẳng ra thì cả chị lẫn em đều không chăm sóc ba khi ba già cả, phải không?’ (Tốt nhất là nói sự thật, dù nó quá thẳng thừng.)

‘Tôi hết lòng chăm sóc mẹ. Còn về ba thì tôi chỉ cảm thấy có nghĩa vụ thôi: không hơn’

‘Muốn yêu thương ba cũng không dễ’ Không phải tôi đang cố ra vẻ buộc tội, nhưng chị tôi lại cảm thấy vậy.

‘Tình yêu không có chỗ ở đây. Tôi sẽ làm đúng trách nhiệm của mình, Nadezhda. Tôi cũng thành thật mong cô làm như vậy. Dẫu điều đó có nghĩa là chúng ta phải giúp ba không biến mình thành một thằng ngốc không não’ ‘Đúng là em không thể lúc nào cũng ở bên chăm sóc cho ba được, Vera à. Em và ba lúc nào cũng cãi nhau, ở chung chắc em điên quá. Nhưng em muốn ba sống tốt - sống hạnh phúc. Nếu Valentina làm ba hạnh phúc...’

‘Đây không phải chuyện hạnh phúc mà là vấn đề tiền bạc, Nadezhda à. Cô không thấy sao? Tôi nghĩ với tư tưởng thiên tả của cô, cô sẽ ủng hộ bất kỳ ai muốn đến tước đoạt của cải của những người làm ăn chân chính’ ‘Thiên tả chẳng liên quan gì ở đây hết. Chỉ là chuyện đâu là điều tốt nhất cho ba thôi’ (Giọng tự mãn. Thấy chưa? Tôi đâu có phát xít như chị đâu.)

‘Đương nhiên là vậy. Đương nhiên là vậy. Tôi có bao giờ ám chỉ tới chuyện khác đâu?’

Chị tôi lại gọi cho Bộ Nội vụ lần nữa. Họ bảo với chị là phải viết đơn. Chị lại viết đơn nặc danh. Sau đó chị gọi điện đến phòng hộ tịch nơi hai người định đăng ký kết hôn. Hộ tịch viên lắng nghe chị nói một cách thông cảm.

‘Nhưng cô biết đấy, nếu ông ấy quyết tâm thì tôi chẳng làm gì khác được’ hộ tịch viên nói.

‘Nhưng giấy tờ ly dị chồng của cô ta ở Ukraina chỉ vừa đến vào giờ chót. Vả lại sau khi bọn họ ly dị, cô ta còn quay về sống chung với anh ta nữa mà.’

‘Tôi sẽ kiểm tra lại giấy tờ, nhưng nếu mọi thứ đều ổn...’

‘Vậy còn việc dịch thuật thì sao? Khi nước đến chân rồi cô ta đã phải đem đi dịch gấp ở một trung tâm dưới London. Họ rất có thể nhầm lẫn giữa quyết định ly dị chính thức và quyết định ly dị tạm thời’ Chị gái tôi là một chuyên gia về ly dị.

‘Đương nhiên tôi sẽ xem xét nó kỹ càng. Nhưng tôi không biết tiếng Ukraina. Tôi chỉ có thể dựa vào bản dịch. Ông ấy là người trưởng thành mà’

‘Nhưng ba tôi đâu có cư xử như người trưởng thành’ ‘À, thì ừ’

Giọng cô ta nghe cứ như là một nhân viên xã hội quan liêu điển hình, chị tôi kể lại. Cô ta sẽ cố hết sức nhưng vẫn phải tuân thủ các quy định.

Chúng tôi tưởng tượng mình sẽ chạy đến đám cưới, lẻn vào giữa buổi lễ trong lúc cặp tình nhân đang đứng trước bàn thờ.

‘Tôi sẽ mặc bộ vest đen’ Vera nói, ‘cái bộ tôi mặc dự đám tang mẹ ấy. Khi viên linh mục lên tiếng hỏi, "... nếu ai biết có bất kỳ trở ngại về mặt pháp lý nào..." chúng ta sẽ kêu lớn từ đằng sau...’ (Tôi luôn luôn muốn làm như vậy.)

‘Nhưng chúng ta sẽ nói gì?’ tôi hỏi chị.

Cả hai đều tịt ngóm.

Ba tôi và Valentina cưới ngày 1 tháng Sáu ở nhà thờ Đức Mẹ Trinh Vương, vì Valentina theo Công giáo. Ba tôi là người vô thần, nhưng ông chiều theo ý ả ta. (Phụ nữ thì đương nhiên là vô lý mà, ông nói.)

Ông đưa cho ả 500 bảng để mua váy cưới: lụa polyester màu kem, bó chặt vào eo và hông, cổ hở sâu đính diềm đăng ten qua đó có thể nhìn thấy bộ ngực kiểu Botticelli căng tròn e lệ nép mình bên dưới. (Tôi đã xem qua ảnh cưới.) Tôi có thể tưởng tượng được ba đã loay hoay thế nào để bảo đảm cho tay thợ chụp hình ông thuê nắm bắt được góc chụp đẹp nhất. Ông muốn trưng bày ả, chiến tích của ông, cho đám người nghi ngờ nhiều chuyện từng chỉ trích ả. Ả cũng cần có ảnh để nộp cho viên chức nhập cư.

Linh mục là một người Ailen trẻ, ba tôi nói anh ta giống như một thằng nhóc tóc chải mượt mặt lốm đốm tàn nhang. Anh ta nghĩ gì về đôi đũa lệch mà anh ta vừa ban phước? Anh ta có biết cô dâu đã có một đời chồng rồi không? Anh ta có cảm thấy bất an chăng? Gia đình Zadchuk, những người bạn Ukraina duy nhất của ả, cũng là người Công giáo đến từ miền Tây Ukraina. Mọi người Ukraina khác trong đám khách khứa, bạn của mẹ được ba mời đến dự lễ cưới, đều theo đạo Chính thống đến từ miền Đông. Tôi cho rằng vẻ ngoài non trẻ cùng những đốm tàn nhang của viên linh mục khiến họ càng thêm nghi ngờ về Công giáo.

Cậu cô ả từ Selby đến cũng chụp chung hình, cả Stanislav và mấy người đồng nghiệp của cô ả nữa. Họ ăn mặc rất diện, vẻ tự đắc như vừa thắng xong một vụ lừa đảo. Bob Turner không có mặt.

Sau buổi lễ, những người hai năm trước từng ngồi trong phòng khách nhà tôi sau lễ tang của mẹ, giờ quay lại ngôi nhà ấy nâng cốc vodka chúc mừng cặp đôi hạnh phúc, nhấm nháp mấy món ăn nhẹ mua ở chuỗi cửa hàng Tesco và nói chuyện... Tôi không biết họ nói gì, tôi không có mặt ở đó. Nhưng tôi có thể tưởng tượng ra những lời xì xào đồn đại. Chỉ bằng nửa tuổi ông ta. Nhìn ngực cô ả xem - cứ lắc lư dưới mũi đàn ông. Mặt bự phấn. Ông lão tự biến mình thành thằng ngốc. Thật xấu hổ.