CHƯƠNG II ĐỌC SÁCH
1.- Đọc sách có nhiều lợi.
2.- Nên đọc nhiều hay ít sách là tùy mục đích và trình độ hiểu biết của ta.
3.- Muốn luyện văn thì nên lựa những sách nào để đọc?
4.- Nhật báo viết để thông tin mà không phải để ta luyện văn.
5.- Đọc sách cách nào?
1
Muốn viết thì trước hết phải đọc. Người ta đã ví nhà văn với con tằm. Tằm có ăn dâu rồi mới nhả được tơ. Nhà văn cũng phải đọc nhiều rồi mới viết được nhiều.
Vì sách giúp ta kiếm ý: “Không có gì mới dưới ánh sáng mặt trời này hết”, lời đó không ngoa lắm nếu xét vể tư tưởng của loài người. Đọc mười cuốn sách, ta chưa chắc đã kiếm được một ý mới và những ý ta tưởng là mới thì cũng đã có người diễn từ trước rồi. Chẳng hạn so sánh những cuốn xuất bản gần đây ở Pháp với những cuốn viết trong các thế kỉ trước về nghệ thuật diễn thuyết, ta thấy ít chỗ khác nhau. Có vài điều mới mà cổ nhân chưa bàn tới, như cách luyện giọng, tập thở, trang hoàng phòng diễn thuyết, nhưng đó chỉ là những tiểu tiết, hoặc những phát minh về khoa học mà thời xưa chưa biết được, còn những qui tắc quan trọng về khoa ăn nói thì nay cũng như xưa.
Cả những hình ảnh trong văn chương cũng vậy.
Khi Xuân Diệu viết:
“Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm”
Thì lối dùng hai tiếng “đi ngủ” để nhân cách hóa mặt trời đó hay lắm chứ. Nhưng người Pháp đã nói tự ngàn xưa rằng mặt trời đi ngủ. Vậy thì hình ảnh ấy chẳng mới mẻ gì cả. Tuy nhiên, ta vẫn phải khen thi sĩ. Nhờ có tiếng “lạnh” đứng trước mà hai tiếng “đi ngủ” của ông hóa ra đắc thế. Đọc lên, ta có cảm tưởng ngay rằng mặt trời cũng sợ lạnh và buồn cảnh u ám của mùa đông như bạn và tôi vậy. Nhưng nếu nói: sáng 6 giờ mặt trời dậy và chiều 7 giờ mặt trời đi ngủ thì hai tiếng “đi ngủ” này rất ngô nghê.
Vậy ta phải đọc sách, để mượn ý, rồi phô diễn một cách khác đi. Hết thảy các văn nhân đại tài đều mang nợ tiền nhân. Cốt truyện Le Cid nào phải của Corneille và cốt truyện Truyện Thúy Kiều cũng không phải của thi hào họ Nguyễn.
Sách còn giúp ta được nhiều điều khác nữa.
Nhờ nó ta học được những tiếng mới, từ chánh tả tới nghĩa đen, nghĩa bóng và cách dùng.
Nhờ nó, ta mới biết được những điều lạ và óc tưởng tượng của ta mới dễ nẩy nở.
Hứng cạn ư? Đọc sách thì hứng sẽ thao thao chảy lại.
Chưa tìm được xu hướng trên đường văn nghệ ư? Cũng lại đọc sách thì sẽ thấy. Hễ gặp lối văn nào làm cho say mê nhất thì luyện nó đi, bạn sẽ dễ thành công trên đường văn nghệ.
Bạn thiếu óc thẩm mĩ ư? Thì cũng vẫn lại nhờ sách. Khiếu thẩm mĩ là cái khả năng cảm được những cái hay và những cái dở trong các tác phẩm. Luyện nó cũng như luyện đức. Ở lâu bên người quân tử, ta đồng hóa thì đọc nhiều tác phẩm của các đại văn hào, ta cũng tập được cái nhãn thức về văn chương. Ngoài ra, không có cách nào khác.
Chót hết nhờ đọc sách mà ta học cách hành văn của tác giả. Nhiều khi chúng ta bắt chước mà không hay những lối văn ta thích nhất. Sự bắt chước đó đã không đáng chê mà còn cần thiết. Không có nó thì không có văn chương. Nếu người Pháp không bắt chước Hi Lạp và La Mã thì họ có được những tác phẩm bất hủ ở thế kỉ thứ 17 không? Cả nền văn học cổ của ta gốc ở Trung Quốc và già nửa văn chương hiện đại là mượn của Pháp.
Hai mươi lăm năm trở về trước, sách dạy Việt văn hoàn toàn thiếu, mà tiểu thuyết cũng hiếm, chỉ có ít thơ và truyện cổ. Nhưng hồi đó học sinh viết cũng đã khá tuy chưa được gọn gàng. Như vậy là bởi họ không có nhiều tiêu khiển như ngày nay mà chỉ ham đọc sách.
Tôi còn nhớ học sinh ở Hà Nội trước năm 1930. Gặp những ngày nghỉ, họ thường mỗi người một cuốn sách, rủ nhau lại Văn miếu, Hồ Tây, hoặc thơ thẩn bên bờ con sông Tô Lịch, hay qua những làng Lủ, làng Quang, lựa một ngọn gò, một bãi cỏ, ngồi dưới gốc muỗm, gốc đa rồi mở sách ra đọc cho nhau nghe những bài thơ bài phú trong Văn đàn bảo giám, những đoạn văn du dương của Chateaubriand, hùng hồn của Bossuet, những văn lâm li của Musset, lãng mạn của Lamartine... Họ không hiểu hết nghĩa đâu, nhưng có cần chi điều ấy? Họ muốn ru tâm hồn trong âm nhạc của câu thơ, trong tiếng hát của thôn nữ, trong tiếng chim ríu rít, tiếng gió vi vu...
Học sinh bây giờ không ưa cái thú ấy nữa, thứ năm, chủ nhật họ dắt nhau đi dạo phố, vào vườn thú, hoặc coi hát bóng, đôi khi có đọc sách thì chỉ đọc những loại trinh thám, kiếm hiệp. Như thế các giáo sư phải phàn nàn về trình độ Việt văn và Pháp văn của họ rất kém, cũng là lẽ tất nhiên.
2
Nhưng có nên đọc nhiều sách không? Vì đọc nhiều và đọc nhiều sách, nghĩa có khác nhau. Người đọc nhiều sách tất nhiên là đọc nhiều, nhưng người đọc nhiều chưa hẳn là đọc nhiều sách. Bạn chỉ có độ vài chục cuốn sách, nhưng ngày nào cũng đọc vài giờ thì bạn cũng là đọc nhiều.
Về điều ấy, các văn nhân không đồng ý với nhau. Goethe cho rằng: “Một cuốn sách dở tới đâu cũng có một chỗ hay”. Pline và Sénèque, trái lại, đều khuyên chỉ nên đọc những tác phẩm rất có giá trị. Một ngạn ngữ cổ của phương Tây còn nói; “Tôi sợ người nào chỉ có một cuốn sách”.
Theo tôi, đọc nhiều hay ít sách, tùy mục đích, trình độ của ta.
Nếu bạn đọc chỉ để tiêu khiển thì đọc nhiều sách bao nhiêu cũng được.
Nếu đọc để kiếm tài liệu thì càng nhiều sách càng tốt. Dale Carnegie không có thì giờ, phải mướn nhiều thư kí đọc hết các sách vở báo chí trong các thư viện để kiếm tài liệu giúp ông viết những cuốn Đắc nhân tâm và Quẳng gánh lo đi...
Như vậy là tùy mục đích. Nếu bạn đọc để luyện văn thì lại còn tùy trình độ của bạn nữa.
Bạn đã thấu được nghệ thuật viết văn rồi ư? Bạn có thể theo lời khuyên của Goethe, đọc càng nhiều càng hay vì mỗi tác giả dù ít tài đến đâu cũng có được một đoạn, một câu hoặc một ý đáng cho ta bắt chước. Phải có công đãi cát mới lượm được vàng. Có khi cả những chỗ dở của họ cũng có thể làm bài học cho ta được. Lẽ đó tựa lẽ trong câu: “Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên; trạch kì thiện giả nhi tòng chỉ, kì bất thiện giả nhi cải chỉ”[1] của Khổng Tử. Bạn đã đủ óc suy xét, tất không còn sợ những lỗi của họ ảnh hưởng tới văn của mình.
Nhưng nếu bạn mới tập viết văn, óc thẩm mĩ chưa được vững vàng, chưa phân biệt nổi hay cùng dở thì bạn chỉ nên lựa những tác giả bất hủ, những tác phẩm có chân giá trị.
3
Trong những tác phẩm đó, bạn nên chia làm nhiều loại:
- Loại đương thời,
- Loại cận đại,
- Loại cổ.
Trong mỗi loại đó, nên phân biệt hai loại:
- Tác phẩm mà lối hành văn dễ bắt chước
- Tác phẩm mà lối hành văn khó bắt chước
Qui tắc là trước hết hãy đọc tác phẩm dễ mô phỏng trong loại đương thời. Phải đi từ dễ tới khó.
Trong các trường Trung học ở nước mình (mà ở Pháp cũng vậy) người ta dạy văn học sử theo thứ tự thời gian, nghĩa là những tác phẩm thuộc loại cổ văn như Lục súc tranh công, Trinh thử... thì cho học trước vào lớp đệ thất, đệ lục, còn những tác phẩm gần đây như Truyện Thúy Kiều, Hoa Tiên thì để tới lớp đệ tứ mới giảng.
Lối đó lợi ở chỗ học sinh dễ nhận được liên lạc của trào lưu văn nghệ từ thế kỉ này qua thế kỉ khác, sự tiến triển của tiếng Việt và các loại văn thơ[2], nhưng có chỗ hại là học sinh còn nhỏ quá, viết chưa thông mà đã phải học những lối văn cổ, khác xa với văn hiện đại thường thấy hằng ngày trên sách vở, báo chí. Các em phải làm quen với những tiếng hiện nay không dùng nữa hoặc nghĩa đã thay đổi. Như vậy, một là các em không hiểu gì về cổ văn, không biết suy xét, phê bình, thành thử bài học hóa ra hoàn toàn vô ích (trường hợp này rất thường thấy); hai là các em hiểu được thì lại sớm chịu ảnh hưởng của lối cổ văn, tức lối văn đã lỗi thời rồi.
Còn về tập văn, người ta bắt học sinh đệ nhị niên[3] chưa viết nổi một câu hai mệnh đề, phải đọc những tác phẩm ở thế ki thứ 17 trong đó câu dài lòng thòng, có 5 - 6 mệnh đề đầy những “qui, que” và những tiếng nghĩa khác hẳn nghĩa bây giờ. Trách chi phần đông học sinh Việt, suốt một năm học tiếng Pháp chẳng tấn tới chút nào cả!
Bạn muốn luyện văn, xin đừng theo phương pháp ấy.
Bạn nên đọc trước những tác phẩm của các nhà văn hiện đại đã như Vũ Ngọc Phan, Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam, Tô Hoài, Nam Cao, Bùi Hiển... Văn của các nhà ấy có nhiều đức dễ bắt chước.
Còn Nguyễn Tuân, tuy rất đặc sắc đấy nhưng lối hành văn có vẻ khinh bạc mà tài hoa quá, không phải ai cũng luyện tập được. Bạn vẫn nên đọc cuốn Vang bóng một thời của ông, nhưng xin đừng nghiền ngẫm để noi theo vì phải có gia thế của Nguyễn Tuân, có tâm hồn của Nguyễn Tuân, sống cái đời sống của Nguyên Tuân và được trời phú cho cái tài của Nguyên Tuân mới viết như Nguyễn Tuân được.
Văn của Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Học, Phan Kế Bính, Trần Trọng Kim bây giờ đã hóa cổ, đọc để kiếm ý thì nên, để luyện văn thì đừng.
Nhưng Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm là những thi nhân của muôn thuở, có thời nào mà không hợp? Có người nào mà không mê? Tôi muốn cho trẻ em bây giờ cũng như chúng tôi hồi nhỏ, được quen tai với cái âm nhạc tuyệt diệu của khúc Chinh phụ ngâm, Truyện Thúy Kiều, ngay từ hồi còn nằm trong nôi. Tiếc rằng các bà mẹ “tân tiến”, trăm bà không được một bà biết ngâm thơ, ru con nữa. Người ta chỉ biết ca cho trẻ nghe những giọng Tino Rossi, Maurice Chevalier hoặc những điệu lai Tây trong hầu hết những bản âm nhạc cải cách. Nền giáo dục của chúng ta còn thiếu sót nhiều, nhiều quá!...
Còn lối tả cảnh, tả người, tả hình, lối tự sự, đối thoại của Nguyễn Du thì mặc dầu có vài chỗ không còn hợp với thị hiếu đã thay đổi về văn chương (sau này chúng tôi sẽ trở lại vấn để ấy), nhưng đã đạt được tới một nghệ thuật tuyệt cao, dẫu cổ, kim, đông, tây cũng phải nhận là bất hủ. Nguyễn Du tức là Homère của chúng ta!
Trong thơ Tố Như, có một phần không sao bắt chước được. Chẳng hạn như phải có tâm sự và thiên tài của tiên sinh mới viết nổi những câu rất tự nhiên và lâm li sau này:
Phận bèo bao quản nước sa.
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
Tiếc thay nước đã đánh phèn,
Làm cho bùn lại vẩn lên mấy lần.
Tiếc thay trong giá trắng ngần,
Đến phong trần cũng phong trần như ai.
Thân lươn bao quản lấm đầu,
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
Song sa vò vỏ phương trời,
Nay hoàng hôn đã, lại mai hôn hoàng
Đó là những lời than khóc mà là thơ vậy. Nhưng còn nhiều đoạn kể chuyện, tả cảnh... ta có phân tích cái hay rồi theo đó luyện tập được.
Đến như Cung oán ngâm khúc của Ôn Như Hầu thì vừa khó hiểu, vừa khó bắt chước. Xin bạn để khi nào có nhiều kinh nghiệm về văn chương rồi hãy đọc khúc ngâm này.
Chắc nhiều bạn biết tiếng Pháp? Vậy tôi xin bạn cũng nên đọc nhiều văn thơ của Pháp nữa, để vay mượn thêm cái hay của họ. Trong cuốn L’Art d’écrire, Antoine Albalat đã chỉ vài tác giả nên đọc như Montaigne, Bossuet, Rousseau, Chateaubriand, Flaubert, Victor Hugo. Tôi thêm Anatole France, Guy de Maupassant, Pierre Loti, Michelet, Georges Duhamel, André Gide, René Benjamin...[4] Còn nghệ thuật của La Fontaine thì từ trước tới nay chưa thấy ai mô phỏng được, xin bạn đừng lựa ông làm thầy.
Bạn phải đọc nhiều nhà văn chuyên viết nhiều lối khác nhau để thấy muôn hình thái, vạn lề lối của văn chương mà lựa lấy một loại hợp với tài năng của mình.
Nếu bạn chỉ chuyên đọc một nhà thôi, sẽ có hai cái hại:
- Một là văn bạn sẽ rập vào khuôn của nhà đó, bạn không học đúng được chỗ hay có khi nhiễm luôn tật xấu của tác giả.
- Hai là dù nhà đó tài bực nào, cũng không thể sở trường về mọi lối được. Vả lại nhiều văn sĩ còn cố chấp hẹp hòi, thiên lệch. Như Théophile Gautier không ưa Molière, Lamartine tuy họ là những thiên tài. Trong chương trên tôi đã kể trường hợp của Tư Mã Thiên và Bạch Cư Dị ở Trung Quốc. Ở nước ta thì nhiều người chê Xuân Diệu và ghét Thế Lữ; Hoài Thanh cơ hồ không thích Vũ Hoàng Chương và Trần Huyền Trân.
4
Nhưng có điều tôi xin dặn kĩ các bạn mới tập viết văn là đừng bao giờ bắt chước lối văn trong nhật báo. Các bạn học sinh có đọc thì chỉ nên đọc qua cho biết thời cuộc, chứ đừng coi những tiểu thuyết. Những tiểu thuyết ấy phần nhiều viết cho các bà nội trợ đọc để giết thì giờ cho nên chỉ cốt sao truyện li kì chứ không cầu văn được gọt giũa. Tôi vẫn biết những tác phẩm bất hủ mới đầu đăng trên nhật báo, sau mới in thành sách, những số đó hiếm lắm.
Trình độ báo chí mấy năm nay xuống một mực đáng lo. Thời xưa, mở một tờ nhật báo, ta còn đọc những xã thuyết hoặc những “câu chuyện hàng ngày” của Huỳnh Thúc Kháng, Đào Trinh Nhất, Bùi Thế Mỹ..... ý tưởng phần nhiều xác đáng, văn không những không non mà còn có khi chải chuốt lắm nữa. Bây giờ phần đông báo hằng ngày chỉ chuyên môn dịch tin ngoại quốc và đăng tiểu thuyết, may lắm mới gặp được một thiên phóng sự ngăn ngắn.
Tôi không lựa chọn gì hết, rút một số báo cũ, mới đọc vài hàng đã thấy một “bổn báo đặc phái viên” viết những câu như:
“Trả lời cho những câu hỏi ấy, gồm trong mấy tiếng sau đây:” Thật là ngô nghê! Hai tiếng “trả lời” đó giữ chức vụ nào trong câu? Và dấu phết sau tiếng ấy có ích lợi gì không? Sao không viết:
“Mấy tiếng sau đây trả lời câu hỏi đó:”
Có phải vừa xuôi tai, vừa bớt được hai tiếng cho và gồm không?
Vài hàng sau, tôi lại gặp câu:
“Đã sáu mươi ngoài, bà lão ấy là chủ một gia đình hiu quạnh, chỉ tồn có một cháu gái lên 14, một cháu trai vừa đúng tuởi đi học với bà lão.”
Người Pháp gọi câu đó là một câu “thọt” (phraseboiteuse) vì bổ từ bà lão đặt ở cuối câu ngắn hơn bổ từ một cháu trai tới tuổi đi học đứng ngay trước nó. Và sao người ta ham dùng tiếng Hán như vậy chứ? Tiếng tồn có vẻ khôi hài quá. Viết như vầy có phải giản tiện hơn không:
Đã sáu mươi ngoài, bà sống hiu quạnh với một cháu gái 14 tuổi và một cháu trai mới lên 6.
Chỗ khác cũng tác giả đó viết:
“Mỗi người... mang theo đồ vật dụng cần thiết”. Hãy vật ngã tiếng vật đi - cho nó đứng làm chi, thêm tốn giấy - rồi đổi tiếng dụng ra tiếng dùng.
“Mỗi người... mang theo đồ dùng cần thiết”.
Ít hàng sau, ông nói đến những đám tiệc “lưu vong” để chỉ những đám tiệc “xây chuyển từ nhà này đến nhà nọ”. Lưu vong là trôi chảy đi mất. Ý hẳn ông muốn tả những đám tiệc nó trôi vào cổ họng của người dự tiệc rồi chảy mất vậy!
Bài đó đăng trên ba cột báo, mỗi cột dài khoảng hai mươi phân. Nếu lựa hết những chỗ sai, vụng về phê bình, sửa chữa lại thì chắc cũng hết 4 - 5 trang giấy.
Chúng tôi không có ý chê riêng báo Việt ngữ đâu. Cả những báo Pháp văn in bên Pháp cũng nhiều lỗi như vậy.
Ông Marc Ballot trong tạp chí Nouvelle Revue Pédagogique (năm 1949-1950), đã vạch ra những lỗi rất nặng của các nhà chỉ huy ngôn luận ở kinh đô ánh sáng là Paris.
Chẳng hạn Claude Salvy, trong một tạp chí văn chương (Nouvelles littéraires), viết:
Ma chronique peut... repartir à zéro.
Tiếng à đó trật, phải dùng de.
Một kí giả khác viết:
“Nous tenons à achever les grands travaux commencés et à ouvrir les grandes artères qui doivent constituer l’armature des nouveaux quartiers”.
Artères là mạch máu đỏ, sao làm thành bộ xương (armature) của những khu vực trong châu thành được nhỉ?
Một kí giả thứ ba, kĩ lưỡng quá, đã dùng động từ se tue (tự giết mình) rồi lại còn thêm phó từ mortellement (nguy tới tánh mạng) nữa. Câu đó như vầy:
En nettoyant son pistolet, un gendarme se tue mortellement.
Thưa các bạn, thời buổi này như vậy. Không biết chúng ta có nên coi Gutenberg là ân nhân của loài người nữa không đây. Khi ông chưa chế ra máy in, sách đều chép tay, người nào viết xong một tác phẩm phải có tiền mới mướn chép làm nhiều bản được, hoặc chép lấy thì cũng tốn công lắm, còn người đọc, nếu không giàu, không sao mua nổi; vì vậy người viết phải thận trọng, người mua phải đắn đo, và sách thường có giá trị.
Bây giờ in một cuốn sách dễ quá, giá một cuốn sách rẻ quá, người viết không cần viết cho hay, người mua không cần cân nhắc kĩ lưỡng, nên văn nghệ đã mỗi ngày một suy.
Sách còn vậy, huống hồ là báo.
- Ở nước mình, một tờ báo bốn trang đặc, nếu in theo sách thì thành một tập dày ba mươi hai trang mà chỉ bán có một đồng. Ở Mĩ có những tờ mười sáu trang, in theo sách thành một cuốn dày một trăm năm chục trang mà chỉ bán có vài cắc. Trong mỗi số báo phải có đủ tin tức, tiểu thuyết, phóng sự và cả những trò tiêu khiển nữa. Mỗi ngày mỗi nhà báo phải sản xuất một cuốn sách như vậy thì làm sao giá trị bài báo chẳng kém!
Lỗi không phải ở kí giả. Ở vào tình cảnh của họ, ta cũng khó làm hơn họ được mà họ cũng không ưa gì lối sản xuất chóp nhoáng đó đâu. Lỗi ở thời đại. Hết thảy những nhà cầm bút bây giờ dù phương Đông hay phương Tây đều mắc lỗi cẩu thả ấy, không nhiều thì ít. Trừ một số thi sĩ, chúng ta không còn cái kiên tâm ngồi gọt đẽo một bài văn như cổ nhân xưa.
Tóm lại, tôi xin nhắc các bạn một lần nữa: “Đừng đọc báo đề luyện văn”. Một tờ báo chỉ để “đọc và... quên đi trong 24 giờ”, như Adrien Bérard, giám đốc tờ Le Temps đã nói[5].
5
Francis Bacon viết: “Có loại sách chỉ nên nếm, có loại khác chỉ đáng nuốt, có ít cuốn cần phải nghiền ngẫm, nghĩa là có những cuốn chỉ nên đọc từng đoạn thôi, có những cuốn nên đọc qua cho biết và ít cuốn phải đọc hết, đọc siêng năng, chăm chú rồi suy nghĩ”.
Đọc sách để tiêu khiển hay kiếm tài liệu, ta có thể theo cách “nếm” hoặc cách “nuốt” được. Đọc để luyện văn thì phải theo dưới là nghiền ngẫm rồi suy nghĩ - tôi nói thêm - ghi chép nữa.
Lối đọc sách thay đổi tùy thói quen và tính tình của từng người.
Có người đọc rất chậm, rất kĩ lưỡng ngay từ lần đầu, hiểu kĩ đoạn trên rồi mới qua đoạn dưới. Họ đọc tiểu thuyết cũng gần như học một cuốn sách toán.
Có người đọc một lần đầu rất mau, cốt để hiểu truyện hoặc đại ý trong sách, đánh dấu những đoạn hay, những đoạn dở rồi lần thứ nhì mới đọc kĩ lưỡng, suy nghĩ và phê bình.
Hạng trên, nếu gặp tiếng nào chưa hiểu nghĩa thì mở tự điển tra liền. Hạng dưới thì lấy viết chì đánh dấu rồi khi đọc lại mới tìm tra.
Hai cách đó đều được cả. Điều quan trọng là phải suy nghĩ và ghi chép.
Suy nghĩ là chịu tìm hiểu ý của tác giả, so sánh ý của họ với ý của ta và ý của các nhà văn khác rồi phê bình.
Về lời thì tự hỏi những câu sau này:
- Cảm tưởng đầu tiên của ta khi xong ra sao?
- Cảm tưởng đó còn không, khi đọc lại?
- Tác giả đã dùng những phép hành văn nào để gây cho ta cảm tưởng ấy?
- Văn có hoa mĩ, mạnh mẽ, sáng sủa, linh động, tinh xác, nhiều màu sắc... không?
- Cách đặt câu của tác giả ra sao? Viết theo lối khác có hay hơn, gọn hơn được không? Những nhà văn còn non nớt, muốn diễn ý đó, sẽ viết ra sao?
- Đoạn nào khó viết nhất?
- Đoạn nào tác giả thành công nhất?
- Đoạn nào vụng về.
- Tác giả sở trường về lối nào? Có sở đoản nào không?
- Cuốn đó hơn hay kém những tác phẩm trước của cùng một tác giả? Tại sao?
- Nó hơn hay kém những cuốn nào của các tác giả khác cùng viết về vấn đề ấy? Tại sao? v.v...
Rồi tới công việc ghi chép. Bạn muốn ghi gì, tùy ý: tài liệu trong sách, những đoạn văn hay, những ý tưởng lạ, những tiếng mới, tiếng địa phương, tâm lí các nhân vật..., hoặc chép cả đoạn tả cảnh, tả tình... để so sánh với văn của các tác giả khác.
Nhưng phải biết cách ghi để sau này dễ kiếm. Những tiếng mới, hoặc tiếng địa phương, bạn có thể chép riêng vào một cuốn sổ theo thứ tự a, b, c, hoặc theo một thứ tự nào khác cũng được. Chẳng hạn, bạn có thể sắp thành những loại văn chương, triết học, khoa học... Phương pháp hay hơn hết là phương pháp dùng thẻ. Thẻ là những miếng giấy rời, hơi cứng, cùng một cỡ với nhau để tiện sắp trong những ngăn tủ riêng. Ni tấc thì tùy khổ bìa mà bạn dùng để làm thẻ, nhưng người ta thường dùng ni tấc quốc tế này:
Thẻ nằm: 7 phân 5 x 12 phân
Thẻ đứng: 10 phân x 15 phân
Bạn có thể theo phương pháp phân loại thập tiến phổ cập (coi cuốn Tổ chức công việc theo khoa học - Nhà xuất bản Văn Hóa) mà chia những điều bạn muốn ghi ra làm nhiều ngành. Mỗi ngành có nhiều thẻ. Bạn dùng tự mẫu hoặc số, hoặc vừa tự mẫu vừa số để đặt tên cho mỗi thẻ.
Nếu điều bạn muốn ghi không dài lắm, bạn có thể chép ngay vào trong thẻ. Trái lại, nếu là cả một đoạn văn thì trong thẻ bạn chỉ cần ghi: đại ý của đoạn và tên số cuốn sách với số trang có đoạn ấy. Nếu sách không phải của bạn thì bạn nên chép vào một tập riêng rồi trong thẻ bạn cũng ghi đại ý, số tập và số trang.
Các nhà bác học đều dùng thẻ. óc của họ chưa chắc đã nhớ nhiều hơn bạn, nhưng viết sách, họ trưng được rất nhiều tài liệu là nhờ thẻ đã giúp kí tính họ tăng lên gấp 10, gấp 100.
Tuy vậy, có điều này, tôi muốn bạn chú ý tới: không phải gặp bất kì tài liệu nào cũng ghi hết vào thẻ. Bạn nên lựa trước một vài môn mà bạn muốn học hoặc nghiên cứu. Chỉ những tài liệu nào liên quan với môn đó mới nên ghi vào thẻ thôi.
TÓM TẮT
1.- Muốn luyện văn thì đừng nên đọc báo, mà nên đọc nhiều sách có giá trị.
2.- Trước hết hãy đọc những tác phẩm hiện đại của nhũng tác giả mà cách hành văn dễ bắt chước, rồi sau hãy đọc cổ văn.
3.- Khi nào biết thẩm mĩ rồi, ít sợ sai lầm, mới có thể đọc tác phẩm nào cũng được.
4.- Nên thường đọc tác giả nào mà lối hành văn được bạn thích.
5.- Khi đọc nên suy nghĩ và ghi chép.
Chú thích:
[1] Ba người đi (2 người nữa và ta), tất có người làm thầy ta vậy, lựa người thiện mà theo, (coi gương) người bất thiện mà sửa mình.
[2] Nếu học sinh hiểu rồi. Mà hiểu nổi không, chúng tôi còn ngờ lắm.
[3] Tương đương lớp bảy bây giờ.
[4] Xin các bạn nhớ khi tôi giới thiệu những văn sĩ ấy, tôi đứng vào phương diện nghệ thuật chứ không phải tư tưởng.
[5] Un journal doit être conçu, écrit et imprimé pour être lu et oublíe dans les 24 heures.