← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XV DÙNG HƯ TỪ

1.- Thế nào là thực từ, hư từ, bán thực từ, bán hư từ?

2.- Dùng nhiều thực từ thì văn gọn và mạnh, nhưng lời có thể khô khan và nếu dư một thực từ thì văn hóa non nớt.

3.- Nhờ dùng những bán hư từ mà câu văn được nhẹ nhàng, nhất khí.

4.- Động từ của ta không có giới từ nhất định.

5.- Trợ từ giúp cho lời thêm sinh khí.

1

Hồi xưa, ta không có môn văn phạm, không chia tự loại như bây giờ, nhưng muốn dạy học trò phép đối, tức phép đầu tiên trong nghệ thuật làm văn theo quan niệm cũ, các cụ cũng phân biệt những tiếng nặng và nhẹ. Nặng là thực từ, nhẹ là hư từ. Thực từ phải đối với thực từ, hư từ đối với hư từ, như trong 2 câu:

Nền nếp vẫn còn nền nếp cũ,

Lễ văn sao khác lễ văn xưa?

(Phạm Thấu - Qua cửa Ngũ môn)

thì nền nếp là thực, đối với lễ văn cũng là thực; vẫn và sao là hư, đối với nhau.

Trong loại thực, các cụ còn phân biệt những tiếng bán thực, hư cũng có những tiếng bán hư. Bán thực là thực nhiều mà hư ít, bán hư là hư nhiều mà thực ít.

Quan niệm về thực từ và hư từ mơ hồ lắm. Mỗi sách nói một khác.

Việt Nam Tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức và tự điển của Thanh Nghị cho hư từ là những tiếng không có nghĩa thực như chi, hồ, giả, dã, hề... trong chữ Nho.

Đào Duy Anh (Hán Việt từ điển) và Trần Trọng Kim (Việt Nam văn phạm) bảo trừ danh từ và đại danh từ, còn bao nhiêu là hư từ cả.

Các bộ Từ Hải (Trung Hoa thư cục ấn hành) và Từ Nguyên (Thương vụ ấn thư quán phát hành) định nghĩa như nhau và rõ ràng hơn. Từ Hải viết:

“Có 2 thuyết: thuyết xưa, cho danh tự là thực tự, ngoài ra đều là hư tự...; thuyết nữa của Mã Kiến Trung trong cuốn Văn thông, cho rằng chữ nào diễn một sự lý có thể giảng giải được là thực tự, chữ nào không diễn một sự lý có thể giảng giải được mà chỉ để giúp cái tình thái của thực tự thì gọi là hư tự. Thực tự có 5 loại: danh tự, đại tự, động tự, tĩnh tự, trạng tự; hư tự có 4 loại: giới tự, liên tự, trợ tự, thán tự”.

Ta nhận thấy thuyết của 2 họ Đào và Trần ở trên kia giống thuyết thứ nhất trong Từ Hải. Còn bán thực từ và bán hư từ thì chưa có tự điển nào định nghĩa. Tôi mới thấy Trần Trọng Kim nói qua tới trong bài tựa cuốn Việt Nam văn phạm:

“Ví như những tiếng mà bây giờ gọi là danh từ thì chữ Nho gọi là thực từ; những tiếng ta gọi là trạng từ, giới từ, liên từ thì gọi là hư từ; những tiếng ta gọi là tĩnh từ, động từ thì gọi là bán hư từ [1], những tiếng ta gọi là tiếng đệm hay là tiếng trợ ngữ từ thì gọi là bán hư từ”.

Quan niệm đó có phần sai: danh từ và động từ là những tiếng cốt yếu để diễn một sự lý, đều đáng là thực từ; còn trạng từ và tính từ công dụng hơi giống nhau, nên cho đứng chung trong một loại.

Châm chước những thuyết trên, tôi phân biệt như vầy:

(1) Tĩnh từ có khi là thực, như trong câu: Hoa này đẹp; có khi là bán hư từ, như trong câu: Nhà này có vẻ đẹp. Vì vậy tôi cho nó đứng chung vào 2 loại thực và bán thực.

(2) Những tên tự loại đó, tôi theo Trần Trọng Kim, tức những tên được nhiều người biết. Bùi Đức Tịnh gọi tĩnh từ là trạng từ, trạng từ là phó từ, thán từ là hiệu từ.

Trong chương này, đứng về phương diện làm văn, tôi xét chung những hư từ là xét hết thảy những tiếng có một phần hư ít hoặc nhiều, tức những loại bán thực, bán hư và hư ở trên kia.

Vì Việt ngữ không có phần biến di tự dạng, nên một động từ có thể biến thành trạng từ, giới từ, liên từ...; do đó một thực từ có thể biến làm hư từ được. Vậy hư hay thực, phải theo nghĩa trong câu văn mà định.

Cuốn này không phải là một cuốn văn phạm. Sở dĩ tôi phân biệt dài dòng như trên là để bạn rõ quan niệm về hư từ, một quan niệm tối quan trọng phép hành văn hồi xưa mà chưa được sách nào bàn tới kỹ. Có hiểu quan niệm ấy rồi mới hiểu được văn thơ của cổ nhân.

2

Dùng nhiều thực từ thì văn gọn và nhanh. Ví dụ 2 câu sau này của Bà huyện Thanh Quan:

Gác mái, ngư ông về viễn phố,

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn,

Có tới 12 tiếng thực và hai tiếng bán thực (là viễn và cô), nên rất gọn, lời như keo lại, không loãng như văn xuôi bây giờ.

Còn hai câu:

Bắt khoan, bắt nhặt, đến lời,

Bắt quì tận mặt, bắt mời tận tay.

của Nguyễn Du cũng nhờ ít hư từ mà có giọng gay gắt.

Tuy nhiên, dùng nhiều thực từ quá thì văn sẽ khô khan, như trong văn các tờ biên bản và nếu dư một vài thực từ thì văn sẽ non nớt. Hư Chu nhận thấy điều ấy, viết[2]:

Trong bài Lạc đường của Từ Diễn Đồng, có một câu thứ sáu:

“Tiếng dế vo ve giọng thiết tha”.

Câu này, như tôi nghĩ, thừa hai chữ: “tiếng” và chữ “giọng”. Nếu nó chỉ là một câu thơ ngũ ngôn thì năm chữ “vo ve dế thiết tha” nghe có phải cứng cát hơn không? Đã có hai chữ “vo ve”, hà tất còn dùng hai chữ “giọng, tiếng” cho thêm rườm. Mà lời rườm, ấy tức là thơ non vậy”.

Rồi ông khuyên dùng hư từ để tránh nhũng tiếng thực vô ích “bồ nhìn” ấy. Lời đó rất đúng, nhưng chỉ những cây bút có kinh nghiệm mới nên theo; bạn mới tập viết, trái lại, nên cẩn thận khi hạ hư từ vì thực từ dễ dùng mà hư từ rất khó và thừa một thực từ có khi lỗi nhẹ hơn dư một hư từ.

Như trong câu:

Tiếng dế vo ve giọng thiết tha.

nếu bạn muốn bỏ hai tiếng thực: giọng và tiếng, mà thay vào những tiếng bán thực và như rất, ôi:

Ôi! dế vo ve rất thiết tha!

thì lời chẳng đã già thêm mà còn khó nghe hơn nữa.

3

Nhờ những bán hư từ (giới từ và liên từ) câu văn được nhẹ nhàng, nhất khí.

Đây là bài Mùa thu câu cá của Yên Đổ:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gọn tí,

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

Từng mây lơ lửng, trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo,

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Bài thơ này vì ít tiếng hư, nên hơi văn đi không thật suốt. Trừ hai câu kết, sáu câu trên có thể tách riêng từng câu một. Mà bởi vậy, bởi mỗi câu cũng đủ hết ý, ta xem nó như thiếu liên lạc với cái giọng ngâm nhát gừng bảy tiếng mỗi câu. Một bài thơ mà lấy ra được từng câu một thì - dầu có hay - sao đáng gọi là tuyệt bút?

Phải như hai câu đầu trong bài Lý Chiêu Hoàng của Tản Đà:

Quả núi Tiêu Sơn có nhớ công,

Mà em bán nước để mua chồng?

Chữ “có”, chữ “để” và nhất là chữ “mà”, ba tiếng hư ấy, nó mới đẹp làm sao! Câu trên mà không có câu dưới hoặc câu dưới mà thiếu câu trên thì không đứng được. Hai câu phải đi liền, phải ăn khớp với nhau. Đâu có như:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Rồi uống hết một tuần trà mới lại:

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương thì:

Thì say điên đảo năm hòn núi,

Mà thả phiêu diêu một mảnh vần.

Hai chữ “thì, mà” nghe thích chứ!”

Lời bàn của Hư Chu trong đoạn ấy[3] thực chí lý và có duyên. Hai câu này trong bài Con Quốc của Nguyễn Khuyến do ông trích nữa:

Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.

cũng diễn được một tình nhẹ nhàng, thấm thìa nhờ những hư từ: “Có phải, mà, hay là, vẫn”.

Song phải có tài mới khéo dùng được những liên từ. Biết bao nhà văn cẩu thả để sót trong bài những tiếng thì, mà “bồ nhìn”, đã chẳng giúp lời được thêm trôi chảy mà chỉ làm cho nó thêm vướng víu, lúng túng. Rồi có những kẻ, đoạn dưới không tóm tắt đoạn trên, cũng không diễn một cái quả của cái nhân đã phô bày trong đoạn trên mà cũng chêm ngang vào giữa những tiếng vậy, cho nên một cách rất ngớ ngẩn làm hỏng cả một bài văn.

4

Việt ngữ không có phần biến di tự dạng, nên những tiếng vốn là thực từ như danh từ, động từ, cũng có thể dùng làm hư từ được.

Ví dụ: cho là động từ, tức thực từ, nhưng trong câu:

Muốn kêu một tiếng cho to lắm

(Ôn Như Hầu)

thì cho lại là hư từ

Nhờ vậy Việt ngữ uyển chuyển hơn tiếng Pháp và sự phô diễn tư tưởng của ta cũng rất tế nhị.

Tôi mang lại anh X cuốn sách ấy

Tôi mang cho anh X cuốn sách ấy

Tôi mang biếu anh X cuốn sách ấy

Tôi mang dâng ông X cuốn sách ấy

Bốn câu trên nghĩa như nhau, nhưng có những tiểu dị trong lối diễn, lời lễ phép, nhã nhặn khác nhau, nhờ những tiếng giới từ đặt sau động từ mang. Động từ trong tiếng Pháp thường có những giới từ nhất định như donner à quelqu’un, apporter à quelqu’un, se moquer de quelqu’un..., nên khi muốn thay đổi lối phô diễn, họ phải thay đổi động từ hoặc phép hành văn.

Một đắc sắc của Việt ngữ là động từ thường không có giới từ nhất định, nên sự khéo lựa giới từ là điều rất quan trọng có khi định giá được một cây bút.

5

Một đặc sắc rõ rệt hơn nữa là tiếng Việt có nhiều trợ từ như: ư, nhỉ, tá, nhé, nao, ạ, ru, vay, vậy... mà tiếng Pháp thiếu hẳn. Muốn diễn những tình và ý chứa trong những tiếng ấy, họ chỉ có cách đổi giọng và bỏ những dấu?! ở cuối câu.

Trợ từ thêm sinh khí, linh hồn cho câu văn. Y bạn thêm man mác, giọng bạn thêm hùng hồn là nhờ nó[4].

Ngâm những câu thơ dưới đây mà bỏ những trợ từ in đứng đi, thì cái thâm trầm hẳn mất đi một phần lớn:

Lượng xuân dù quyết hẹp hòi,

Càng đeo đuổi chẳng thiệt thời lắm ru!

(Nguyễn Du)

Bụi nào cho đục được mình ấy vay.

(Nguyễn Du)

Trời tối quê nhà đâu đó tá?

(Dịch thơ Đường)

Ô hay! cảnh cũ ưa người nhỉ!

Ai thấy mà ai chẳng ngẩn ngơ

(Bà Thanh Quan)

Mặc xa mã, thị thành không dám biết,

Thú yên hà, trời đất để riêng ta,

Nào ai, ai biết chăng là!

(Nguyễn Công Trứ)

Quân đưa chàng ruổi lên đường,

Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?

(Đoàn Thị Điểm)

Rằng: Sao trong tiết thanh minh

Mà đây hương khói vắng tanh thế mà!

(Nguyên Du)

Đời trước làm quan cũng thế a?

(Nguyễn Du)

Trả nợ cho dân là sự thế

Thương tình đến bạn cũng buồn như

(Tản Đà - Ruột con tằm)

Ta có thể chỉ rõ những trợ từ ấy gợi tình cảm gì và cách dùng ra sao không? Không. Nó rất tế nhị, càng phân tích, càng mất cái hay. Bạn phải có cái “tai thơ”, như Hư Chu đã nói, mới hiểu cái thần tình của trợ từ.

Khi tái hợp, chàng Kim xin Kiều nhớ lại ước cũ; Kiểu từ chối:

Đã hay chàng nặng vì tình,

Trông hoa đèn, chẳng thẹn mình lắm ru!

Việt Nam tự điền bảo tiếng “ru” đó chỉ ý nghi ngờ, thì cũng phải, nhưng vẫn chưa thiệt đúng: theo tôi, ý nghi ngờ trong tiếng ấy thì ít mà ý chắc chắn thì nhiều, lại có ý hỏi, có ý xót xa nữa... Làm sao mà phân tích cho hết được những tình cảm trong tiếng ru đó?

Tôi nhớ 15 năm trước, đọc bài Túy ông đình kí, cứ cuối mỗi câu, gặp một tiếng dã [5], tôi vui như muốn cùng tác giả là Âu Dương Tu (cũng là Túy Ông - ông lão say - ở trong bài) mà múa tay ca hát. Lúc ấy giá có bút son ở bên cạnh, chắc tôi khuyên kín những tiếng dã ấy. Trong các sách dạy về văn thơ, có cuốn nào chỉ tiếng dã dùng để tả một nỗi vui đâu, nhưng dưới ngọn bút của Âu Dương Tu, tiếng ấy có một giá trị mới, gần như một nghĩa mới: nó là tiếng cười của Túy Ông.

Tôi không trích dịch bài đó ra đây, vì tôi e những bạn không quen với cổ văn của Trung Quốc đã chẳng thấy tài tình, mà có lẽ còn cho là chán ngán.

Các văn phạm gia bảo trợ từ chỉ đứng ở cuối câu. Ý đó e thiên lệch chăng? Tại sao những tiếng in đứng[6] trong những câu thơ dưới này lại không phải là trợ từ:

Thoạt trông nàng đã chào thưa:

Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!

(Nguyễn Du)

Nàng rằng: Phận thiếp đã đành,

Có làm chi nữa cái mình bỏ đi?

(Nguyễn Du)

Muốn kêu một tiếng cho to lắm

(Ôn Như Hầu)

Chôn chặt văn chương ba thước đất

Tung hô hồ thỉ bốn phương trời

(Hồ Xuân Hương)

Chàng thì đi cõi xa mưa gió,

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.

(Đoàn Thị Điểm)

Những tiếng ấy điều là để đưa đẩy và thêm tình cảm cho câu văn thì là trợ từ chứ còn là gì nữa? Nếu bảo tiếng thì trong 2 câu trên của họ Đoàn là liên từ thì bạn phân tích mệnh đề 2 câu đó ra sao?

Vậy nhờ trợ từ, văn bạn sẽ già gín, nhưng những tiếng ấy cũng rất khó dùng. (Tôi nhớ một nhà nho nói: Hễ biết dùng tiếng chi, hồ, giả, dã, tức những trợ từ của Hoa ngữ thì đáng đậu tú tài rồi). Nếu bạn vụng dùng, cuối câu nào cũng thêm tiếng vậy chẳng hạn mà không hợp chỗ, thì độc giả sẽ bực mình lắm. Một học sinh của tôi viết thư cho tôi, có đoạn dưới đây:

“Lúc này khí hậu (ở Pháp) lạnh lắm vậy. Tuyết đã bắt đầu rơi vậy. Cây cối trụi hết lá, cảnh buồn lắm vậy thay! Đi trên tuyết, trơn lắm, không khéo thì té vậy. Vì lạnh, anh em chúng tôi uống được nhiều rượu, cũng để cho khuây nổi nhớ nhà vậy. Ngày nghỉ chúng tôi nằm ở trong trường, không muốn đi chơi đâu vậy...”.

Trò ấy đã được đọc vài bài dịch cổ văn. Vẽ cọp không thành cọp là nghĩa vậy.

TÓM TẮT

1.- Thực từ là những tiếng danh từ, động từ, tĩnh từ. Hư từ chia làm ba loại:

- Những tiếng thực nhiều, hư ít là tĩnh từ (tùy chỗ), trạng từ.

- Những tiếng hư nhiều, thực ít là thán từ, trợ từ.

- Những tiếng hư là giới từ, liên từ.

2.- Muốn cho văn gọn và mạnh, nên dùng nhiều thực từ; muốn cho văn bóng bẩy, nhất trí, có hồn thì phải dùng nhiều hư từ. Nhưng hư từ rất khó dùng; bạn thiếu kinh nghiệm thì lới dễ lúng túng, ngây ngô lắm.

Chú thích:

[1] Chắc nhà Tân Việt, trong bản in lần thứ ba, đã in lầm: phải là bán Thực từ thì mới có nghĩa.

[2] Bài: Muốn cho lời thơ già gín, phải dùng hư từ.

[3] Bài: “Muốn cho lời thơ già gín, phải dùng hư từ” đăng trong Việt Thanh ngày 23-2-53.

[4] Hồi xưa, nó còn giúp người đọc chấm câu. Ai đã học Hán tự chắc nhận thấy rằng những tiếng dã, yên, hỉ, hồ… cũng cũng có công dụng như những dấu chấm câu.

[5] Nghĩa là vậy.

[6] Trong các câu thơ được dẫn ở trên và ở dưới, trong sách đều in nghiêng. (Goldfish)