← Quay lại trang sách

CHƯƠNG X ĐỨC ĐẶC SẮC

1. - Hãy theo ý ta, đừng theo ý người,

2. - Hãy nhận xét với cặp mắt của ta, đừng nhận xét với cặp mắt của người.

3. - Nhưng khéo bắt chước cũng có thể đặc sắc được.

4. - Tránh những cái tầm thường.

5. - Đặc sắc không phải là kỳ quặc.

1

Văn phải có cái gì đặc sắc mới được độc giả chú ý.

Đặc sắc là cái màu sắc riêng của mình. Nhà văn nào có tên tuổi cũng có ít nhiều đặc sắc. Có người viết đủ các loại như Voltaire, Victor Hugo[1]. Đó cũng là chỗ đặc sắc của họ. Nhưng phần đông thì chuyên về một loại: Vi Huyền Đắc về kịch, Xuân Diệu về thơ, Khái Hưng về tiểu thuyết, Vũ Trọng Phụng về phóng sự... Trong mỗi loại, mỗi cây bút lại chuyên về một ngành như Xuân Diệu chuyên viết thơ mới, Khái Hung chuyên tả tính tình hạng trưởng giả, Tô Hoài chuyên tả đời sống dân quê và loài vật.

Nếu bạn tập viết văn, bạn phải lụa một con đường hợp với tài năng của bạn, đừng thấy người khác thành công về loại nào đó mà bắt chước, theo dõi họ.

Trong cuốn Nghệ thuật nói trước công chúng[2] tôi đã viết:

“Trên thế giới này không có hai người như ta”. Mỗi người có một óc riêng, một tâm hồn riêng, những cảm xúc riêng, hoàn cảnh riêng. Biết theo ý ta thì thành công và sung sướng; trái lại thì sẽ thất bại như Charlie Chaplin khi bắt chước một vai hề người Đức, Dale Carnegie khi đua đòi viết tiểu thuyết, như Phan Khôi khi xuất bản cuốn Trờ vỏ lửa ra, như Nguyễn Khắc Hiếu khi viết văn nghị luận, như Tô Hoài khi học cái giọng trào lộng, khinh bạc”.

Tật bắt chước người là tật chung của hầu hết các nhà văn. Người nào mới cầm bút cũng muốn viết tiểu thuyết hoặc làm thơ, tưởng chỉ có con đường đó mới đưa được tới đài vinh quang. Người ta lầm: nữ sĩ De Sévigné ở Pháp lưu danh thiên cổ nhờ thư của bà viết cho con gái là bà De Grignan; Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh nào có viết tiểu thuyết bao giờ mà cũng được nổi danh khắp nước và biết bao người tự ghi tên mình trong văn học sử khi cặm cụi nghiên cứu lịch sử của giống nòi.

Vậy điều kiện thứ nhất là bạn phải biết luyện tài riêng của bạn, đừng chạy theo những người đã thành công và cũng đừng quá chiều thị hiếu của thời đại.

2

Điều kiện thứ nhì là bạn phải nhận xét với cặp mắt riêng của bạn, cảm xúc với tấm lòng riêng của bạn, và suy nghĩ với bộ óc riêng của bạn.

Có đầu đề gì nhàm bằng tả cảnh thu ở Bắc Việt? Từ cổ đến kim, có thi sĩ nào là không rung động trước cảnh thu và không làm một vài bài, hoặc ít nhất cũng vài câu để vịnh thu? Nếu thâu thập hết, chắc được hàng ngàn hàng vạn bài. Nhưng hỏi được bao nhiêu bài còn lưu lại tới ngày nay? Sách vở của ta tuy thất lạc nhiều, song những bài đặc sắc thì vẫn được truyền tụng. Vậy mà ta chỉ thấy được độ mười bài hoặc đoạn như: Mùa thu chơi thuyền dưới trăng, (Vô danh), Cảnh thu (của bà Thanh Quan, có người nói của Hồ Xuân Hương), Thanh Phong minh nguyệt (Ngô thế Vinh), Mùa thu đi chơi thuyền (Nguyễn Bỉnh Khiêm), Thu điếu, Thu ẩm, và Thu vịnh (Nguyễn Khuyến) và Mùa thu (Ngô Chi Lan)...

Trong số đó, ba bài của Nguyễn Khuyến được người ta thuộc nhiều nhất. Tại sao? Tại trong khi phần đông những thi sĩ khác nhìn thu Việt Nam với cặp mắt của thi nhân Trung Quốc, thì Nguyễn Khuyến ngắm thu Việt Nam với cặp mắt của một nhà nho Việt Nam. Những người khác tả thu đại loại như vầy:

Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,

Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa.

Giếng ngọc (!) sen tàn bông hết thắm,

Rừng phong (!) lá rụng tiếng như mưa.

(Ngô Chi Lan)

Rõ ràng là thu ở Tô Châu hay Hàng Châu. Còn Nguyễn Khuyến viết:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gọn tí,

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo.

………..

Ngõ tối đêm khuya đóm lập lòe,

Lưng giậu, phất phơ mùi khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe,

Da trời ai nhuộm màu xanh ngắt

…………

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,

Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như từng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước nào.

Đó mới thiệt là thu ở Phủ Lý hay Sơn Tây, trong miền Trung châu Bắc Việt: trời cao và xanh ngắt, nước lạnh và trong veo, sương mờ, trăng tỏ, gió hiu hắt đóm lập lòe. Những tiếng “ngỗng nước nào” thiệt hợp cảnh. Ngỗng đó là một loài chim di cư, cứ cuối thu thì rời phương Bắc mà bay về phương Nam, tìm nơi ấm áp, rồi tới đầu hè lại trở về phương Bắc.

Những đặc điểm ấy của thu Bắc Việt, có nhà văn nào không biết, nhưng chỉ duy có Nguyễn Khuyến đã nhận xét với cặp mắt riêng của tiên sinh, với tấm lòng ưa nhàn, phóng đạt của tiên sinh, rồi mô tả một cách thành thực những nhận xét, cảm xúc ấy, cho nên thơ của tiên sinh có đặc sắc. Nếu tiên sinh cũng chỉ nói đến “giếng ngọc sen tàn”, “rừng phong lá rụng” như trăm ngàn người khác thì vị tất ba bài ấy còn được lưu truyền đến bây giờ.

Tiên sinh mất khoảng hai chục năm, lại có hai chàng thanh niên dám ngâm vịnh về cái đề cũ rích đó, mà đều nhờ biết nghe với lỗ tai riêng, nhìn với cặp mắt riêng mà danh cũng sẽ được ghi trong văn học sử. Hai chàng đó là Lưu Trọng Lư và Xuân Diệu.

Bạn thử nghe Tiếng Thu của họ Lưu:

Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực

Hình ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người cô phụ?

Em không nghe rừng thu

Lá thu kêu xào xạc,

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô?

(Những áng thơ hay)

Có thi nhân nào trước ông đã ghi được những thanh âm u sầu đó, những thổn thức, rạo rực, xào xạc đó của mùa thu không?

Rồi xin bạn lại ngắm cảnh thu về với Xuân Diệu:

Đây mùa thu tới

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng:

Đây, mùa thu tới, mùa thu tới,

Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Hơn một loài hoa đã rụng cành,

Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh.

Những luồng rún rẩy rung rinh lá,

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ,

Non xa khởi sự nhạt sương mờ.

Đã nghe rét mướt luồn trong gió,

Đã vắng người sang những chuyến đò,

Mây vẫn từng không chim bay đi.

Khí trời u uất hận chia li.

Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,

Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.

(Thơ Thơ)

Bài này tuy có nhiều lỗi (ý tứ rời rạc, hơi rườm, một vài tiếng “tây” quá) nhưng thiệt là mới mẻ, đặc sắc từ lời tới ý. Trước ông, chưa ai nói đến sắc đỏ của mùa thu, chưa ai viết rét “luồn” trong gió và cũng chưa ai tả cái buồn mênh mông, vô cớ của thiếu nữ khi thu về.

Cũng là cảnh thu ở Bắc Việt, nhưng thu ở Lạng Sơn khác thu ở Thái Bình, thu trong cơn khói lửa khác thu thời bình trị, thu trong cặp mắt tôi khác thu trong cặp mắt bạn và thu trong cặp mắt bạn hôm nay cũng khác thu trong cặp mắt bạn hôm qua. Chẳng những cảnh mỗi lúc một thay đổi mà tâm hồn ta cũng thay đổi. Biết nhìn thì trong vũ trụ có lúc nào thiếu cảnh mới và biết suy nghĩ, cảm xúc thì có lúc nào bạn thiếu ý tứ mới, cảm tưởng mới. Cánh đồng văn chương còn mênh mông. Nó đang chờ ngọn bút của bạn khai thác đấy.

3

Tất nhiên là ta vẫn có thể giữ được đặc sắc cả trong khi mô phỏng người khác như ở một chương trên tôi đã chỉ. Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới đã mượn của thơ Pháp rất nhiều như: rặng liễu đứng chịu tang, tóc buồn buông xuống, dệt lá vàng... nhưng không vì vậy mà thơ ông thiếu vẻ tân kỳ.

Khi Huy Cận viết:

“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

chắc cũng đã nhớ hai câu thơ sau này của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc lâu:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị,

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

(Trời tối quê nhà đâu đấy tá?

Khói tuôn sóng vỗ mối sầu gây)[3]

Nhưng không vì vậy mà thơ của ông không hay. Có lẽ chính vì vậy mà thơ ông hay nữa.

Vậy ta vẫn có thể mượn hoặc ý hoặc lời của cổ nhân nhưng ta phải viết sao cho tân kỳ hơn, mới mong thành công. Ta không bắt chước một cách nô lệ. Nô lệ thì không bao giờ bằng người.

4

Điều kiện thứ ba phải tránh những cái gì tầm thường, những tiếng người ta đã nói đi nói lại nhiều lần, nghe rất sáo như: hoa cười ngọc thốt, mắt phượng mày ngài, chim sa cá lặn, oanh yến dập dìu, hoa xuân đương nhụy, tuổi hạc càng cao...

Nhiều người bình phẩm đoạn Nguyên Du tả Vân và Kiều, khen câu:

Làn thu thủy, nét xuân sơn

là thanh nha, bóng bẩy.

Tôi nghĩ tài của Tố Như không phải ở trong câu thơ tầm thường ấy mà bất kỳ thầy khóa nào cũng biết được. Đó chỉ là những tiếng sáo ghép lại mà thôi. Cổ nhân có thể thích nó được, nhưng theo quan niệm mới bây giờ thì nó chẳng có chút gì là giá trị. Thiên tài của thi hào ở chỗ khác kia, ở chỗ tiên sinh tả hai chị em trái hẳn nhau từ hình dáng tới tính tình, ngôn ngữ và tâm lý.

Nếu tả cảnh hoàng hôn mà bạn chỉ viết được những hàng dưới đây, thì tôi tưởng đừng nên hạ bút là hơn:

“Màn đêm buông dần!

Tiếng trùng khi khoan khi mau như khúc đàn muôn điệu tiễn biệt chuỗi ngày qua (một ngày - chứ, sao lại một chuỗi ngày?)...

Cảnh âm u huyền bí của rừng sầu!

Hình sắc hiên ngang hùng vĩ của núi cao!

Tất cả, lúc này mờ mờ trong sương chiều, và... chìm hẳn vào đêm lại càng gợi trong tâm trí người ta nhiều tưởng tượng kỳ lạ!”

Vân Hà (Bãi Sậy khởi nghĩa)

Những câu ấy chẳng gọi được một hình ảnh gì hết, vì độc giả đã nghe quá nhiều.

Nhưng nếu bạn viết được như Xuân Diệu trong đoạn tôi sắp trích thì tức là bạn đương khắc tên của bạn trên bia đá vậy:

Hoàng Hôn

“Chiều lên dần dần. Tôi càng đi, trời càng tối. Những bước đi cũng đồng thời với triều bóng dâng, xúi cho tôi dễ tưởng rằng bước của tôi có quan hệ với thời giờ; thỉnh thoảng tôi đứng lại, tần mần xem thử họa chăng có liên lạc gì không...

Con đường Nam Giao thẳng mà không bằng: tôi khởi sự đi trong ánh sáng, và tôi tới lần trong bóng tối, tợ hồ trong thành phố Huế là ngày, bên đàn Nam Giao là đêm.

Vâng, chiều lên dần dần, chiều không xuống. Đầu tiên, ruộng hai bên đường thẫm lại; những bụi cây, lá không phân biệt nữa, thành những khối bóng. Chín mười cây cau song song vụt lên, giữ sáng ở trên đầu những cây nến khổng lồ.

Ánh vàng nhạt cứ bớt mãi, có ai kéo về trời để thắp các vì sao. Tàu lá cau trổi nhất gượng bám chút bụi mặt trời. Nhưng hết rồi. Bóng càng lên mau, càng đậm mãi, xuất tự đất đen, trong khi ở sát da trời, còn mơ hồ ánh sáng.

Trí tôi thấy tuy mắt tôi không - những lớp bóng càng ở trên càng nhạt một tí, và cái đen tối cứ lên hoài, cho đến lúc ngập cả trời cao.

Hoàng hôn... ễnh ương kêu, tiếng khàn khàn phát tự muôn gốc cỏ, từ những ruộng sâu thũm xuống làm cho con đường tự nhiên cao. Tiếng ảo não, hơi phồng, như trong ấy có sự gắng sức, tiếng rậm và nhiều, và thê lương như sự chết, làm sôi bóng hoàng hôn.

Nơi nay đã khởi sự nhà quê. Những còn ễnh ương rải hồn tha ma trùm đường vắng...

Và đường vắng thì trải nhựa đen. Tôi thong thả đi, buổi chiều len lấn vào tâm tư, theo ngõ của hai mắt”.

Xuân Diệu (Phấn thông vàng)

Ý tứ và lời thiệt mới mẻ, không hàng nào không đặc sắc. Ai cũng nói chiều xuống, ông nói chiều lên, mà ông nói đúng. Ông đã quan sát tỉ mỉ sự tiến triển của bóng tối.

Đọc những hàng: “tôi dễ tưởng rằng bước của tôi có quan hệ với thời giờ, tôi khởi sự đi trong ánh sáng và tôi tới lần trong bóng tối, ánh sáng vàng cứ nhạt mãi, có ai kéo về thắp các vì sao, những ruộng sâu thũm xuống làm cho con đường tự nhiên cao, tiếng áo não, hơi phồng, như trong ấy có sự gắng sức, làm sôi bóng hoàng hôn, buổi chiều len lấn vào tâm tư, theo ngõ của hai mắt”, tôi đặt sách xuống, tự hỏi: “Rõ ràng ta cũng đã nhiều lần có những cảm tướng ấy, mà sao diễn không được”?

Sáng tác là vậy: Nói những điều chưa ai nói, nhưng ai cũng thường cảm thấy.

5

Tuy nhiên, đặc sắc không phải là kỳ quặc. Bạn bận những chiếc áo lố lăng thì được người ta chú ý tới ngay, nhưng người ta sẽ bĩu môi và lần sau sẽ quay mặt đi.

Trong chương VII, chúng tôi đã nói nhiều về những hình ảnh quái dị, xin miễn nhắc lại.

TÓM TẮT

1.- Đừng chạy theo người mà phải luyện cái sở trường của ta, nhìn bằng cặp mắt của ta, cảm xúc bằng tấm lòng của ta, suy nghĩ bằng bộ óc của ta.

2.- Ta có thề mô phỏng được, nhưng không nên nô lệ.

3.- Không đầu đề nào cũ rích. Khéo viết cho đặc sắc thì dù cũ cũng thành mới.

4.- Tuy vậy, đừng lố lăng và lập dị.

Chú thích:

[1] Ở nước ta chưa có ai so sánh với hai nhà văn đó được.

[2] Quyển thứ 20 trong loại sách “Học làm người” P. Văn Tươi xuất bản (Saigon) 1953, NXB Văn Hoá tái bản 1995.

[3] Hai câu này của một nhà nho vô danh dịch. [Nhà nho vô danh này là Phương Khê, bác của cụ Nguyễn Hiến Lê. (Goldfish)].