← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VII HOA MỸ NHƯNG TỰ NHIÊN

1.- Phải có đẹp mới là văn.

2.- Văn đẹp là nhờ hình ảnh.

3.- Cách kiếm, hình ảnh.

1. tưởng tượng rồi nói quá.

2. mượn ý của người khác rồi sửa đổi cho hóa mới.

4.- Những lỗi nên tránh khi tạo một hình ảnh.

1. quá đáng và lố bịch.

2. cầu kỳ không tự nhiên.

3. vô lý.

4. không hợp chỗ.

5. thô tục.

6. sáo.

7. quá nhiều.

5.- Dùng điển.

1

Có đẹp mớ gọi là văn vì văn chính nghĩa là đẹp[1].

Một thiếu nữ nghĩ tới tương lai của mình tự hỏi:

- Không biết sau này ai sẽ làm chồng tôi?

Lời đó không phải là văn. Nhưng nếu cô ta thỏ thẻ:

“Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ, biết vào tay ai?”

(ca dao).

Thì ta thấy lời tươi đẹp, nhã nhặn và diễn được nỗi lòng vừa ước mong vừa lo lắng của cô. Đó mới là văn.

Cùng một ý mà viết:

“Tiếc cho một trinh nữ tài sắc mà bị kẻ võ phu vô sỉ dày vò, đày đọa”.

với viết:

“Tiếc thay một đóa trà mi,

Con ong dã tỏ đường đi lối về”.

(Nguyễn Du)

thì lối trên tuy đã có văn rồi đấy, nhưng lối sau bóng bẩy, diễm lệ hơn nhiều.

Nghe Xuân Diệu ngâm:

“Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối”

Bạn có trông thấy được cả cái vô hình là gió không?

Bàng Bá Lân cũng tả gió mà không nói tới gió, dùng những lời óng ả như tơ, du dương như nhạc:

“Êm đềm sóng lụa trôi trên lúa”.

Tả nỗi lòng một quả phụ mỗi lần xuân về là buồn vô hạn, muốn đuổi xuân đi, một thi sĩ hạ bút:

“Đóng cửa, cài then, xuân cũng sang”

thiệt là bóng bẩy mà hàm súc!

Nhưng tuyệt diệu thì phải kể đến hai câu sau này của Ôn Như Hầu tả cái vui một đêm động phòng:

“Cái đêm hôm ấy đêm gì,

Bóng dương lồng bóng trà mi trập trùng[2]

Lời đó là tiếng trần hay tiếng tiên nhỉ?

2

Một bài văn với một tờ biên bản của ông Cò[3] khác nhau chỉ ở chỗ ấy: lời đẹp hay không. Mà lời đẹp là nhờ phép ví, nghĩa là phép phô diễn một cách bóng bẩy, mượn cái này mà nói tới cái khác.

Trong cuốn Việt Nam văn phạm, chương Mỹ từ pháp, Trần Trọng Kim kể 14 phép hành văn sau này cho lời được hoa mỹ:

1. - Dùng điển.

2. - Tỉ lệ.

3. - Ám tỉ.

4. - Hoán dụ.

5. - Tá âm.

6. - Miêu tả.

7. - Hội ý.

8. - Hợp loại.

9. - Ngoa ngữ.

10. - Thậm xưng.

11. - Tiểu đối.

12. - Đảo ngữ.

13. - Ngụ ngữ.

14. - Điệp ngữ.

Phép ngoa ngữ, thậm xưng, đảo ngữ, điệp ngữ, giúp cho câu văn hoặc mạnh mẽ hoặc êm đềm, chứ không phải là thêm đẹp.

Muốn cho lời hoa mỹ, ta chỉ có thể dùng những phép 1, 2, 3, 6, và 13. Nhưng phân biệt 5 phép như vậy tế toái quá, không ích lợi gì về sự luyện văn.

Cả năm cách ấy đều có một điểm chung là đều dùng lối ví. Tôi xin lấy ngay những thí dụ của Trần Trọng Kim để chứng minh điều ấy:

Tỉ lệ:

“Trong như tiếng hạc bay qua”

Ám tỉ:

“Bể khổ mênh mông”

Miêu tả:

“Làn thu thủy, nét xuân sơn”

Ngụ ngữ:

“Giương cung rắp bắn phượng hoàng

Chẳng may lại gặp một đàn chim ri”.

(Ca dao)

Điển:

Bát cơm Xiếu mẫu[4]

Trong thí dụ thứ nhất, Nguyễn Du đã ví tiếng đờn của Kiều với tiếng hạc. Sự ví đó hiện rõ ra nhờ tiếng như.

Trong thí dụ thứ nhì, không có tiếng như, nhưng vẫn có cái ý ví nữa, vì nỗi khổ ở đời mênh mông như bể.

Về thí dụ thứ ba, Trần Trọng Kim viết: “Cách miêu tả là cách mượn vật có hình mà tả cái nghĩa bóng bẩy của vật khác”. Như vậy thì cũng là ám tỉ, là ví (ví làn nước trong ở mùa thu với cái thần con mắt nàng Kiều).

Hai câu trong thí dụ thứ tư có nghĩa là ra sức làm việc lớn mà không may lại chỉ làm được việc nhỏ mọn thôi. Thi sĩ đã dùng hai tiếng phượng hoàng để nói bóng bẩy về một việc lớn và hai tiếng chim ri để nói bóng bẩy về một việc nhỏ. Chung quy cũng lại là ví.

Sau cùng ta nói đến “Bát cơm Xiếu mẫu” để tỏ lòng biết ơn một người nào. Tức là ví cái ơn ta mang đó với ơn của Hàn Tín được một bà thợ giặt cho một bát cơm khi đói lạnh.

Vậy ta có thể nói một cách vắn tắt rằng muốn cho văn hoa mỹ, ta phải ví cái ta muốn tả với một cái khác. Ví một cách hiển hiện thì gọi là tỉ lệ (có những tiếng như, là...) ; ví một cách không hiển hiện (không có những tiếng như, là...) thì là ám tỉ, là miêu tả, là ngụ ngữ, là dùng điển, nói chung là dùng hình ảnh.

3

Kiếm hình ảnh thế nào?

1. - Bạn ngấm cảnh chiều hôm ở biển, thấy những tia sáng từ mặt trời chiếu ra, phảng phất như những nan quạt; những tia đó màu vàng, màu da trời, màu hồng. Bạn nói quá đi một chút, bảo đó là một chiếc quạt đỏ nan vàng. Bạn tưởng tượng thêm rằng mặt trời như một người hay một vị thần, đã khép chiếc quạt đó lại, và bạn viết:

“Mặt trời khép chiếc quạt đỏ nan vàng rồi chìm xuống nước”.

Như vậy bạn đã kiếm ra được một hình ảnh của J. M. de Hérédia.

Bạn thấy sau lớp sương mờ và biêng biếc như khói hiện lên một tòa thành, bạn có cảm tưởng như thành cũng bằng khói vậy; bạn nói quá rằng:

“Thành xây khói biếc”

và bạn đã kiếm được một hình ảnh của Nguyễn Du.

Tình hình thể giới đương căng thẳng, lửa chiến tranh đương âm ỉ, không biết lúc nào bùng lên. Bạn tưởng tượng một hỏa diệm sơn sắp phun lửa và bạn nói quá rằng chúng ta đương ngồi trên một hỏa diệm sơn. Bạn đã tạo được một hình ảnh thứ ba nữa.

Tóm lại, muốn kiếm hình ảnh, ta phải:

- Tưởng tượng (cho nên ở một chương trên tôi đã nói óc tưởng tượng phải phong phú, viết văn mới hay được).

- Nói quá một chút.

Công việc ấy thường rất mệt. Một đôi khi hình ảnh hiện ngay trong óc ta, nhưng 10 lần có tới 9 lần phải suy nghĩ rất lâu, mất công như một người đào vàng vậy; phải đào nhiều chỗ và đào sâu mới kiếm được quặng; kiếm được rồi lại phải đãi, rửa, nấu nữa.

2. - Còn một cách mượn ý của người khác rồi thay đổi một chút cho mới thêm, đẹp thêm.

Ví dụ, trong Tình sử có những tiếng “thiên hương nhất chi” (một cành hoa thơm của trời) để chỉ một người đàn bà đẹp. Nguyễn Du mượn ý đó, rồi diễn ra tiếng Việt:

“Nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương”

để nói về Đạm Tiên mới đương tuổi xuân đã từ trần.

Khi viết:

“Mây mưa đánh đổ đá vàng”

tiên sinh chắc chắn đã nhớ đến câu: “Vân vũ Vu sơn uổng đoạn trường” trong Đường thi.

Lối mượn ý tất nhiên dễ hơn lối trước, được các nhà văn rất thường dùng. Hình ảnh trên kia: “Mặt trời khép quạt đỏ nan vàng lại”, không chắc J. M. Hérédia đã nghĩ ra được đâu. Có lẽ ông đã bắt chước Victor Hugo vì thi sĩ này đã viết:

“Mặt trăng mở chiếc quạt bạc trên mặt nước”

(La lune ouvre dans l’onde. Son éventail d’argent).

Người ta kể chuyện André Chénier sưu tầm hết thảy những hình ảnh đẹp cổ kim rồi mô phỏng, tạo ra những hình ảnh khác. Mà nào phải riêng gì André Chénier[5]. Các văn nhân, thi sĩ ở mọi thời và khắp nơi đều như vậy.

Cổ nhân ví đàn bà đẹp với bông hoa.

Nguyễn Du viết:

Tiếc thay một đóa trà mi,

Con ong đã tỏ đường đi lối về.

Ôn Như Hầu đã viết:

Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần.

Và Nguyên Huy Tự, Chu Mạnh Trinh, Lưu Trọng Lư, Tản Đà... có ai mà không dùng lối ví ấy? Shakespeare nói:

“Ngó ánh trăng nó ngủ trên ghế này”

Chateaubriand chép lại:

“Ánh trăng đó ngủ”

(Ce clair de lune quy dormait).

Rồi tới phiên Lamartine:

“Những tia sáng của nó đã yếu ớt ngủ trên bãi cỏ”.

(Ses rayons affaiblis dorment sur le gazon)

Ta nên đọc nhiều văn phẩm ngoại quốc để mượn hình ảnh của họ mà làm giàu Việt ngữ; như vậy hơn là mượn ngay của những văn nhân nước nhà.

Ví dụ ta có thể mượn hình ảnh trên kia của Shakespeare và viết:

Ánh trăng thu thiêm thiếp trên ngọn lúa.

Khái Hưng có lẽ cũng đã mượn hình ảnh chiếc quạt đỏ nan vàng của J. M. de Hérédia để tả buổi sáng trên bờ biển, trong một đoạn tôi đã dẫn ở một chương trên.

4

Nhưng ta phải để ý lựa những hình ảnh đẹp và tự nhiên. Muốn vậy, phải tránh những lỗi sau này:

1. - Không được quá đáng mà hóa ra lố bịch.

Khi tạo hình ảnh, ta phải nói quá, nhưng nói cho có chừng. Thế nào là nói có chừng? Đây là chỗ “khả dĩ ý hội, bất khả dĩ ngôn truyền” của văn thơ. Bạn phải có óc thẩm mỹ. Mà luyện óc thẩm mỹ thì chỉ có một cách là đọc nhiều tác phẩm có giá trị.

Khi ta ví cánh đồng lúa với một biển xanh, hoặc khi ta nói:

“Êm đềm sóng lụa trôi trên lúa”

thì hình ảnh của ta rất tự nhiên và hoa mỹ.

Nhưng nếu ta nói:

“Mớ tóc xanh của Thần Nông nằm rạp dưới gió”

thì nghe không được chút nào cả.

Bạn hỏi: Tại sao?

Tôi xin chịu, không thể đáp. Lòng tôi thấy nó kỳ cục mà óc tôi không giảng nổi... Có lẽ tại hình ảnh đó làm cho tôi nghĩ rằng cái đầu của Thần Nông sẽ tức cười lắm! Chỗ thì mọc sừng (nơi có núi Tản Viên, núi Tam Đảo chẳng hạn), chỗ thì hói, (như ở trên bãi sa mạc Sahara) và chỗ nào có tóc thì tóc cũng chỉ ngắn ngủn như tóc một tên lính Nhật mới cạo đầu được 5-6 ngày. Vì bạn thử tưởng tượng mặt đất rộng như vậy mà cây lúa thấp như thế thì có phải là thiếu cân xứng không?

Vậy mà Xuân Diệu ví cảnh lá liễu với tóc xõa của một người đàn bà thì lại nên thơ:

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buồng xuống lệ ngàn hàng”[6].

Khó hiểu thay là văn thơ, phải không bạn?

Muốn tạo hình ảnh, phải tưởng tượng. Mà óc tưởng tượng, như người Pháp nói: “Là con mụ điên ở trong nhà”, khó kỳm hãm nó được lắm, cho nên cả những nhà văn đại tài cũng đôi khi dùng những hình ảnh lố lăng.

Tới Victor Hugo mà còn viết:

“Con người là một cái chấm bay với hai chiếc cánh lớn”. (un point quy vole avec deux grandes ailes) thì còn ai mà tránh được lỗi đó nữa?

Nhưng cầu kỳ nhứt là những hình ảnh của Lê Văn Trương. Ở chương trên tôi đã dẫn một đoạn trong đó ông ví son phấn, quần áo của phụ nữ với:

- những giáo mác để các bà các cô đâm chém bọn đàn ông.

- những giáp sắt để họ bước trên đường đời chông gai.

- những động cơ để phá tủ sắt, hủy nhà cửa,

- những tên thuyết khách để dụ dỗ đàn ông,

- Và với nước sốt, ớt, hành... để gia vị cho món cá chép luộc, tức là sắc của họ.

Cục son mà thành giáo, mác? Chiếc áo hàng Bombay, mỏng như tơ nhện mà thành áo giáp sắt? Chiếc khăn choàng mà thành động cơ? Rồi tất cả những cái đó lại thành ớt, hành tỏi nữa chứ!

Ông muốn nói những đồ trang sức ấy giúp cho sức quyến dỗ của phụ nữ mạnh lên, nhưng ông không muốn viết một cách thông thường như mọi người, ông muốn đập mạnh vào óc chúng ta; ông đã thành công, vì chúng ta không khi nào quên được giọng văn... lạ lùng đó của ông.

2. - Đừng cầu kỳ

“Con mèo thì gọi là con mèo”, đừng gọi là “ông Kẹ của loài chuột”; cũng đừng gọi chiếc đồng hồ là “người bạn thiết luôn luôn nhắc nhở ta làm việc”. Lối văn đó rởm lắm, chỉ làm cho độc giả cười thôi.

Molière đã viết một hài kịch để giễu những hạng nói năng cầu kỳ. Đọc những câu này:

“Xin bà làm thỏa lòng chiếc ghế bành này nó thèm được ôm bà”.

(để nói mòi bà ngồi)

“Viên cố vấn về kiều diễm”

(để chỉ tấm gương)

“Đánh lại đây cho chúng tôi sự tiện nghi của cuộc đàm thoại”.

(để nói: kéo ghế lại)

bạn có phì cười không?

Bạn bảo chỉ ở thế kỷ thứ 17 bên Pháp, mới có những kẻ lố lăng như vậy. Bạn lầm. Tôi đã được nghe một nhà văn gọi miền Thủ Dầu Một là “cái dĩa tráng miệng của Nam Việt”. Đông, Tây, cổ, kim, thì cũng như nhau, chứ khác gì?

Bộ áo tây trắng, sơ mi trắng với chiếc cà vạt đen vẫn là y phục đẹp nhất, vừa sang vừa nhã, phải không bạn? Nhưng nhìn chung quanh, bạn thấy biết bao người bận những chiếc sơ mi rằn ri, những chiếc quần xanh đỏ.

Sự tự nhiên có lẽ là một đức rất hiếm. Ta chê Lê Văn Trương vì ông thiếu tự nhiên. Nhóm Xuân Thu cũng vì lập dị mà hóa ra tối om om. Và biết bao tiểu thuyết sở dĩ chết yểu cũng chỉ vì mắc bệnh cầu kỳ.

Nếu không kiếm được những hình ảnh tự nhiên thì chẳng thà đừng dùng hình ảnh. Những bài sau này sở dĩ được truyền tụng đời đời, không phải là nhờ hình ảnh mà chỉ nhờ lời lẽ rất thông thường, như xuất khẩu thành thi vậy.

Sai thằng Cam

Cam chóng ra thăm gốc hải đường,

Hái hoa về để kết làm tràng.

Những cành mới nhánh đừng vin nặng,

Mấy đóa còn xanh chớ bể quàng.

Xong, lại tây hiên tìm liễn xạ,

Rồi sang thư viện lấy bình hương,

Mà về cho chóng, đừng thơ thẩn,

Kẻo lại rằng: chưa dặn kỹ càng.

(Nguyên Gia Thiều)

Nước lụt, hỏi thăm bạn.

Ai lên, nhắn hỏi bác Châu cầu:

Lụt lội năm nay bác ở đâu?

Mấy ổ lợn con rày lớn bé?

Vài gian nếp cái ngập nông sâu?

Phận thua, suy tính càng thêm thiệt;

Tuổi cả, chơi bời họa sống lâu.

Em cũng chẳng no, mà chẳng đói,

Thung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu.

(Nguyễn Khuyến)

Nhất là bài Bạn đến chơi nhà thì thiệt tài tình:

Đã bấy lâu nay bác tới nhà,

Trẻ thì đi vắng, chợ thời xa,

Ao sâu nước cả khôn chài cá,

Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.

Cải chửa ra cây, cà chửa nụ,

Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.

Đầu trò tiếp khách, trầu không có,

Bác đến chơi đây, ta với ta.

(Nguyễn Khuyến)

Thơ mà như vậy thì thiệt chẳng thẹn với Đào Tiềm chút nào cả. Mà bạn có thấy một hình ảnh nào không?

Còn loại thơ “khẩu khí” của Lê Thánh Tông, tả người dệt vải, người bồ nhìn, người ăn mày, con cóc, thằng mõ, cái chổi, cái cối xay v.v... thì ta nên dẹp đi, cũng đừng bắt trẻ em học nữa. Công của Ngài với dân tộc Việt Nam lớn thật, nhưng những câu:

Hạt châu chúa cất trao ngang mặt,

Bệ ngọc tôi từng đứng liễm tay.

(Thằng ăn mày)

Ngày vắng dủ mây cung Bắc Hán,

Đêm thanh tựa nguyệt chốn lâu đài

(Cái chổi)

miễn cưỡng, cầu kỳ quá, không thế nào thưởng thức nổi.

3. - Không được vô lý.

Một tiểu thuyết gia viết: “Không biết dáng điệu của Nữ lúc ấy nó ghê gớm đến thế nào mà khiến cho con người gỗ đá ấy phải ghê thịt”.

Con người đã bằng gỗ bằng đá thì làm gì còn có thịt mà “ghê thịt” được. Như vậy là vô lý.

Một văn sĩ Pháp muốn nói: “tình hình quốc gia đương nguy ngập, cách mạng hoặc chiến tranh có thể nổ lên bất kỳ lúc nào” mà dùng hình ảnh sau này:

“Chiếc xe quốc gia bơi trên hỏa diêm sơn”

(Le char de l’Etat navigue sur un volcan)

Chiếc xe thì chạy chứ sao lại bơi? Bơi trên biển, chứ sao lại trên núi?

Nói “hơi thở ấm áp của ngọn gió xuân” thì nghe được mà câu “hơi thở ấm áp của ngọn gió xuân làm tan cái vỏ của nước” (tức lớp băng của nước), thì lại không xuôi tai vì không ai nói “làm tan cái vỏ” hết, mà nói làm “mục, nát cái vỏ”.

Câu sau này của Malherbe:

“Louis, anh cầm cái lưỡi tầm sét của anh rồi đi, như một con sư tử, chặt nhát cuối cùng vào cái đầu cuối cùng của phiến loạn”[7] cũng mắc phải lỗi ấy vì sư tử vồ xé người ta chứ không bao giờ biết chặt đầu.

4. - Phải hợp với ý của cả đoạn

Bạn có thể viết: “Nhà văn đó sinh trưởng ở nơi nghìn năm văn vật” (tức Hà Nội).

Nhưng nếu bạn viết:

“Chiếc tàu Phi Long của tôi chuyên chờ xi măng từ bến Sáu kho tới nơi nghìn năm văn vật” thì hình ảnh “nơi nghìn năm văn vật” đặt không phải chỗ. Nó văn chương lắm, không thể dùng để chỉ một công việc chẳng văn chương chút nào là công việc chở xi măng.

5. - Đừng thô tục

Viết: “cái bụng êm như lò so”. Chẳng những là lố bịch mà còn là thô tục.

“Những cây trắc bách diệp mềm mại như đú đởn với những cây liễu thướt tha”.

Sao mà giọng văn đĩ thõa vậy? Vả lại lá trắc bách cứng đơ đơ nên hình ảnh ấy chẳng những tục mà còn sai nữa.

6. - Đừng sáo

Những hình ảnh “con quạ vàng”, “vừng ngọc thỏ”, “bông hoa biết nói”, “buổi bình minh của thành công”, “mạnh như hổ”, “đẹp như tiên”, “suối lệ”, “rừng văn”, “nét thu ba”, “làn da ngọc”... mới đầu rất hay, nhưng dùng quá hóa nhàm, không còn gây được hình ảnh gì nữa. Có người đã ví nó với hình trên những đồng bạc, mòn lần đi tới mất hẳn.

Nhưng nếu bạn chỉ bắt chước, chỉ mượn ý trong những hình ảnh sáo đó mà đúc lại thành một hình ảnh mạnh hơn, mới hơn, đẹp hơn, thì không ai chê bạn là sáo nữa mà lại khen bạn có tài sáng tác.

7. - Sau cùng, hình ảnh không nên quá nhiều

Chiếc áo bằng gấm, bạn thêu vài cánh cúc thì nó thêm rực rỡ, nhưng nếu thêu chi chít những hoa thì lại khó coi.

Tôi nhớ hồi 17 tuổi, đi thuyền thúng qua cánh đồng chiêm ngập nước ở làng Mơ (Sơn Tây). Lần đầu tiên thấy những bông súng điểm màu trắng vàng và phơn phớt tím trên làn nước trong veo, tôi mừng lắm, bắt người bơi thuyền ngừng tay cho tôi hái. Nhưng sau tới một chỗ bông súng chen lấn nhau mọc đầy mặt nước, tôi không buồn hái nữa mà liệng cả những bông ở trong thuyền đi. Nhiều quá thì làm cho ta chán, cả đến hoa cũng vậy. Cho nên câu này của Voltaire rất chí lý:

“Trong cuộc đi chơi, người ta thích ngừng lại để hái bông, nhưng không muốn mỗi lúc phải cúi xuống để luợm bông”[8].

Diễm lệ nhất là văn đời Lục Triều ở Trung Quốc. Những bài như “Bắc sơn di văn” ngâm lên đã sảng khoái tính thần mà còn thom tho cả miệng. Không hàng nào là không có vài ba hình ảnh. Nhưng lâu lâu đọc vài bài thì ta còn thấy thích chứ nếu phải đọc cả một cuốn 3-4 trăm trang viết toàn bằng lối văn như vậy thì tôi chắc ở thế kỉ 20 này ít ai đủ can đảm lắm. Nhất là cứ mỗi hàng phải coi lời chú thích ở dưới rồi mới hiểu được văn thì ta lại càng mau chán. Thị hiếu đã thay đổi thì lối văn cũng phải thay đổi.

Năm bảy trang hoặc cả một chương, bạn chỉ kiếm được một hình ảnh, cũng đủ rồi, miễn nó đẹp đẽ và tự nhiên. Mươi hột xoàn trong cuốn sách, bạn tưởng ít sao? Tôi nói thứ hột xoàn thiệt, chứ không phải thứ giả.

5

Về sự dùng điển, ý các nhà văn hiện đại hơi bất nhất. Ông Nguyễn Khoa trong Việt Nam giáo khoa tập san ra ngày 15-9-52, chỉ cho điển có “một giá trị trong thời Hán học thạnh hành thôi” vì “thời ấy nói đến một điển từ, khỏi dẫn giải dài giòng, học sinh và dân chúng cũng hiểu biết”.

Ông nói quá. Dân chúng hồi xưa phần đông chỉ học để biết “ba chứ ký”, hầu ký trong văn tự bán nhà, tậu trâu, may lắm là học hết được cuốn Tam Tự Kinh, Minh tâm bảo giám, thì làm sao mà hiểu được hết những điển trong Hoa Tiên, Cung Oán ngâm khúc chẳng hạn? Nói ngay như các thầy khóa cũng vị tất đã biết đủ thay!

Rồi ông tiếp:

“Ngày nay dùng điển tức là lìa xa thực tế và nhân sinh. Còn gì buồn bằng đứng trước ngưỡng cửa của thế hệ nguyên tử, dưới bầu trời rợp cánh chim sắt, ta dùng lại “giấc hòe”, chuyện “kết cỏ ngậm vành”, chuyện “suối vàng” phản khoa học, ấy là chưa kể một số điển tích lưu dấu nô lệ văn hóa Tàu”.

Mười hàng sau ông kết luận:

“Nay tìm lại áng văn dùng nhiều điển từ, cốt để hiểu biết và thưởng thức quốc văn của người xưa, còn việc bắt chước thiên tài của thế hệ cũ, việc áp dụng phương pháp hành văn dùng nhiều điển từ là việc không nên làm, nếu ta muốn sống, muốn xây tòa văn hóa mới, chú trọng vào tinh thần dân tộc, khoa học, đại chúng”.

Tôi đồng ý với ông: không nên dùng nhiều điển cổ quá vì văn có thể hóa tối. Ta cũng nên tránh những điển như: “giấc hòe”, “suối vàng” vì đã nhiều người dùng nó rồi, chứ không phải vì nó “phản khoa học”. Khi tôi viết: “suối vàng”, tôi không hề tin rằng ở Âm ti có suối vàng, cũng không hề có ý khuyên độc giả tin như vậy, mà tôi chắc độc giả cũng chẳng ai tin nữa. Tôi chỉ dùng tiếng ấy để thế tiếng “cõi âm” mà độc giả cũng chỉ hiểu với ý ấy. Nếu bảo là phản khoa học thì “cõi âm” cũng là phản khoa học, phải bôi hết những tiếng ấy trong tự điển Việt Nam sao?

Có ai cho một văn sĩ Pháp viết: “lực sĩ đó mạnh như Hercule” hoặc “có đó đẹp như Vénus” là có óc phản khoa học vì tin thần thoại không?

Dùng những điển của Tàu cũng chưa chắc đã là nô lệ văn hóa Tàu. André Chénier dùng nhiều điển tích Hi Lạp mà văn học của Pháp có nô lệ văn hóa Hi Lạp không? Trên văn đàn của thế giới những sự vay mượn như vậy là thường. Nếu bảo thế là nô lệ thì khắp thế giới có lẽ chỉ có Ai Cập, Trung Quốc 2500 năm trước là không nô lệ một nước nào. Ta đừng nên có óc ái quốc hẹp hòi mà hại cho nền văn hóa quốc gia.

Ông Nguyễn Khoa lại vội xét, không phân biệt sự dùng điển với sự dùng điển Trung Hoa. Nếu không dùng điển Trung Hoa sợ sẽ nô lệ người, thì có ai cấm ta dùng điển Việt Nam đâu?

Nếu bạn viết: “chịu cảnh thân lươn”, hoặc “mang mãi nỗi lòng Mị Châu”, hoặc “lýnh đó sẽ thành Kiêu binh mất”, “quân ấy là đồ Ích Tắc”, “bà nọ là một Phan Thị Thuấn”, hoặc nếu tôi bảo cháu “đừng học cái thói thiếu tá quốc tế[9] nhé” thì chúng ta đã dùng điển, lời của chúng ta đa mạnh hơn, gọn hơn, bóng bẩy hơn, ý vị hơn mà chúng ta chẳng phản khoa học chút gì, cũng chẳng làm nô lệ một văn hóa nào cả.

Chung quanh chúng ta biết bao người trong câu chuyện hằng ngày, dùng những điển như: “ghen hơn Hoạn Thư”, “mặt Sở Khanh”... theo ông Nguyễn Khoa, họ cũng đều lìa thực tế và nhân sinh cả sao?

Cho nên tôi nghĩ ý tưởng của Dương Quảng Hàm xác đáng hơn. Nhà mô phạm đó nói:

“Hiện nay, tình thế có khác, chữ nho ít người học mà thứ nhất là ít người có đủ sức để hiểu các điển cố ấy[10]. Vì các điển cố ấy không những là lấy ở Kinh, Truyện và chính sử mà phần nhiều lại lấy ở các ngoại thư, các tiểu thuyết phi những người học rộng xem nhiều không thể hiểu biết được. Vả chăng, nay ta đã biết lấy quốc văn làm trọng, thì hễ có cách gì phát huy được cái hay cái đẹp trong quốc văn, ta cũng nên để ý đến, mà một cái hay của văn chương là dùng điển cố, vì làm cho người ta phải nghĩ ngợi nhắc nhớ đến câu thơ câu văn xưa mà chứng minh rằng văn chương nước mình có điển cố. Đành rằng văn nôm của ta không được phong phú bằng văn Tàu, nhưng ta cũng có nhiều câu tục ngữ rạch ròi, chí lý không kém gì các cách ngôn của Tàu, những bài ca dao hay đủ sánh được các bài trong Kinh Thi, lại có được ít thơ, văn, ca, truyện có thể lấy làm điển cố cho ta dùng.

Ta lại có một cuộc lịch sử mấy ngàn năm, trong sử sách thiếu gì những chuyện hay tích lạ, những việc tiết nghĩa, gương hiếu hạnh, những bực trung thần liệt nữ, danh sĩ, giai nhân. Ta cũng nên đem ra mà dùng làm điển cố, cũng là một cách làm rõ rệt cái đức của tiền nhân mà người xem dễ hiểu dễ nhớ, chả cũng hay hơn không?

Vậy về cách dùng điền cố trong quốc văn sau này, đành rằng không thề bỏ được các điển cố ở sách Tàu vì các điển cố ấy các cụ xưa đã đem dùng vào thơ văn nôm và vì những lời nói hay, những công việc hay thì ở nước nào cũng nên biết, nhưng ta cũng nên lấy tục ngữ thơ ca của ta, công việc, sự tích chép trong sách ta mà dùng làm điển cố”.

(Văn học tạp chí số 2 năm 1932)

Dùng điển là một phép hành văn không thể bỏ được.

Bạn muốn khen một vị ân nhân đã giúp bạn trong khi khốn cùng, mà nói: “tấm lòng Xiếu mẫu của anh ấy, tôi vẫn ghi lòng tạc dạ” thì lời của bạn có phải gọn gàng, hàm súc nhiều hơn không?

Câu: “Hai anh ấy là bạn thân với nhau, tận tâm giúp dỡ lẫn nhau” với câu: “Hai anh ấy như Lưu Bình, Dương Lễ” thì câu nào ý vị hơn?

Nhiều khi có những điều khó nói, không dùng điển thì không sao làm cho ý rõ ràng và lời khỏi thô tục. Một người con gái nói với tình nhân:

“Đừng cợt nhả, tỏ thói dâm đãng”

thì nết na đứng đắn thiệt, nhưng lời lẽ chẳng thanh tao chút nào.

Nếu nói:

Ra tuồng trên bộc trong dâu,

Thì con người ấy ai cầu làm chi?

có phải kín đáo, nhã nhặn hơn nhiều không?

Theo Dương Quảng Hàm, dùng điển còn là một cách dẫn chứng nữa. Ông viết:

“Như khi Thúc Sinh muốn lấy nàng Kiều làm thiếp, nàng còn e nỗi vợ cả ghen mà nói:

Thế trong dù lớn hơn ngoài,

Trước hàm sư tử gởi người đằng la

thì hai chữ sư tử nhắc đến hai câu thơ của Tô Đông Pha giễu một bạn sợ vợ, làm cho ý của nàng muốn nói mạnh lên nhiều” và nàng Kiều đã dẫn một sự tích để chứng minh lý của nàng.

Viết một bài về phổ thông khoa học thì dùng điển không ích lợi gì mấy mà có thể hại cho sự sáng sủa (mặc dầu vẫn có một khi cần tới), nhưng muốn cho câu văn trong một bài luận thuyết, một thiên kí sự, một đoạn tả tình, tả cảnh... được bóng bẩy, hoa mỹ thì nên dùng điển lắm chứ.

Tuy nhiên nên dùng vừa vừa thôi, và như Dương Quảng Hàm đã khuyên, nên dùng những điển Việt Nam để cho nhiều người hiểu được. Nếu dùng những điển phần đông còn bỡ ngỡ thì nên chú thích. Điển của Trung Hoa, Pháp, Mỹ, Nga... bất kỳ của nước nào cũng dùng được cả. Tại sao ta lại không được nói:

Có tài như Nã Phá Luân cũng khó thay đổi được thời cuộc, hoặc:

Đến Gandhi cũng không ngăn được cảnh tương tàn ấy.

Dùng lại những điển cổ nhân đã dùng, được không? Được. Vì điển cũng như một tiếng mới. Bạn nói: “Chị đó là một ả Hoạn” thì tiếng Hoạn có đúng công dụng của những tiếng: “người đàn bà ghen tương và hiểm độc”. Nó là một tiếng mới.

Nhưng điển vốn là một hình ảnh, hễ dùng lâu thì nghĩa nhẹ bớt đi, cho nên kiếm được một điển mới thì vẫn hơn. Muốn vậy bạn phải có tài để cho điển của bạn được nhiều người nhận.

Tôi đã thấy tiếng “Hoạn Thư” nhẹ đi nhiều rồi. Nào bạn thử kiếm một điển khác thay nó xem được không?

TÓM TẮT

1.- Hoa mỹ là một đức rất quý của văn. Văn sở dĩ hoa mỹ là nhờ hình ảnh.

2 - Ta có thể tạo những hình ảnh mới bằng cách tưởng tượng và nói quá đi một chút; ta cũng có thể mượn những hình ảnh của người rồi sửa cho thêm phần mới mẻ.

3.- Nhưng văn cần phải tự nhiên, nên hình ảnh không được cầu kỳ, vô lý. Ta lại phải tránh những lời tối nghĩa và thô tục.

4.- Dùng điển là một phép hành văn giúp cho lời lẽ thêm mạnh mẽ, bóng bẩy, thâm trầm, thanh tao. Ta nên rán dùng nhũng điển của nước nhà cho nhiều người hiểu, nhung không có gì cấm ta dùng điển của ngoại quốc.

Chú thích:

[1] Văn, hoa dã, chất chi đối (Từ Hải): Văn là hoa, trái với chất.

[2] Tiếng dương đây chỉ nhà vua rất hợp: tiếc rằng để gần tiếng đêm, ý cơ hồ như tương phản, chưa được hoàn toàn.

[3] Cò: cảnh sát.

[4] Xiếu mẫu: Ngày nay ta thường đọc là “phiếu mẫu” (chữ Hán là 漂母). (Goldfish).

[5] Châm ngôn của ông là: Sur des pensers nouveaux, faisons des vers antiques (làm những câu thơ cổ để diễn những ý mới).

[6] Tuy vậy, trong câu này cũng có một lỗi là đã ví lá liễu với “tóc” lại ví với “lệ”, hơi miễn cưỡng.

[7] Pends ta foudre, Louis, et va comme un lion

Porter le dernier coup à la dernière tête

De la rébellion.

[8] On aime à s’arrêter dans une promenade pour cueillir des fleurs, mais on ne veut pas se baisser à tout moment pour en ramasser.

[9] Bịp đời. Chắc các bạn chưa quên vụ Thiếu tá quốc tế làm sôi nổi dư luận ở Nam Việt trong năm 1952.

[10] Tức điển cố lấy trong thơ, văn, sử, truyện, tiểu thuyết của Tàu.