← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XVI TA VỀ TA TẮM AO TA

1.- Từ ngữ và văn phạm luôn luôn thay đổi.

2.- Có những sự vay mượn hữu ích và cần thiết.

3.- Ngữ pháp xuôi của tiếng Việt.

4.- Phải cẩn thận khi dùng những tiếng bởi, bị, xuyên qua, với, mà, của, nếu, là, ở.

4.- Ta về ta tắm ao ta.

1

Chúng tôi vẫn chủ trương rằng ta nên rán giữ cách hành văn cho được thuần túy Việt Nam. Không phải tại chúng tôi có tình thần bài ngoại đâu. Chỉ tại viết tiếng Pháp ta phải theo văn phạm của Pháp thì viết tiếng Việt ta cũng phải theo quy tắc của tiếng Việt. Trong những cuốn Kim chỉ nam của học sinh, Bảy bước đến thành công, Để hiểu văn phạm [1], chúng tôi đã bàn qua về vấn đề ấy. Nay xin xét kỹ lại.

Từ ngữ và văn phạm không bao giờ có tính cách bất biến. Nếu bất biến thì phải chết. Lời nói để phô diễn tư tưởng và cảm xúc. Cách tư tưởng và cách cảm xúc thay đổi luôn luôn do nhiều nguyên nhân: tình trạng kinh tế, cách sinh hoạt, trình độ văn hóa..., nên thời nào cũng phải có những tiếng mới, những lối phô diễn mới.

Bạn nào thông tiếng Pháp chắc đã nhận thấy điều ấy. Lối hành văn của Pháp ở thế kỉ 17 nặng nề, tối tăm, khác hẳn lối hiện thời. Câu văn của Molière, Bossuet, dài lê thê, đầy những qui, que.... về phần dụng ngữ, đã thêm nhiều tiếng mới, và một số tiếng cũ đã thay đổi ý nghĩa. Như những tiếng gêne, étonnant, ennuyer nghĩa bây giờ nhẹ hơn ba thế kỉ trước. Tiếng poitrinaire đã nhường chỗ cho tiếng phtisique và tiếng này đã nhường chỗ cho tiếng tuberculeux, từ khi người ta đã kiếm ra được vi trùng của bệnh lao.

Hoa ngữ cũng vậy. Bạn thử so sánh văn của Hàn Dũ (thế kỉ thứ 8) với văn của Lương Khải Siêu trong bộ Ẩm băng thất văn tập sẽ thấy khác nhau nhiều, mà văn của Hồ Thích với văn của Lương Khải Siêu còn cách biệt xa hơn nữa. Một trang cổ văn mà viết ra bạch thoại thành tới 2-3 trang. Hồi trước họ viết vắn tắt quá, nên khó.hiểu, bây giờ thì rõ ràng hơn. Những tiếng chi, hồ, giả, dã cơ hồ đã mất hẳn trong văn học hiện đại của Trung Quốc.

Tiếng Việt ta cũng phải theo luật ấy. Hồi xưa các cụ không chấm câu, viết lối biển ngẫu, dùng những tiếng min, thửa, chưng chỉn... Câu văn của ta hiện nay gẫy gọn, sáng sủa hơn; nhiều tiếng cổ đã mất và biết bao tiếng mới đã hiện. Chỉ so sánh văn trong Nam Phong với văn trong Phong Hóa, cách nhau chừng mươi năm, cũng đã thấy sự tiến bộ mau chóng là dường nào.

2

Vậy văn pháp thay đổi là một sự dĩ nhiên và ta cũng nên vay mượn của nước ngoài một vài cách hành văn để phô diễn được hết những tế nhị trong tư tưởng ở thời đại này; nhưng ta phải giữ cho Việt ngữ một tính cách Việt Nam, đừng cho lai căng.

Tôi xin chép lại đây một thí dụ đã dẫn trong cuốn Để hiểu văn phạm để chứng minh rằng có những sự vay mượn hữu ích và cần thiết là khác nữa.

“Ông Triều Sơn, trong cuốn Con đường văn nghệ mới [2], viết: “Người ta cảm thấy những bước vấp đầu tiên này - những bước vấp không tránh được ở một bài: “Nhớ người thương binh”, cả bài “Sông Lồ” của Phạm Duy”.

Chắc các bạn thấy lối phô diễn đó chịu ảnh hưởng của Pháp, các cụ ta hồi xưa không có. Muốn phát biểu đúng tư tưởng trong câu ấy các cụ sẽ viết đại khái:

“Nghe vài bài như bài “Nhớ người thương binh”, bài “Sông Lô” của Phạm Duy, người ta thấy những bước vấp đầu tiên ấy. Những bước vấp ấy không sao tránh được”.

Hai lối diễn đó dài ngắn như nhau, nhưng về ý tưởng, chưa hẳn đã hoàn toàn như nhau. Khi để những tiếng: “Những bước vấp không sao tránh được” chen vào giữa câu, ta có ý hoặc nhấn mạnh vào nó, hoặc cho độc giả đừng chú ý tới. Ở đây có lẽ tác giả muốn nhấn mạnh. Nếu đưa nó xuống, như trong lối sau, thì nghĩa nó nhẹ bớt đi; muốn cho mạnh, phải thêm tiếng sao vào. Nhưng nghĩa vẫn khác một chút. Trong câu trên, ý đó tuy mạnh, nhưng vẫn chỉ là một ý phụ. Trong câu dưới, ý đó thành ra quan trọng ngang hàng với ý: “Nghe vài bài như bài “Nhớ người thương binh” cả bài “Sông Lô” của Phạm Duy, ta thấy những bước vấp đầu tiên ấy”.

Lối phô diễn mới mẻ đó đã có lợi mà không ngược với tính cách của Việt ngữ thì tất nhiên nên bắt chước lắm.

3

Nhưng còn biết bao lối hành văn lai Tây, đọc lên đã chướng tai lại chẳng giúp cho ta được chút gì về phương diện phô diễn tư tưởng thì ta phải kiếm cách trừ đi cho hết.

Việt ngữ đặt theo lối xuôi, xuôi hơn tiếng Pháp nhiều.

- Thứ tự trong câu là: chủ từ, động từ, bổ túc từ ngắn, rồi bổ túc từ dài. Không khi nào ta nói: “Tôi anh ấy đưa một cuốn sách” như người Pháp (Je lui passe un livre).

- Hành động nào xảy ra trước thì kể trước, nên ta viết: “Tôi đi săn bắn về” chứ không nói “Tôi về từ cuộc săn bắn” (Je rentre de la chasse).

Đi săn bắn và về là 3 hành động kế tiếp nhau, ta cứ việc kể ra theo thứ tự thời gian là đúng văn phạm.

- Kể hành động trước rồi kết quả sau: “Tôi tới trễ nên không kiếm được chỗ ngồi”.

Nếu nói: “Vì tới trễ, tôi không kiếm được chỗ ngồi” thì có vẻ Tây, do lẽ trong câu đó, những tiếng “vì tới trễ” là những tiếng bổ túc chỉ nguyên nhân, đáng lẽ phải để sau, lại được đặt lên trước.

4

Lúc viết bạn nên nhớ 3 quy tắc kể trên cho giọng văn bớt Tây. Bạn cũng nên cẩn thận mỗi khi dùng những tiếng:

- Bởi. Dùng tiếng ấy để chỉ nguyên nhân hoặc dịch tiếng par trong những câu chỉ thể thụ động thì chướng tai lắm.

Tổ quốc có quyền hãnh diện bởi đàn con yêu dấu đã tranh đấu không nản lòng.

Người mẹ chỉ có thể vui bởi những cái vui của các con.

Chợ Lớn sống một cách nhộn nhịp bởi sự hoạt động của dân Trung Hoa.

Bệnh ấy gây ra bởi sự thiếu ăn.

Được dìu dắt bởi những ông thầy giỏi.

Sân đó bao bọc bởi một hàng rào,

Sao không viết:

Tổ quốc có quyền hãnh diện vì đàn con yêu dấu đã tranh đấu không nản lòng.

Người mẹ chỉ vui khi các con vui.

(Hoặc: Con có vui, mẹ mới vui).

Chợ Lớn sống một cách nhộn nhịp nhờ sự hoạt động của dân Trung Hoa.

Bệnh đó gây ra do sự thiếu ăn.

Được những ông thầy giỏi dìu dắt

Một hàng rào bao bọc sân ấy.

Những cách hành văn sau đó diễn đúng ý như những cách trên, mà được hai cái lợi là có khi ngắn hơn và luôn luôn hợp với đặc tính của tiếng Việt. Tại sao nhiều nhà văn không chịu dùng nó mà cứ đi tìm “Thích Ca ngoài đường”, cứ đi “tắm ao người” làm chi vậy? Con cháu ta sau này đọc những tiếng bởi ấy tất sẽ khó chịu như bây giờ chúng ta đọc những tiếng chi, thửa trong những bài của Lê Quí Đôn.

Ông Bùi Đức Tịnh trong cuốn Văn phạm Việt Nam [3] cho câu này không xuôi tai:

“Từ khi cha tôi bị quân giặc bạo tàn chỉ gieo rắc sự kinh khủng trên mỗi bước đường của chúng, giết...” vì “không thể để ngữ tố bị đứng quá cách xa động từ giết như thế”.

Rồi ông tiếp:

“Trong trường hợp này, ta sẽ để bổ túc ngữ chủ động đứng sau động từ thụ thể và liên kết nó vào bằng giới từ bởi.

Chẳng hạn, ta sẽ nói:

“Từ khi cha tôi bị giết bởi quân giặc bạo tàn, chỉ gieo rắc sự kinh khủng trên mỗi bước đường của chúng...’’

Như vậy đúng văn phạm lắm, nhưng đúng văn phạm Pháp. Người Việt muốn diễn ý đó, sẽ nói:

“Quân giặc bạo tàn đó đi đâu cũng chỉ gieo rắc sự kinh khủng. Từ khi cha tôi bị chúng giết...”

vì những tiếng “quân giặc bạo tàn” làm chủ từ, phải đứng trước “giết”, không thể đặt thêm tiếng “bởi” vào rồi cho nó đứng sau được. Có khi nào bạn nói:

“Con mèo này bị đánh bởi em tôi”

không? Hay là nói: “Con mèo này bị em tôi đánh”

- Bị nghĩa là mắc phải, chỉ dùng để nói về người hay sinh vật; không thể mượn nó để dịch động từ être trong mọi trường hợp chỉ thể thụ động được. Viết:

Em tôi bị phạt.

Con chuột ấy bị mèo vồ.

Cây sao đó đã bị đốn rồi.

thì được.

Nhưng nếu viết:

“Báo Al Ahram loan báo Hoàng hậu Narriman sẽ li dị, song tin ấy bị chính mình Hoàng hậu đính chánh”.

thì có vẻ Tây. Phải sửa lại là:

... song chính Hoàng hậu đã đính chánh tin ấy.

Tiếng xuyên qua đã bắt đầu được nhiều nhà văn dùng để dịch tiếng à travers của Pháp, nhưng nghe không xuôi tai chút nào cả.

“Làm thế nào tìm qui tắc của ngôn ngữ này xuyên qua ngôn ngữ khác được”.

(Bùi Đức Tịnh)

Câu ấy đọc cho một người Việt không biết tiếng Pháp thì chắc chắn người ấy sẽ ngơ ngẩn chẳng hiểu gì cả. Tìm cái này xuyên qua cái khác là làm sao? Có phải ông Bùi muốn nói: “sự nghiên cứu một ngôn ngữ không giúp ta tìm được qui tắc của một ngôn ngữ khác” chăng? Nếu vậy thì sai. Hay là muốn nói: “không thể đem những qui tắc của một ngôn ngữ này áp dụng vào một ngôn ngữ khác được?”

“Nơi đây tôi... chỉ đề cập đến gia đình lao động. Chẳng những vì đó là số đông mà lại vì xuyên qua các báo và sự nhận xét riêng của chúng tôi, hạng gia đình lao động đang chịu thiệt thời nhất trong khi giá sinh hoạt lên cao”.

Có khó gì đâu? Chỉ cần thay tiếng theo vào tiếng xuyên qua là lời lẽ hết ngớ ngẩn liền.

Tiếng đó dùng để thay những gia đình nghe cũng chướng nữa. Vậy nên sửa cả câu là: “ Nơi đây tôi... chỉ đề cập đến gia đình lao động, chẳng những vì anh em cần lao chiếm số đông mà còn vì theo các báo và sự nhận xét riêng của chúng tôi thì họ đang chịu nhiều thiệt thời nhất trong khi giá sanh hoạt lên cao”

- Với. Ở trên báo chí ta thấy nhan nhản những câu như:

Với cái kỹ thuật ấy, họ dám mua một đám cải, đám cà gần bạc muôn, trong khi họ chỉ có một đôi ngàn là đủ rồi.

Nên đổi là:

Nhờ kỹ thuật ấy (hoặc áp dụng kỹ thuật ấy), chỉ có một đôi ngàn, họ cũng dám mua một đám cải, đám cà gần bạc muôn.

Với Nhị Độ Mai, chúng tôi nghĩ khác hơn ba nhà văn trên kia.

Ủa! Truyện Nhị Độ Mai mà cũng biết nghĩ ư? Sao không viết: Về truyện Nhị Độ Mai, chúng tôi nghĩ khác ba nhà văn trên kia.

Với cô Tú cuộc đôi đã hết cả xán lạn rồi (Nguyễn Tuân). Phải thêm tiếng đối trước tiếng với thì nghe mới xuôi. Nhưng sao không viết một cách giản dị và rõ nghĩa hơn:

Cuộc đời cô Tú đã hết cả xán lạn rồi.

hoặc: Cô Tú đã cho cuộc đời của mình hết cả xán lạn rồi.

Tôi đi đến đó với cái hi vọng rằng cuộc xung đột sẽ có thể dàn xếp được.

(Bùi Đức Tịnh)

Câu này nghe không chướng tai lắm, nhưng vẫn hơi Tây. Cứ kể bỏ phăng hai tiếng với cái mà thêm dấu phết vào sau tiếng đó, nghĩa cũng chẳng đổi.

- Mà. Trong cuốn Văn phạm Việt Nam, Bùi Đức Tịnh viết:

“Có lẽ thuộc đại từ mà mới thông dụng từ khi Việt ngữ bắt đầu chịu ảnh hưởng của Pháp ngữ. Ta thường dùng tiếng mà để dịch một số pronoms relatifs của Pháp.

Thế nên việc sử dụng tiếng mà hãy còn dè dặt lắm.

Những câu như: “điều mà chúng tôi mong mỏi...” đã quen tai người Việt rồi.

Thưa, chưa quen tai với người Việt Nam, chỉ mới quen với một số người Việt Nam thôi. Có trên 8-9 triệu dân quê ở Bắc Việt, trên 5-6 triệu ở Trung Việt và 4-5 triệu ở Nam Việt không khi nào dùng tiếng mà trong trường hợp ấy.

Riêng tôi, tôi chẳng thấy tiếng mà trong hai câu:

Nơi mà anh sinh trường...

Nhà mà anh ở

là khó nghe, mà cả đến tiếng mà trong câu:

“Việc anh vừa nói đó là việc mà chúng tôi đã tiên đoán” của ông Bùi cũng là rườm, là Tây nữa. Trước kia tôi cũng hay dùng tiếng ấy để dịch tiếng que của Pháp, nhưng tôi đã lầm.

Trong câu:

Un petit ruisseau, que verdit le cresson,

Frôle l’herbe, en glissant, d’un rapide frisson

(H. de Régnier)

tiếng que có 3 công dụng: nó thay cho tiếng ruisseau: nó làm bổ túc từ cho tiếng verdit; nó nối tiếng ruisseau trong mệnh đề chính (un petit ruisseau frôle l’herbe, en glissant, d’un rapide frisson) với mệnh đề phụ (verdit le cresson).

Tiếng mà của ta không bao giờ có đủ 3 công dụng ấy. Nó chẳng thay cho một tiếng nào hết, cũng chẳng làm bổ túc từ; nó chỉ để nối (Kính người trên mà thương kẻ dưới), hoặc để đưa đẩy (Đã bảo thế mà), để giúp câu văn thêm, mạnh (Người mà đến thế thì thôi).

Vậy dùng mà để dịch que là sai, lại vô ích. Ta nói: “Cuốn sách tôi đã mua” chứ không nói “Cuốn sách mà tôi đã mua”. Và khi ta viết: “Việc mà tôi làm đây là việc hệ trọng” thì tiếng mà giúp ta nhấn mạnh vào tiếng việc, chứ chẳng hề thay tiếng đứng trên như nhiều người tưởng: Văn phạm Việt Nam không cần có một pronom relatif ở đó.

- Của. Của có nghĩa là thuộc về; không thể dùng nó để dịch tiếng de của Pháp trong mọi trường hợp.

“Có nhiều giáo sư đã tự ý không hưởng thêm món tiền trên dưới 100đ ấy vì gặp phải sự phiền phức của giấy tờ”.

“Xin ngài quá bộ tới để làm tăng vẻ long trọng của cuộc lễ bằng sự có mặt của ngài”.

“Mỗi một người của chúng ta đều có ít nhiều khái niệm, như thế”.

Rõ ràng là giọng của một người Pháp nghĩ theo Pháp rồi dịch ra Việt. Ở trường, các giáo sư thường phê vào bài của học sinh 3 tiếng này: “Pensez en français”. Trong biết bao bài báo hoặc trang sách, ta cũng có thể phê: “Nghĩ bằng tiếng Việt đi”.

Và nếu “Nghĩ bằng tiếng Việt” thì 2 câu trên ta phải sửa như thế này:

“Nhiều giáo sư đã tự ý không hưởng thêm món tiền trên dưới 100đ ấy vì giấy tờ phiền phức quá”, hoặc: “ Có nhiều giáo sư thấy giấy tờ phiền phức quá, đã bỏ món tiền trên dưới 100đ ấy”: 25 tiếng rút đi còn 18, tức non một phần ba, mà lại xuôi tai hơn.

“Xin ngài quá bộ tới cho cuộc lễ thêm phần long trọng”: 20 tiếng còn lại có 12.

“Ai cũng có ít nhiều khái niệm như thế”.

- Nếu. Tiếng nếu của ta không chỉ một sự tương phản giữa 2 ý như trong câu:

“Si l’un dit oui, l’autre dit non”.

hoặc một lời thỉnh cầu, như;

“Si nom allions nous promener?”

cho nên ta không thể nói: “Nếu Lê Lợi là một vị anh hùng cứu quốc thì Nguyễn Du là một thi hào đại tài, cả hai đều làm vẻ vang cho nòi giống ta”.

và:

“Nếu anh ngồi đây đợi tôi một chút?”

Trong 2 câu ấy nên bỏ phăng tiếng nếu đi và muốn cho lời lẽ câu sau được nhã nhặn thì thay tiếng xin vào:

“Xin anh ngồi đây đợi tôi một chút”.

“Khắp cả là chiến đấu, khắp cả là kéo lên, tiến lên, xông pha vào một lý tưởng”.

Đó là lời một người Pháp mới bập bẹ tiếng Việt? Không đâu. Đó chính là lời một tiểu thuyết gia Việt Nam!

Còn câu này nữa:

“Là thanh niên ở thời đại này, chúng ta phải tập nhìn xa hiểu rộng”.

Sao không đưa 2 tiếng chúng ta lên đầu câu, có phải xuôi tai hơn không?

Ô. Trần Thanh Mại viết trong cuốn Hàn Mặc Từ.

“Sự ấy tôi đã chắc chắn ở bà mẹ Marie de Saint Venant”.

Ông muốn nói: ‘Tôi biết chắc chắn điều ấy nhờ hỏi bà mẹ Marie de SaintVenant”.

Lê Văn Trương viết:

“Ở đây là tấm lòng yêu đương, hi sinh nó làm cho nhẹ nỗi đoạn trường”... (ở đây nghĩa là ở trong gia đình này).

Tôi tưởng nên đổi là:

“Trong gia đình này, tình yêu đương và lòng hi sinh đã làm nhẹ nỗi đoạn trường”.

Không biết bạn có chau mày mỗi khi phải đọc câu:

“Hãy nhận ở đây lời cảm tạ của chúng tôi”

trong nhiều bức thư không, chứ tôi thì bực mình lắm. Có lẽ nào muốn tỏ lòng cảm ơn một người khác, mà dân tộc mình lại không có cách phô diễn, phải mượn lối hành văn của người nữa ư? Như vậy mà cũng khoe là có một nền văn hiến rực rỡ cả mấy ngàn năm rồi ư? Sao không nói như những chị bếp, những anh tá điền: “Chúng tôi xin cảm ơn ông”? Hay là người ta cho có viết như vậy mới lễ phép, phải có tiếng hãy mới lịch sự!

Chúng ta, nhiều người cũng chịu ảnh hưởng của tiếng Pháp, không nhiều thì ít và không ai dám tự hào rằng chưa khi nào mắc những lỗi như trên.

Nhưng chúng ta tưởng hết thảy các nhà cầm bút phải ráng sức giữ cho tiếng Việt đừng lai căng. Nhiều khi chỉ cần đọc lại lớn tiếng bài văn ta cũng thấy ngay chỗ ngây ngô như trong đoạn sau này:

“Ở đây lại phảng phất một mối yêu đương chung gì (?), yêu đương huy hoàng mà hàng ngày tôi cảm ơn Thiêng Liêng tuyệt đối vẫn cho tôi hưởng trong cuộc sống. Nên tôi phải cảm ơn anh. Anh gợi lên cho tôi phong phú và rõ rệt. Anh đã nói thực vì đã nghe mãnh liệt. Bằng tin tưởng sung sướng tôi bay theo tuy, cũng như nhạc sĩ, anh dùng rất nhiều cung bực, tuy người bay trước tôi thật kỳ dị và thông thái.

Nhưng dù thông thái thế nào, anh cũng đã có sống nên tôi mới không thể nào cưỡng nổi mà không tin ở anh. Sung sướng tôi thấy cả tôi”

Nguyễn Đỗ Cung (Thanh Nghị 1944).

Người ta nói văn chương bây giờ phải đại chúng hóa. Viết lối văn như vậy mà mong quần chúng hiểu và thích thì không khác chi mò trăng đáy giếng. Muốn cho quần chúng đọc thì văn của bạn phải thuần túy Việt Nam vì quần chúng tức nông dân và thợ thuyền không được may mắn như ta mà biết văn phạm của Tây, của Tàu. Đoạn văn trên kia của Nguyễn Đỗ Cung chỉ để cho bọn hiếu kỳ ngâm nga, cũng như những bức họa lập thể (cubisme) của ông chỉ để cho một hạng trưởng giả dư tiền sắm về khoe khoang với bạn bè. Không biết cách đã 8 năm tư tưởng của ông bây giờ đã thay đổi chưa.

5

Chắc các bạn cũng như tôi, đã lâu không được nghe những thôn nữ hát lý giao duyên hoặc hò điệu cò lả. Thôi thì chúng ta hãy ngâm nga lấy cho đỡ buồn vậy. Ta nhớ đâu ca đó, không lựa chọn gì hết. Giọng “ngỗng đực” cũng không hại. Mình hát mình nghe mà. Nào xin bạn cùng tôi cất tiếng:

Ai đi đường ấy, hỡi ai!

Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm?

- Tìm em như thể tìm chim,

Chim ăn bể Bắc, đi tìm bể Đông.

Còn đêm nay nữa mai đi,

Lọng vàng không tiếc, tiếc khi ngồi kề.

Còn đêm nay nữa mai về,

Lọng vàng không tiếc, tiếc kề môi son.

Hỡi cô tát nước bên đàng,

Cớ sao múc ánh trăng vàng đổ đi?

Nhớ ai em những khóc thầm,

Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa.

Nhớ ai ra ngẩn, vào ngơ,

Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?

Nhớ ai bôi hổi, bồi hồi,

Như đứng đống lửa, như ngồi đống than,

Lộ đồ đao viễn xa khơi,

Thuyền tình chở một mình tôi, nặng gì?

Trách cha trách mẹ nhà chàng,

Cầm cân chẳng biết rằng vàng hay thau.

Thực vàng chẳng phải thau đâu.

Đừng đem thử lửa cho đau lòng vàng.

Trèo lên cây bưởi hái hoa,

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân

Nụ tầm xuân nở ra cánh biếc

Em đã có chồng, anh tiếc em thay!

Ba đồng một mớ giầu cay,

Sao anh không hỏi từ ngày còn không?

Bây giờ em đã có chồng,

Như chim vào lồng, như cá cắn câu.

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,

Chim vào lồng biết thuở nào ra?

Bạn muốn ngừng? Hãy khoan. Xin ngâm nốt câu này đã:

Ta về ta tắm ao ta,

Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.

Mỗi ngày tôi phải đọc hàng chục trang văn ngoại quốc hoặc lai ngoại quốc, nên mỗi khi có dịp tắm trong nguồn văn thơ thuần túy Việt Nam ấy, tôi thấy tâm hồn mát mẻ vô cùng, tưởng như được nghe tiếng gió xào xạc trong bụi tre, hoặc tiếng sáo vi vu trên đồng lúa ở giữa nơi đô thị đầy xe cộ ầm ầm và tiếng truyền thanh eo éo này vậy.

Thỉnh thoảng ta cũng nên về tắm ao ta như thế. Mà ao mình thì ai dám bảo là không đẹp, không trong? Chỉ trong ít vần đó bạn đã thấy gần đủ những đức tính của văn: sáng sủa, tinh xác, gọn gàng, đặc sắc, nhiều hình ảnh, thành thật, êm đềm, tự nhiên, mạnh mẽ... Mà những thi sĩ vô danh, tác giả những ca dao ấy, có cần gì mượn cách phô diễn của nước ngoài đâu?

Nguyễn Du đâu có bắt chước người Trung Quốc chút nào khi viết những câu:

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắt ngang.

Sè sè nắm đất bên đường,

Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

Dưới dòng nước chảy trong veo,

Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

Phận bèo bao quản nước sa,

Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.

Chữ trinh còn một chút này,

Chẳng cầm cho vững, lại giày cho tan.

………

Những câu thơ hoàn toàn Việt Nam ấy chính là những câu hay nhất của tiên sinh và được quần chúng thuộc lòng nhiều nhất.

Vậy văn chương Việt Nam ở thời này phải khúc chiết như văn chương Âu Tây, nhưng trước hết phải thuần túy Việt Nam đã.

TÓM TẮT

Một sinh ngữ thì luôn luôn phải thay đổi, nếu không sẽ hóa ra một tử ngữ mất, nên ta cần phải vay mượn những cách thức phô diễn tư tưởng của nước ngoài; nhưng vẫn phải giữ cho Việt ngữ đừng có tính cách lai căng, nghĩa là phải nhớ ngữ pháp xuôi của ta và thận trọng mỗi khi dùng những tiếng: bởi, bị, xuyên qua, với, mà, của, nếu, là...

Có vậy văn của ta mới khỏi làm chướng tai quần chúng.

Chú thích:

[1] Loại sách Học làm người nhà xuất bản P. Văn Tươi.

[2] Nhà xuất bản Minh Tân (Paris), 1952.

[3] Loại sách “Học và Hiểu” nhà xuất bản P. Văn Tươi.