← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VI ĐỨC GỌN

1.- Một giai thoại của Franklin.

2.- Tật rườm. Lê Văn Trương

3.- Vài mẫu văn gọn.

4.- Lối thơ một câu của Thao Thao.

5.- Gọn quá hóa tối.

6.- Những tiếng: mà, thì, đặng, rồi, nữa, cho.

1

Franklin đã kể giai thoại ngộ nghĩnh sau này:

Một chàng bán nón muốn đặt làm một tấm bảng treo trước tiệm. Chàng định bảo vẽ một chiếc nón rồi ở bên cạnh sơn hàng chữ:

“John Thompson, chuyên làm nón, làm và bán nón. Bán tiền mặt”.

Chàng hỏi ý bạn bè. Người thứ nhất bảo những tiếng “chuyên làm nón” là vô ích. Chàng bèn bôi đi. Người thứ nhì khuyên bỏ những tiếng “bán tiền mặt” vì không lẽ ai mua nón chịu bao giờ. Chàng lại nghe lời. Người thứ ba cho tiếng “làm” (làm và bán nón) là dư vì khách hàng không cần biết nón làm ở đó hay ở nơi khác. Thế là chàng xóa thêm tiếng ấy nữa, còn lại:

John Thompson bán nón.

Nhưng có người cuối cùng vỗ vai chàng: Này anh, anh không bán thì bộ anh cho không sao? Để làm chi hai tiếng “bán nón” đó?

Rút cục chàng bôi hết, chỉ chừa lại hình chiếc nón và tên chàng. Thiệt là gọn và đủ nghĩa.

2

Tật rườm là tật chung của các người cầm bút.

Học sinh viết rườm vì họ tưởng bài càng dài càng được nhiều điểm. Ký giả viết rườm vì chủ bút đếm hàng mà tính công. Nhà văn viết rườm vì cốt sách dày, bán được nhiều tiền. Xét chung thì sở dĩ rườm vì ít ý mà muốn kéo dài hoặc vì ý nào cũng tưởng là hay cả.

Chiếm quán quân trong tật rườm là Lê Văn Trương. Trong bất kỳ tiểu thuyết nào của ông, ta cũng gặp những đoạn dài hàng trang chứa những mẩu triết lý rất tầm thường có thể tóm tắt trong vài giòng, như đoạn dưới đây:

“Người ta bảo rằng: Con lợn có béo thì lòng mới ngon. Câu ấy có đúng chỉ đúng với con lợn. Trông làn nước biển phẳng lì một hôm êm trời, chớ vội bảo khối nước yên lặng; vô số luồng nước ngầm cuồn cuộn ở dưới. Những con mắt nông nổi nhìn mặt Đại Tây Dương hay Thái Bình Dương có thấy đâu luồng nước ấm Guft Stream nó chạy từ eo bể Mễ Tây Cơ tới nước Thụy Điển, có thấy đâu luồng nước Kouro Sivo nó cuồn cuộn dọc bờ bể đảo Phù Tang.

Dưới khổ mặt tươi của Nữ hôm ấy có một luồng sóng ngầm nó phát nguyên từ tim gan tì phế (!)

Ta chớ nên lầm tưởng về cái bề ngoài nó nhiều khi chỉ là những cái giả dối. Phải cố nhìn thấu bề trong thì sự xét đoán mới may ra không đến nỗi sai lầm. Những kẻ phổi bò thường hay thay đổi ý kiến mình như chong chóng bởi sự xét đoán của họ chỉ chạy qua bề ngoài. Trong một thời khắc ngắn ngủi, họ nhìn ra bao nhiêu cái khác nhau.

Hôm nay Nữ ngồi trong xe, miệng tuy cười mà lòng sôi lên.

Ta không bắt chước nhà tâm lý học Titchener nước Mỹ phân tích sự xét đoán tâm lý ra bao nhiêu phương diện để cho nó chỉ có độc một cái đức là làm cho những kẻ không nghiên cứu về khoa tâm lý lâu năm chẳng hiểu tí gì; ta không phỏng theo nhà tâm lý giải phẫu Freud nước Áo đem chia những cuộc luân chuyển trong tâm lý ra bao nhiêu loại để cho khi người ta đọc đến chỉ thấy nó sâu và tối như những khối óc sâu và tối của các nhà tâm lý giải phẫu; ta về ngay với cái tư tưởng tầm thường nhưng rất dễ hiểu, rất sáng sủa của Việt Nam ta:

Có nằm trong chăn mới biết chăn có rận.

Nếu tiếng nước ta mà được những nhà thông thái các nước để ý đến thì câu này cũng được phô trên bao nhiêu sách tâm lý (Vẻ vang cho Việt Nam biết bao!).

Nhìn nụ cười của Nữ, những kẻ chỉ xét bề ngoài tưởng rằng đó là những tư tưởng vui vẻ nó sai khiến, chứ có dè đâu lại có con rận ưu tư đang cắn ở trong lòng. Mà nụ cười kia chỉ là cười gượng do một ý định mạnh mẽ sai khiến.

(Một trái tim)

Hai trang giấy để diễn ý sau này:

Nữ ngoài mặt vui vẻ mà trong lòng ưu tư.

Một nỗi lòng tương tự như vậy, Nguyễn Du chỉ tả trong có sáu tiếng:

Vui là vui gượng kẻo mà

Còn muốn diễn cái tâm lý mà Lê Văn Trương khen là sâu sắc vô cùng, làm vẻ vang cho nòi giống ta ấy, thì Nguyễn Du viết:

Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.

Vì lời gọn và đúng nghĩa, tinh xác như vậy nên Nguyễn Du mới bất hủ!

Tôi rất sợ mang tật rườm, nhưng không thể không dẫn thêm một đoạn thú vị này nữa:

“Các chị ơi, phấn son quần áo của các chị nó là cái gì? Các chị cho nó là những đồ vật vô tri ư? Không phải đâu! Phải biết công cho nó. Đó là những giáo mác để chị em mình đâm chém bọn đàn ông đấy, là nhũng giáp sắt nó giúp chị em mình bước được một cách vững vàng trên con đường đời đầy chông gai này đấy (!). Đó là những động cơ mãnh liệt để phá tủ sắt, để hủy nhà cửa, ruộng vườn, đó là những tên thuyết khách đại tài đi dụ dỗ bọn đàn ông đến quì dưới chân chị em mình đấy (!)...

Cái sắc của chị em ta ví như một con cá chép (!). Nếu đem luộc chuội lên trắng trợt, ai buồn ăn? hay cũng ăn một cách miễn cưỡng mà thôi. Nhưng rưới một tí nước sốt, thái một ít ớt bị, rắc một dúm hành hoa vào thì ai nhìn thấy mà chẳng muốn ăn, ăn một cách trịnh trọng, kính cẩn (!). Son phấn, quần áo, vòng xuyến của chị em ta là nước sốt, ớt bị, hành hoa (!) đem thêm bớt vào để bắt người ta ăn con cá chép kia một cách kính cẩn, trịnh trọng đấy”

Lê Văn Trương (Một trái tim)

Bạn có tức cười khi đọc đoạn ấy không? Riêng tôi, tôi đã phải ôm bụng trong hồi lâu.

3

Cả những cây bút đa tài như Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Khái Hưng, cũng thỉnh thoảng mắc tật rườm. Người ta càng trẻ thì văn càng rườm, vì thiếu kinh nghiệm, tưởng ý nào của mình cũng hay. Mặc dầu tiền nhân đã khuyên trong mười ý kiến được, phải bỏ đi bảy tám mới hy vọng được độc giả chú ý tới những ý còn lại, mà ta cũng vẫn không nghe, vẫn ôm đồm viết cố lấy cho nhiều.

Loại lau sậy um tùm đó thời này đương gặp một khu đất phì nhiêu là báo chí. Nhưng cả trong thơ mới nữa, ta cũng thấy nó nẩy nở.

Trong bài “Đây mùa thu tới”, Xuân Diệu viết:

“Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”

Đã khô thì phải như xương và phải mỏng manh. Thiệt là thừa lời.

Và Thế Lữ:

Thuyền đi, tôi sẽ rời chân lại,

Tôi nhớ tình ta, anh vội quên.

Thuyền khách đi rồi, tôi vẫn cho

Lòng tôi theo lái tới phương mô?

………

(Bên sông đưa khách)

Hai câu trên với hai câu dưới, ý có khác nhau gì mấy đâu? Rồi hai lần những tiếng “Thuyền đi”. Thiệt là loãng. Cũng diễn ý đó, Đoàn Thị Điểm viết hai hàng này thâm trầm biết bao!

Đưa chàng lòng dặc dặc buồn,

Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.

Nhưng tệ nhứt là J. Leiba trong bài “Năm qua”.

………

Em nhớ năm em lên mười lăm.

Cũng ngày đông cuối sắp sang xuân.

Mừng xuân em thấy tim hồi hộp,

Nhìn cái xuân sang khác mọi lần.

………

Hôm nay em đến mái đông lân

Cô gái khâu thuê vẻ ngại ngần

Tơ lụa bốn bề quần áo cưới,

Vội vàng cho khách kịp ngày xuân.

Duyên mình hờ hững hộ duyên ai,

Cô gái đông lân đứng ngậm ngùi.

Ngán nỗi năm năm đưa chỉ thắm

Phòng không may áo hộ cho người!...

Có giọng thơ thiệt, nhưng ý ít mà kéo dài cho nhiều, thành thử câu:

Nhìn cái xuân sang khác mọi lần

hoàn toàn vô vị, và ý khâu thuê nhắc đi nhắc lại ba lần trong đoạn dưới: cô gái khâu thuê, hộ duyên ai, hộ cho người. Câu:

Cô gái đông lân đứng ngậm ngùi

cũng chẳng thêm nghĩa được chút gì nữa.

Muốn học lối văn gọn, lời ít ý nhiều, bạn nên đọc truyện Thúy Kiều và Đại Nam quốc sử diễn ca. Tôi xin trích ra đây hai đoạn, không lựa chọn gì hết, để bạn dùng làm kiểu mẫu:

Kim Trọng trở về thăm cảnh cũ[1]

Vội sang vườn Thúy dò la.

Nhìn phong cảnh cũ, nay đà khác xưa,

Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa,

Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời;

Trước sau nào thấy bóng người,

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.

Xập xè én liệng lầu không,

Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.

Cuối tường gai góc mọc đầy,

Đi về, này những lối này năm xưa.

Chung quanh lặng ngắt như tờ,

Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?

Láng giềng có kẻ sang chơi,

Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.

Hỏi ông, ông mắc tụng đình.

Hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộc cha.

Hỏi nhà, nhà đã dời xa,

Hỏi chàng Vương, với cùng là Thúy Vân,

Đều là sa sút khó khăn

Thuê may, bán viết, kiếm ăn lần hồi.

Điều đâu sét đánh lưng trời,

Thoắt nghe, chàng thoắt rụng rời xiết bao!

Hai Bà Trưng[2]

Bà Trưng quê ở Châu Phong,

Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên.

Chị em nặng một lời nguyền,

Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.

Ngàn tây nổi áng phong trần,

Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.

Hồng quần nhẹ bước chinh yên,

Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thành.

Đô Kỳ đóng cõi Mê Linh,

Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.

Ba thu gánh vác sơn hà,

Một là báo phúc, hai là ba vương.

Uy thanh động đến Bắc phương,

Hán sai Mã Viện lên đường tiến công,

Hồ Tây đua sức vẫy vùng,

Nữ nhi chống với anh hùng được nao!

Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,

Chị em thất thế cũng liều với sông.

Phục Ba mới dựng cột đồng,

Ải quan truyền dấu biên công cõi ngoài.

Về tài của Nguyễn Du, ta khỏi phải bàn, đến ngay bài dưới của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, ý tứ cũng đầy đủ, mạch lạc phân minh, lời văn gọn gàng mà không phải là không chải chuốt, mạnh mẽ và thắm thiết[3].

4

Ông Thao Thao đã thấy rõ cái tật nhiều lời làm hại thơ tới mực nào, nên cách đây khoảng mười năm, ông cương quyết chống lại thói kéo dài đó trong văn học hiện đại, đề xướng lối thơ một câu, can đảm giữ lập trường của mình, mặc những lời đay nghiến của bạn bè và độc giả.

Ông muốn thơ phải hàm súc, ý phải “tại ngôn ngoại”, “chữ dùng phải đủ sức hấp dẫn người đọc đến chỗ mơ màng, cảm xúc, thầm hiểu như mỗi lúc một khám phá thêm ra”[4].

Ông nhận thấy rằng nhiều bài thơ chỉ hay nhờ một hai câu, mà những câu ấy, “nổi đình đám” chỉ nhờ vài ba tiếng. Rồi ông nghĩ: “Như vậy thì sao không kết tinh hết cả ý thơ trong bài vào một câu gồm toàn những tiếng lựa chọn kỹ càng và nên thơ”? Và ông thực hành liền.

Dưới đây là một “bài thơ” một câu mà ông thích nhất.

“Trời nước lặng

mơ hồ

cá đớp trăng”.

Hàm súc, êm đềm, thơ mộng thiệt. Nhưng đọc xong, tôi có cảm tưởng đứng trước một lâu đài nhỏ xíu, trơ trọi giữa một đồng hoang. Tôi muốn có vài ba câu thơ khác bao câu ấy, dù không được diễm lệ bằng, miễn đừng tầm thường là được: cũng như phía trước và phía sau ngôi nhà kia, có thêm cái cổng, cái sân, một hồ sen với vài hàng cây thì vẫn hơn.

Ông Thao Thao đã bước từ một thái cực này qua một thái cực khác. Chúng ta không thể theo ông được mặc dầu ta phải nhận rằng chủ trương của ông không phải hoàn toàn vô lý.

5

Vả lại nếu gọn quá thì thường khi văn sẽ hóa tối.

Ai đã đọc Tứ Thư, Ngũ Kinh, đều thấy cổ nhân tiếc lời đến nỗi độc giả muốn hiểu nghĩa ra sao cũng được; do đó hậu Nho đã gây biết bao cuộc bàn cãi về nghĩa của Thánh hiển.

Chẳng hạn đoạn dưới đây trong Luận ngữ.

Có người hỏi đức Khổng Từ “Quản Trọng là người thế nào?”. Ngài đáp:

“Nhân (人) dã, đoạt Bá thị Biền ấp tam bách, một xỉ vô oán ngôn”[5]

Hậu Nho có người bàn hai tiếng “nhân dã” đó nghĩa là: “Người ấy”, có người lại bảo nghĩa: “là người nhân vậy”. Tôi không muốn chép lại những lý luận của họ đưa ra để binh vực những giải thích đó, vì nghĩ không ích gì cả.

Rồi tới câu: “Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên.” cũng trong Luận Ngữ, chỉ có 3 tiếng “tam nhân hành” mà ta phải hiểu nghĩa là: “có hai người cùng đi với ta” thì kể ra, lời tuy không hẳn là tối, nhưng cũng quá gọn.

Gọn quá thì văn còn khô khan nữa. Như đoạn tả con gà trống sau này:

“Ở nhà quê, nhà nào cũng nuôi một đàn gà năm bảy con. Trong một đàn gà như thế, ít ra cũng có một con gà trống.

Con gà trống trông ra mạnh mẽ, oai vệ hơn cả. Mào đỏ và cao, đuôi dài, chân to và có cựa sắc. Khi nó ăn một mình thì xem ra bộ dịu dàng, êm ái. Bới đất tìm được cái gì, thì hay gọi những gà mái lại ăn. Nhưng khi nào có con gà trống khác đến, thì hung hăng đuổi đánh. Có khi đá nhau cả ngày, trụi cả lông, trầy cả mỏ mà không thôi.

Thật là một giống bạo dạn, không sợ kẻ khỏe”.

(Quốc văn giáo khoa thư).

Rất gọn và đủ ý. Nhưng đó là một bài vạn vật học chứ không phải là một đoạn văn có nghệ thuật. Tác giả viết chỉ để dạy trẻ em mới tập đọc, nên không có ý làm văn.

6

Nhân tiện, ta cũng nên xét qua những tiếng mà, thì, đặng, rồi, nữa, cho...

Tôi nhớ hồi còn học lớp nhất, thầy dạy Việt ngữ chúng tôi là một cụ Cử, nghiêm khắc lắm, ra lệ trò nào dùng trong bài luận trên năm tiếng thì sẽ bị điểm “không” (zéro). Mỗi lần làm bài xong, tôi phải đếm xem có bao nhiêu tiếng ấy, hễ quá bốn thì tôi bôi phứa đi, chẳng kể nó cần thiết hay không nữa. Nếu bây giờ đọc lại những bài ấy chắc thấy nhiều câu ngây ngô, chối tai lắm.

Ta không thể nhất thiết định trong mỗi trang số tối đa của mỗi tiếng thì, mà, rồi, cái... là bao nhiêu được, nhưng ta cũng đừng nên dễ dãi quá như Trần Trọng Kim trong câu sau này:

“Khi người Việt Nam học chữ nho đã giỏi mà có muốn làm văn bằng tiếng nôm, thì lại mượn chữ nho, rồi lấy âm và lấy ý mà dặt ra một thứ chữ, gọi là chữ nôm”.

Hai tiếng mà đó, bỏ một hoặc cả hai cũng được. Ba tiếng có, rồi, lấy (thứ nhì), theo tôi là dư.

Có tác giả mắc tật ngược lại, rất ghét những tiếng đưa đẩy ấy đến nỗi hễ gặp là bôi. Tôi tưởng như vậy cũng quá đáng.

Văn là để đọc lớn tiếng, hoặc để ngâm. Dù khi ta chỉ coi thôi, thì trong lúc đưa mắt trên giấy, chính ta cũng vẫn đọc thầm. Nếu bỏ hết những tiếng đưa đẩy, câu sẽ khó đọc, rời rạc trơ trẽn nữa.

Còn vấn đề này, tôi chưa giải quyết nổi, xin hỏi ý các bạn.

Những tiếng các văn phạm gia gọi là giới từ, như cho, ở, của... khi nào nên dùng, khi nào không? Chẳng hạn chúng ta

nên nói

hay là nói

Tôi dạy cháu điều ấy

Tiếng “ăn” bổ túc tiếng “cơm”

Anh nói vậy làm tôi sinh nghi

Cuốn sách tôi đẹp nhưng đắt tiền

Đứng bờ đê nhìn xuống

Tôi dạy cho cháu điều ấy

Tiếng “ăn” bổ túc cho tiếng “cơm”

Anh nói vậy làm cho tôi sinh nghi

Cuốn sách của tôi đẹp nhưng đắt tiền

Đứng ở bờ đê nhìn xuống

Văn phạm của ta chưa được quy định đàng hoàng như của Pháp. Ta chưa biết những động từ nào cần có giới từ ở sau. Ai muốn viết sao thì viết. Nên quy định hay không? Và theo nguyên tắc nào để quy định?

Theo thiển ý, ta nên gọn. Nếu không sợ tối nghĩa hoặc khó đọc thì ta có thể bỏ những tiếng đó đi. Trong những thí dụ trên kia, những giới từ cho, của, ở đều vô ích.

Và tôi tưởng:

Dạy nó điều ấy

với Dạy cho nó điều ấy

Nghĩa có hơi khác nhau. Câu sau có vẻ mạnh hơn hoặc có cái giọng gay gắt hon. Vậy tiếng cho ấy không hoàn toàn như một giới từ (préposition à chẳng hạn) của người Pháp. Nó không phải chỉ để nói, nó còn thêm nghĩa, hoặc dùng để đưa đẩy nữa. Đó là một đặc điểm của Việt ngữ, các văn phạm gia nên để ý tới.

TÓM TẮT

1.- Tật rườm là tật chung của các nhà cầm bút. Vậy bạn nên nhớ câu này: “Kiếm được mười ý mà đã bỏ đi 7-8 thì 2-3 còn lại mới có thể làm cho độc giả chú ý tới”. Nên thường đọc “Truyện Thúy Kiều” và “Đại Nam quốc sử diễn ca” để học cách viết cho ý không dư mà lời thì gọn.

2.- Nhưng nếu gọn quá thì lại tối nghĩa và khô khan.

Chú thích:

[1] Theo bản của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim.

[2] Theo Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm.

[3] Đoạn từ “Hai Bà Trưng” đến “mạnh mẽ và thắm thiết” tôi chép thêm theo bản Văn học. (Goldfish).

[4] Lê Văn Hoè, trong tuần báo “Mới” số 3, ngày 6-12-52.

[5] Người ấy được vua lấy 300 hộ ấp Biền của họ Bá để cho, mà tới chết không bị người ta oán.