CHƯƠNG IX ĐỐI THOẠI
1. - Khó viết đối thoại vì ta có tật nói thay cho nhân vật trong truyện.
2. - Lời lẽ trong đối thoại không nên chải chuốt quá.
3. - Nhưng cũng không được thô tục.
4. - Lời lẽ phải hợp với tính tình, nghề nghiệp, giai cấp của nhân vật. - Năm mẫu đối thoại.
5. - Lời lẽ thay đổi tùy từng miền.
1
Ông Antoine Albalat nói không gì khó bằng viết đối thoại. Lời đó cơ hồ như vô lý vì ngày nào mà ta chẳng nghe biết bao người nói chuyện chung quanh ta, ta nhớ ngôn ngữ của họ rồi, chỉ việc chép lại, có gì mà khó?
Nhưng xét kỹ thì quả lối văn ấy không dễ vì khi viết, ta thường vô tình mắc cái lỗi nói thay nhân vật trong truyện.
Tật ấy, những vặn sĩ ít tài thường mắc phải. Trong cuốn Lũy tre xanh, Toan Ánh cho một anh tuần ở Bắc Việt, tức hạng vô học, nói câu sau này với một ông Lý trưởng để xin phép mổ thịt một con trâu chết trôi:
“Nhà ba Nục thịt trâu vừa qua đây, nó có nhận bán thịt hộ chúng con nếu ông cho phép”.
Mấy tiếng “nếu ông cho phép” đặt ở cuối câu nghe có vẻ Tây, phi một người có tân học không thể biết dùng, vậy mà tác giả đa đem đặt nó vào miệng một anh tuần. Nên đổi như vầy có lẽ đúng sự thực hơn:
Nhà ba Nục thịt trâu vừa qua đây. Nó nhận bán thịt trâu hộ chúng con. Nhưng có ông cho phép, chúng con mới dám.
2
Ta nên nhớ lời nói với lời văn khác nhau xa. Trong đoạn đàm thoại ta không nên chải chuốt câu văn quá. Càng chải chuốt càng mất tự nhiên. Càng muốn “làm văn”, văn càng hỏng. Lời phải ngắn; mỗi người chỉ nói một ít rồi để người khác nói.
Vì vậy đoạn dưới đây trong truyện Có gan làm giàu của Nguyễn Bá Học là một bài luân lý thì đúng hơn là một cuộc trò chuyện giữa hai vợ chồng:
“Một hôm, anh chồng từ ngoài đem về cho vợ mấy tấm bánh và mấy trái quả, vừa cười vừa nói:
- Lâu nay chúng ta đã từng kham khổ, nay mới nếm chút ngọt bùi. (“đã từng kham khổ” với “nếm chút ngọt bùi: êm đềm, văn chương thiệt, nhưng thiếu tự nhiên, không phải là lời anh thợ máy).
Người vợ cầm lấy rồi cứ phàn nàn rằng:
- Vợ chồng mình ăn dè uống sẻn còn lo không đủ mà nuôi con; người ta không phải là sắt đá, sao cũng có lúc hu hâm, có dè sẻn dược ít nhiều cũng đề phòng khi thiếu thốn. Nếu cứ như ai bọc vắn cắn dài, ngày nắng chẳng nghĩ đến ngày mưa, như vậy chỉ gọi là đời ăn sổi. (Có khác gì lời một nhà mô phạm không)?
Người chồng nghe nói, sửng sốt mà nói rằng:
- Hôm nay nhân lĩnh tiền công làm ngoài giờ, chúng bạn rủ đi mua vui một vài chén rượu. Sực nhớ đến kẻ ở nhà, cà chua mắm mặn, mới cắp nắp về một chút, gọi là cùng nhau sẻ ngọt chia bùi, ai ngờ trung tín mà phải tội như mình, cũng là vô lý quá. (Tiếng “cùng” đó văn hoa làm sao! trong khi nói, không ai nghĩ tới hết).
Tuy vậy, trong những truyện như Nam Hải Truyền Kỳ của Hư Chu, tác giả không cần tả chân, nên lời lẽ trong đối thoại không cần tự nhiên, mà cần chải chuốt cho hoa mỹ hoặc nên thơ. Văn cuốn ấy thuộc về một loại riêng, một loại văn cổ. Mục đích của Hư Chu là gây những hình ảnh đẹp đẽ trong tâm hồn độc giả, tặng họ những phút tiêu khiển thanh tao, nên ông có thể chỉ ghi những truyện li kỳ, những lời nhã nhặn, và bỏ phép đối thoại đúng sự thực mà thay vào những lời bóng bẩy, du dương.
3
Nhưng lời lẽ cũng không được thô tục. Dù nhân vật trong truyện là một mụ giàu, một con điếm, bạn cũng không nên cho thốt ra những lời này tôi trích trong một tiểu thuyết vừa mới tái bản:
Lời một mụ giàu:
- Sáu giờ chiều nay cô đến nhé? Nếu người ta bằng lòng, tôi sẽ cho cô trăm bạc. Nếu cô nói dối tôi, tôi sẽ thuê bọn “anh chị” xé quần cô ra.
Rồi 10 trang sau, cũng lời mụ ấy nói với một tên Khách trú trong bọn làng chơi:
- Con gái Việt Nam... 17 tuổi... còn nhà thật tử tế... trắng... đẹp... xinh... còn nguyên... mẹ ốm.... uống thuốc... bất đắc dĩ... đẹp lắm... xinh lắm.... phải 200 đồng... không kém một xu... không nói dối... mồ cha đứa nói dối.
Và tên Khách trú đáp:
Bằng lòng... nhưng phải cho xem mặt đã... phải cho khám xem có thật con gái không đã. Đúng, trả tiền liền... không bớt một xu.
Còn nhiều đoạn tục tỉu không thể tưởng tượng được mà tôi không dám chép lại đây. Viết như vậy, không phải là tả chân đâu mà là khiêu dâm đó! Nếu bạn nói: Những lời ấy quả là lời của các nhân vật thì tôi không dám cãi, nhưng ta cũng phải tránh cho độc giả nhũng nỗi thẹn thùng chứ! Có người cha nào dám cho con gái lớn đọc những hàng ấy?
Nguyễn Du tỏ ra đã hiểu rõ nghệ thuật khi tiên sinh bỏ đoạn trong Thanh Tâm Tài Nhân nói về Tú Bà dạy Kiều cách tiếp khách mà thay vào một đoạn vắt tắt, đủ ý nghĩa mà không thô, đoạn từ:
Mụ rằng: Ai cũng như ai
cho tới:
Đủ ngần ấy nết mới là người soi
Cả chỗ mụ nổi tam bành và đánh đập nàng Kiều, lời văn tuy rất mạnh mà không tục:
Này này sự đã quả nhiên,
Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi!
Bảo rằng: Đi dạo lấy người,
Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.
Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân
Buồn mình, trước đã tần mần thử chơi.
Màu hồ đã mất đi rồi.
Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
Con kia đã bán cho ta,
Nhập gia, phải cứ phép nhà tao đây.
Lão kia có giở bài bây,
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe!
Cớ sao chịu tốt một bề,
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!
Phải làm cho biết phép tao!
4
Lời lẽ phải hợp với tình tình, giai cấp, chức nghiệp của nhân vật. Một nhà Nho ăn nói khác, một bà phán, một nông phu, một nhà giáo... ăn nói cũng khác. Mỗi hạng người có một giọng, có những dụng ngữ đặc biệt; và lúc giận dữ, lúc bình tĩnh, khi vui, khi buồn, ngôn ngữ cũng không giống nhau.
1. - Đoạn dưới đây trích trong cuốn Quê người của Tô Hoài đáng làm một kiểu mẫu văn đối thoại. Chẳng những lời lẽ rất tự nhiên, linh hoạt, những câu hỏi, đáp rất ngắn mà còn rất hợp với tâm lý và giai cấp của các nhân vật.
Một cặp trai gái miền quê Bắc Việt hẹn hò với nhau:
“Tuy thường vẫn đứng nói chuyện với Ngây, song bao giờ chàng cũng hồi hộp và ngây ngất. Không biết sửa soạn thế nào được một lời đúng đắn, chàng buông vội một câu cộc lốc và rất không tình tứ:
- Sao lâu thế?
-Em còn xích con Vện. Việc gì thế? Sao hôm nay anh sang khuya?
- Bọn Thoại nó giữ lại chơi đàn, thành thử...
- Nhưng anh ấy gặp em, họ cứ cười cười. Mình ngượng quá.
- Chả ngại. Họ cũng tốt.
Im lặng, Chừng như anh chị đã cạn chuyện, có mỗi một câu định nói, thì Hời hãy còn ngần ngừ chưa dám nói. Bởi thế cuộc nói chuyện yêu đương của đôi trai gái này là gồm những câu ngắn ngủi, trúc trắc, gần như buông sõng, như nói trống không. Mãi, Hời mới thốt:
- Này...
- Gì?
- Này mấy hôm nữa đi xem nhá?
- Xem gì hả?
- Xem cúng cầu mát ở chợ Thượng. Có cả hát chèo.
Ngây nói chủng chẳng:
- Để liệu. Tôi phải dệt cửi mà.
- Cầu mát những ba ngày ba đêm cơ. Đi xem vào tối hăm mốt. Tối ấy là tối ngày phiên, chắc đi được đấy.
- Đi thì được, nhưng ai biết, ngượng chết.
- Ngượng chó gì. Có đi với tôi đâu mà sợ. Rủ cái Bướm cái Lụa hay cái Mơ đi một thể cho vui. Lúc nào về, tôi đưa về tận ngõ.
- Ừ, ừ... Ai biết...
- Chẳng ai biết đâu.
- Còn phải xin phép thầy.
- Tối ngày phiên thong thả, thế nào thầy chẳng cho đi. Cứ “ừ” một tiếng chắc chắn cho tôi liệu trước, ừ đi nào.
- Ừ thì ừ.
- Chắc chứ?
- Chắc.
- Tối hăm mốt.
- Ừ, tối hăm mốt.
- Có thế chứ. Tối nào cũng chuyện thì thầm cách nào thế này thì chán ngắt. Mấy lỵ hôm nay đi xem đám, tôi sẽ nói rõ to một câu chuyện vui lắm.
Ngây lườm yêu người bạn tình.
- Chỉ được cái thế là nhanh. Thôi khuya rồi, về đi. Bầm anh ở nhà thức giấc mà không thấy thì chửi cho vỡ xóm.
- Ừ thì về.
Hời vác gậy lên vai, ngoái cổ lại nói:
- Tối hăm mốt. Nhớ đấy nhá.
- Không nhớ.
Hời lại đứng dừng:
- Ừ thì nhớ.
Bạn nhận thấy có chỗ không đúng văn phạm như: “Những anh ấy gặp em, họ cứ cười cười” (dư một chủ từ họ) và những tiếng nói sai: “Mấy lỵ” (chính là với lại). Câu “Ngượng chó gì” đáng khuyên lắm[1] và nhất là ba hàng cuối cùng thì tuyệt. Tôi có cảm tưởng rằng tác giả đã nghe trộm được cuộc đàm thoại của cặp tinh nhân quê kệch ấy và tốc kí rồi chép nguyên văn vào truyện của ông.
Tôi lại không thể không dẫn thêm đoạn sau này của Tô Hoài nữa. Đó là một bức thư tình của Thoại gởi cho Ngây:
Thư rằng:
“Mợ ơi! Nỗi niềm ngậm đắng nuốt cay. Bây giờ mới tỏ lòng này cho nhau. Đôi ta chung một chữ tình, bấy nay thực là khắng khít. Chẳng may trẻ tạo đành hanh, trêu người chi mấy tá, nên đêm hôm nọ mới xảy ra cái chuyện giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha. Mợ ơi! Tôi nghĩ lấy làm tư lự lắm. Cho nên tôi định rằng thôi thời trước sau cũng là một lần thời hôm nào hết cửi, mợ đưa tôi về quê nói chuyện với các cụ để cho đôi trẻ được sum vầy thì tôi lấy làm mãn nguyện lắm. Để cho thiên hạ chúng nó trông vào, biết cho ta là người chung thủy hữu tình. Mợ ơi! Tôi thời nghĩ thế, mợ nghĩ ra sao thời giả nhời ngay cho tôi được rõ. Tối mai đoạn cửi đầu hôm thời tôi đợi mợ ở ngõ xóm Duối, mợ ra cho tôi nói chuyện.
Giấy ngắn tình dài, bút cùn mực cạn, kể sao cho xiết, nay tạm có mấy lời.
Thoại nay thư.
Nông phu ăn nói tuy cục mịch nhưng viết thư thì “văn hoa” như vậy, một thứ “văn hoa” quê mùa học được ở trong những câu ví, câu ca dao. Họ chép nguyên văn cả những câu hát vào, dù họ không hiểu nghĩa, dù không hợp chỗ, như câu: “giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”, đặt ở đây không đúng. Phải nói: “... cho nên mới xảy ra chuyện bất bằng ở giữa đường”. Hai tiếng “đôi trẻ” dùng cũng sai nữa. Phải viết: “đôi ta”. Họ có biết quy tắc hành văn gì đâu? Họ viết ra, người đọc hiểu là được, nếu câu của họ lại du dương như câu vè là họ thích lắm. Họ lặp đi lặp lại nhiều lần tiếng “thời” vì họ cho như vậy là văn chương. Họ không được học, nên không biết rằng lời lẽ trong thư phải tự nhiên trước hết.
2. - Và đây là một cuộc đối thoại giữa hai mẹ con trong phái “trưởng giả”. Bà Án, mẹ của Lộc, một viên tham tá, không bằng lòng cho con cưới người yêu là Mai:
“Bà nói:
- Nếu nó (Mai) bằng lòng mày thì biết đâu nó lại không bằng lòng người khác. Mày phải biết chỉ người vợ cha mẹ hỏi cho, có cheo có cưới mới quý, chứ đồ liễu ngõ hoa tường, thì mày định đưa nó về làm bẩn nhà tao hay sao?
Lộc sợ hãi, kiếm lời chống chế:
- Bẩm mẹ, nhưng người ta có là phường liễu ngõ hoa tường đâu, người ta là con một ông tú kia mà.
Bà mẹ càng nổi cơn thịnh nộ:
- Nhưng mày phải biết nó đã bỏ nhà cửa trốn lên Hà Nội, thì còn là người tử tế sao được!
Lộc cũng tức giận:
- Bẩm, con đã bẩm mẹ rằng người ta bồ côi cha mẹ, bị bọn cường hào ức hiếp mới phải trốn tránh.
- Mày tin gì được lời nó nói.
- Thì chính con khuyên người ta về Hà Nội.
Bà Án đập bàn mắng át:
- Tao đã bảo tao không bằng lòng là tao không bằng lòng. Mày có giỏi thì mày cứ lấy nó. Vả lại tao đã hỏi con quan Tuần cho mày, người ta đã thuận gả. Mày tưởng chỗ người lớn với nhau, nói trẻ con được đấy hẳn.
Nghe mẹ nhắc tới việc con quan Tuần, Lộc hơi chau mày, thưa lại:
- Bẩm mẹ, con đã xin mẹ đừng hỏi đám ấy cho con, con không bằng lòng.
Bà Án sỉa sói[2] vào mặt con:
- À, mày giở văn minh nói với tao à? Tự do kết hôn à? Mày không bằng lòng nhưng tao bằng lòng. Mày phải biết lấy vợ gả chồng phải tìm chỗ môn đăng hộ đối, chứ mày định bắt tao thông gia với bọn nhà quê à? Với bọn cùng đinh à? Mày làm mất thể diện tao, mất danh giá tổ tiên, mày là một thằng con bất hiếu, nghe chưa?
Khái Hưng (Nửa chừng xuân)
Ngôn ngữ bà Án quả là ngôn ngữ một người quyền thế, quen độc đoán, không chịu cho ai cãi mình. Bà nhắc đi nhắc lại ba lần: “mày phải biết”, rồi cuối cùng bà lại hỏi một cách dõng dạc: “nghe chưa”?
Tuy bà giận nhưng lời văn vẫn văn hoa: “Đồ liễu ngõ hoa tường” và bà cũng biết dùng tiếng mới: “văn minh”, “tự do kết hôn”.
3. - Lời của hai nhà Nho nghiện trà Tàu:
“Tôi chắc cái lão ăn mày này đã tiêu cả một sản nghiệp vào rừng trà Vũ Di Sơn nên hắn mới sành thế và mới đến nỗi cầm bị gậy. Chắc những thứ trà Bạch mao hầu và trà Trảm mã, hắn cũng đã uống rồi đấy, ông khách ạ. Nhưng mà ông khách này, chúng ta phải uống một ấm trà thứ hai chứ. Chả nhẽ nghe một câu chuyện thú như thế mà chỉ uống với nhau có một ấm thôi... Ông khách nâng cái ấm quần ẩm lên, ngắm nghĩa mãi và khen:
Cái ấm của cụ quí lắm đấy. Thực là ấm Thế Đức màu gan gà. “Thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần”. Cái Thế Đức của cụ, cao nhiều lắm rồi. Cái Mạnh Thần song ẩm của tôi ở nhà, mới dùng nên cũng chưa có cao mấy.
Cụ Sáu (tức chủ nhân) vội đổ hết nước sôi vào ấm chuyên, giơ cái ấm đồng cò bay vào sát mặt khách:
- Ông khách có trông rõ mấy cái mấu sùi sùi ở trong lòng ấm đồng không? Tàu nó gọi là cái kim hỏa. Có hỏa thì mau sủi lắm. Đủ năm cái kim hòa đấy.
-Thế cụ có phân biệt thế nào là nước sôi già và nước mới sủi không?
- Lại ngư nhãn, giải nhãn chứ gì. Cứ nhìn tăm nước to được bằng cái mắt cua thì là sủi vừa và khi mà tăm nước to bằng mắt cá thì là nước đã sôi già chứ gì nữa.
Chủ khách cả cười....
Nguyễn Tuân (Vang bóng một thời)
Trong đoạn đối thoại ấy, lời lẽ không ngắn ngủn; chủ khách không cướp lời nhau mà trái lại rất ung dung, thực hợp với cảnh thưởng trà hồi xưa và với tính điềm đạm của nhân vật.
Tác giả lại khéo dùng những tiếng mà chỉ bọn nghiện trà Tàu mới biết như: trà Vũ Di Son, trà Bạch mao hầu, trà Trảm mã, ấm Thế Đức, Lưu Bội, Mạnh Thần, song ẩm, có cao kim hỏa...
Tiếng sủi cũng là tiếng mà hạng tân học bây giờ ít người biết, chỉ còn dùng trong thôn quê Bắc Việt, hoặc trong những gia đinh cổ.
Nhưng thú vị nhất là giọng thân mật trong những câu: “Nhưng mà, ông khách này, chúng ta phải uống một ấm trà thứ hai chứ. Chả nhẽ nghe một câu chuyện thú như vậy mà chỉ uống với nhau có một ấm thôi”
4. - Lời của những nhà giáo trong một bữa tiệc tiền hành.
“Ông Đốc đứng lên chuếnh choáng nói:
“Bác giáo mới về đây ba tháng trời, anh em ai cũng yêu vì nết, trọng vì tài. Tiếc thay bác không ở đây lấy vài năm dạy giúp tôi lớp học trò đi thi cho tôi được dưỡng cái tuổi già”. Nhưng bác đã giúp tôi việc chấm luận. Vậy chén rượu này là để trả ơn bác và chúc bác lên đường được mọi sự may mắn.
Ông ép Nam cạn chén.
Đến lượt ông giáo ba; ông có cảm tình riêng với Nam, nên ông dài lời:
- Bác giáo coi những cuộc thuyên chuyển như một tin buồn. Tôi cho đó là một tin đáng mừng, khi còn trẻ như bác. Còn gì tẻ hơn là phải dạy mãi một lớp, ở mãi một trường, sống mãi một nơi? Phải thay đổi không khí luôn luôn, phải nhìn những khuôn mặt lạ thì đường kiến thức ta mới rộng. Nói thế này thì sát nghĩa. Ở Văn An ba tháng bác đã chán cảnh chán người, nhất là chán người rồi chứ gì? Vậy bác không mong cũng là mong được đi nơi khác, ta lại làm “Ông giáo mới” lần nữa, sung sướng biết mấy! Ngày xưa, hồi còn trai trẻ, tôi thích những cuộc thuyên chuyển. Mỗi lần đi đến một nơi không quen biết, mình được dân gian để ý tới, trọng vọng và đối đãi với mình đằm thắm. Nhưng nếu mình ở lâu, đối với mình quen quá rồi, tình ấy sẽ bớt đằm thắm, sau thành nhạt nhẽo, đáng phàn nàn.
Ông ngừng một chút, đặt chén rượu xuống bàn rồi nói tiếp:
- Lần này bác được về làng Hành Thiện thật là một tin mừng. Làng Hành Thiện xưa nay nổi tiếng là làng văn học, đất tốt, nhiều quan, dân cư để việc học lên trên mọi việc, tất ông giáo được biệt đãi. Phái phụ nữ bên ấy cũng nhiều và những cô tân học không hiếm như ở huyện ta. Mấy mà bác giáo không kiếm được bạn vừa lòng vừa ý. Khi ấy nhớ đánh dây thép sang cho anh em đi dự tiệc mừng đông đủ. Trong khi chờ đợi, tôi hãy thay mặt anh em tặng bác chén rượu mừng trước, bác nên đỡ lấy cho khỏi phụ lòng chúng tôi lúc nào cũng mong cho bác sớm có người làm bạn như đũa có đôi.”
Nguyễn Văn Nhàn (Ông Giáo Mới - Phổ Thông bán nguyệt san - 1944)
Vi là những lời từ biệt, chúc mừng trong một bữa tiệc, nên đoạn trên có vẻ văn hoa, lôi thôi. Ta nhận thấy những tiếng sáo như: “yêu vì nết, trọng vì tài”, “như đũa có đôi”, rõ ràng là của người quen đọc báo chí, tiểu thuyết. Rồi những tiếng trong nghề nữa, như: “kiến thức ta mới rộng”, “nói thế này thì sát nghĩa”.
Hết thảy chúng ta đều có tật quen dùng những tiếng nhà nghề trong mọi trường hợp. Những tiếng ấy nói thường quá, như đã nhập vào trong tiềm thức của ta rồi.
Một vài cách hành văn hơi Tây trong đoạn ấy cũng đáng “khuyên” nữa. Nếu không có tân học, tất không nói: “Tôi cho đó là một tin đáng mừng, khi tôi còn trẻ như bác”, “dân cư để việc học lên trên mọi việc”, “trong khi chờ đợi, tôi hãy thay mặt...” thì rõ ràng là dịch những câu Pháp văn ra.
5. - Một cuộc đàm thoại giữa vua Chiêu Thống và cận thần.
“Vua nói:
- Mới đến, hỏi nó (tức Côn quận Trịnh Bồng), thì nó bảo ở Lương Quốc phủ. Sau nó lại xin ở Súy phủ. Muốn ở phủ là muốn xưng vương. Thằng Lệ đi thì thằng Bồng tới, có gì khác đâu, Trẫm coi chúng không bằng anh em Tây Sơn. Chúng nó như “phá sào chi noãn”[3] lại còn không biết phận. Cứ được voi thì đòi tiên, Trẫm đã có triệu Liên Trung hầu Đinh Tích Nhưỡng và Thạc quận công Hoàng Phùng Cơ để đuổi cổ chúng nó đi.
Ngô Vi Quý nói:
- Hoàng thượng định thế nào thì xin nhất quyết một bề. Nếu định dùng Côn quận thì nên hậu đãi ngay. Bằng không thì cự tuyệt ngay. Bệ hạ cứ làm cái lối nửa thu dùng, nửa cự tuyệt thì việc xã tắc nguy mất. Xin Bệ hạ quyết một bề cho.
- Ta hãy lấy lễ đãi nó trước, bao giờ tội nó hiển hiện thì sẽ trị.
- Tôi e rằng khi ấy muốn trị cũng không được.
Lê Hữu Các nói:
- Hãy nói ngay chuyện cần phải nói bây giờ đã. Bệ hạ đã hứa rằng ngày mai thì có sắc mệnh cho y. Thế Bệ hạ đã định phong cho y là gì chưa? Bổng lộc cho thế nào.
- Trẫm định phong cho làm Quốc Công và cho thêm bổng lộc.
- Y ứng binh cư phủ[4], khi nào lại chịu.
- Tổ tiên nhà y xưa cũng chỉ phong là Tiết chế thủy lục chư quân, Bình Chương quân quốc trọng sự mà thôi. Nay ý trẫm định tước mấy chữ tiết chế... đi, chỉ phong là Quốc công thôi.
- Thần trộm tưởng rằng: Lúc anh em Tây Sơn ra, thần dân đã tưởng là mất nước rồi, không ngờ vì ân trạch của Liệt Tiên Thánh còn dầy nên Tây Sơn không lấy nước của ta. Chúng trừ họ Trịnh cho ta, rút quân về để mình ta lo việc nước. Đó là một cơ hội rất tốt để Bệ hạ trùng quang cơ nghiệp cũ. Bệ hạ không thể bỏ mất cơ hội này được. Bệ hạ lại nhớ lời di huấn của Tiên đế lúc lâm chung. Cơ hội này là giời giúp cho ta, ta ví không biết nhận lấy thì phản lại phải chịu tai vạ. Nhời Mạnh Tử rằng: “Thiên dữ chi, bất thủ, phản thụ kỳ họa”[5] là nghĩa thế.
- Nhưng trẫm hãy từ hành để đợi quân của bốn trấn, quân của Liên Trung, Thạc quận về đã”.
Nguyễn Triệu Luật (Chúa cuối mẻ - Phổ thông bán nguyệt san - năm 1944)
Không có một chút giọng phường chèo như trong các lịch sử tiểu thuyết hạng 4 hạng 5. Không có những “muôn tâu Bệ hạ” với “kẻ hạ thần này” để rồi sau xen vô những tiếng mới như “Con thuyền quốc gia đương gặp con dông tố” hoặc “Trái tim Trẫm đập thình thình như muốn vỡ”.
Giọng tự nhiên, thân mật, nghiêm trang, một đôi khi gay gắt, vừa hợp với tình, vừa hợp với cảnh. Lời gọn gàng, gần như là cổ văn, có chỗ dùng những thành ngữ như “phá sào chi noãn”, “ứng binh cư phủ”, “Thiên dữ chi bất thủ...”, hoặc lối hành văn đặc biệt của nhà Nho như: “ta ví không biết nhận lấy thì phản lại chịu tai vạ”, “nhời Mạnh Tử rằng”.
5
Sau cùng lời còn thay đổi tùy từng miền. Bạn không nên cho một người bình dân vô học ở Nam Việt nói tiếng Bắc như trong đoạn sau này:
Hai dì cháu một gia đình nghèo ở Dakao (Sàigòn) nói với nhau:
Nữ lại gần hỏi thím Bảy:
- Mụ ấy nói chi mà dì giận thế? Hình như mụ ấy nói gì con?
- Đồ khốn kiếp, loại trâu sanh ngựa đẻ, thế mà dám mở mồm ra.
-???
- Nó biểu có một thằng Khách già muốn lấy cháu, cho một trăm đồng bạc. Lấy liếc gì! Chẳng qua, đồ đểu cáng cả. Từ giờ, thấy con mụ già ấy bước đến nhà, tống cổ nó ra. Con gái nhà người ta, lại dám đến dụ đi làm cái nghề khốn nạn. Sao chúng nó thế được?
- Mụ ấy nói cho ai cơ?
Thằng “Chệt” béo, chủ của dượng mày khi trước ở Chợ Lớn. Đồ điếm đàng, thấy con gái nhà ai xỉnh xinh cũng ngấp nghé. Trước kia, dượng mày nói với tao mình nó làm hại bao nhiêu người rồi. Gớm! Sao trông cái mặt nó thế mà chó đến thế.
- Chú Sùn Phát ấy à? Chú ấy có trông thấy con bao giờ?
- Thì đầu đuôi cũng là ở con mụ này mối lái để kiếm chát. Đẹp mặt nó thì nó bỏ tiền ra chứ vợ với con gì. Dù có lấy thật thì cũng chẳng ai hoài con mà gả cho những đứa ấy. Gần kề miệng lỗ mà còn đàng điếm... À, trưa hôm nay, cháu có thổi cơm cho chúng nó ăn không thế?
- Gạo nhà còn ít, cháu phải nói khó mãi với bà chủ gác ngoài, bà ấy mới cho vay, cháu hẹn đến chiều thím về cháu giả. Thím đã có tiền chưa, để đi đong giả cho người ta?
Lê Văn Trương (Một trái tim)
Cũng có “giọng Sàigon” đấy chứ! Những tiếng “nói cái chi”, “đồ khốn kiếp”, “loài trâu sanh ngựa đẻ” “nó biểu”, “đồ điếm đàng”... cũng làm cho những bạn ở Bắc Việt chưa bao giờ vào Nam phải phục thầm đấy chứ. Có vẻ “màu sắc địa phương” lắm. Nhưng đoạn đối thoại ấy không gạt được những bạn nào đã biết chợ Bến Thành, đường Catinat, khu Đa Kao, Tân Định, vì có xen những tiếng hoàn toàn Bắc.
Người Nam nào ít học, ít giao thiệp với người Bắc, tức trường hợp của hai dì cháu trong truyện
tất không nói
mà nói
mở mồm
đồ điểu cáng cả
ngấp nghé
cái mặt nó thế
chú Sùn Phát ấy à?
chẳng ai hoài con mà gả
thổi cơm
nói khó mãi
cháu đong gạo giả người ta
mở miệng
quân khốn nạn hết
gấm ghé
cái mặt nó vậy
chú Sùn Phát hả?
chẳng ai thèm gả
nấu cơm
năn nỉ hoài
cháu mua gạo trả người ta
Cũng không nói “cho vay gạo” mà nói “cho mượn gạo” vì ở Nam Việt cho vay thì lấy lời (lãi), cho mượn thì không. Ai lại giúp hàng xóm một vài lít gạo mà lấy lời bao giờ? .
Xin bạn so sánh đoạn trên với đoạn sau này của Hồ Biểu Chánh và thấy hai lối “giả hiệu” và “chính hiệu” khác nhau ra sao:
“Bà (Phán) mới hỏi bà Đốc Phủ rằng:
- Bẩm Bà lớn, tôi nghe nói hôm qua quan lớn về, vậy mà quan lớn đã định gả cô Hai cho nơi nào chưa?
- Ờ, hôm trước ổng về ổng nói ổng có gặp ông Phủ Thiện ở Bạc Liêu, ổng lại nói ông Phủ Thiện muốn làm sui. Song hổm nay chưa thấy đến coi mặt.
- Ông Phủ ở dưới Bạc Liêu đó giàu hay không?
-Người ta cũng giàu lắm chớ! Làm tới bực Phủ, Huyện mà có ai nghèo.
- Còn con ông học hành thế nào? Đã làm việc ở đâu rồi hay là còn ở nhà trường?
- Thằng đó làm việc lâu rồi. Nó làm ký lục đâu ở phía dưới Bạc Liêu.
- Bẩm Bà lớn, có một ông Còm-mi mới dọn nhà về ở khích bên nhà tôi. Ổng quen với ông Phán ở nhà. Ổng tên Đãnh 24-25 tuổi, con ông Cai tổng gì ở Sa Đéc. Tôi hỏi ông Phán thì ổng nói ông Còm-mi đã làm việc ngoài Phó Soái. Ông Còm-mi đó vui vẻ mà lại khá trai lắm. Ổng chưa có vợ mà dọn nhà cửa tốt quá. Hồi hôm, ổng qua nhà ổng chơi[6] Tôi hỏi ổng muốn vợ hay không, như muốn thì tôi làm mai giùm cho ổng. Theo thế thường, trai mới lớn lên, hề mình hỏi như vậy thì họ hay mắc cỡ; mà ông này, ổng không mắc cỡ, lại cười mà nói rằng ổng muốn vợ lắm, song chưa biết con ai mà chịu gả, đặng ổng đi nói. Bẩm Bà lớn, thiệt tôi muốn, làm tài khôn chỉ cô Hai ở nhà đây cho ổng coi mắt, song tôi sợ Bà lớn rầy nên tôi không dám nói ra.
- Chị này nói kỳ dữ kia! Con gái cũng như cái hoa, ai thấy không muốn ngó. Mình có con gái, ai muốn coi thì họ coi, gả cùng không gả tại nơi mình, chớ họ coi mắt mà mất miếng nào hay sao mà rầy. Không hại gì đâu, chị nói lại với ông còm-mi đó, nếu muốn coi mắt con Hai thì tới đây tôi cho coi”.
Hồ Biểu Chánh (Nhơn tình ấm lạnh)
Sau này, nếu tôi phải rời Nam Việt, đọc lại đoạn ấy thì mỗi tiếng in đứng sẽ như một tiếng đờn làm lòng tôi rung động êm êm, nhớ lại những gốc dừa bên bờ rạch, những chiếc khăn choàng dưới hàng sao, những thánh thất Cao Đài, những bàn thờ ông Thiên, những rặng bần ủ rũ ở Rạch Giá, những rừng đước ở Mỹ Thanh... Cả một bầu trời với người, vật và cây cối sẽ hiện lại trong óc tôi, rõ ràng và thân mật.
Bạn chê đoạn ấy là văn không gọt: ba tiếng “ổng” trong một hàng, những tiếng “mà” lặp đi lặp lại 5-6 lần, và những tiếng ngơ ngẩn như “còn ở nhà trường”, “nhà cửa tốt quá”?
Phải. Văn không gọt thiệt. Tác giả đã dùng giọng lôi thôi, đôi khi có vẻ Tây vì tác giả muốn tự nhiên, ghi đúng ngôn ngữ của một hạng trưởng giả mới nổi ở Nam Việt. Lời lẽ hạng này chưa được chải chuốt như lời lẽ các bà Tuần, bà Tham ở Bắc mà những nhà văn trong nhóm Tự Lực đã tốc ký lại cho ta trong nhiều tác phẩm bất hủ.
Chừng trăm năm nữa, cháu chắt chúng ta đọc những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh và của Tự Lực văn đoàn sẽ tự hỏi: “Ủa, tổ tiên ta nói năng khác xa chúng ta và ngôn ngữ bấy giờ Nam không giống Bắc nhỉ?” Và những tiểu thuyết ấy sẽ thành những tài liệu cho các người sau khảo cứu về thời cũ. Lời đó không phải là một lời chê đâu, thưa bạn.
TÓM TẮT
1. - Muốn viết đối thoại cho được tự nhiên, linh động, ta phải quên ta đi mà tự đặt vào địa vị các nhân vật trong truyện để tránh cái tật nói thay cho các nhân vật ấy.
2. - Lời lẽ của một người nào phải hợp với tính tình, nghề nghiệp, giai cấp của người đó, lại phải hợp với miền người đó ở nữa.
3. - Khi viết xong đoạn đối thoại rồi, ta đừng nên sửa chữa lại cho câu văn chải chuốt quá, nhưng cũng nên soát lại xem lời lẽ có thô tục không.
Chú thích:
[1] Ý nói đáng khen hay lắm. (Goldfish).
[2] Viết “xỉa xói” có lẽ đúng hơn.
[3] Cái trứng ở trong cái tổ đã bị phá.
[4] Cầm giữ binh quyền mà chiếm phủ chúa Trịnh
[5] Trời cho mà không giữ, phản lại thì phải chịu tai vạ.
[6] “Ổng qua nhà ổng chơi”. Năm tiếng đó hai mệnh đề. Mệnh đề thứ nhất: “Ổng qua nhà” nghĩa là “ổng qua nhà tôi”; và mệnh đề thứ nhì: “ổng chơi”. Rõ ràng là giọng nhà quê Nam Bộ.