← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III TỰ SỬA VĂN

1.- Tự tìm lỗi trong văn của mình.

2.- Nhờ người khác phê bình.

3.- Các văn hào, thi hào Pháp tự sửa văn ra sao?

Buffon

La Fontaine

Vitor Hugo

Chateaubriand

Flaubert

4.- Voltaire chấm bài thơ cho học trò là Helvétius.

Tôi không nhớ nhà văn nào đã nói hễ tự sửa được văn tức thị là biết viết văn. Lời ấy chí lí. Mà muốn tự sửa văn, trước hết phải tự trông thấy lỗi của mình; điều đó rất khó vì tật chủ quan không chừa một ai cả. Tản Đà đã có lần nói với bạn: “Khi tôi làm xong một bài thơ nào, tôi phải quên tôi là tác giả đi, tự đứng vào phương diện một độc giả mà tự phê bình thơ của tôi”. Thái độ của ông rất đáng phục, ông muốn tránh tật chủ quan đấy. Nhưng mới viết xong mà đọc lại ngay thì cảm hứng còn tràn ngập trong lòng ta, dễ gì đẩy nó ra để sự sáng suốt khách quan len vô được? Nên ta phải đợi cho cảm hứng nguội đi, hơn nữa, đợi lúc đã quên đầu đề cùng cách phô diễn, rồi hãy đọc lại thì mới nhận thấy được nhiều lỗi. Song ít ai đợi được hàng tháng hàng năm như vậy: và dù sao ta cũng không thể nào đọc bản thảo của ta như một người khác đọc nó được.

Trước hết là những lỗi vô ý mà có khi đọc năm sáu lần ta cũng không thấy.

Chẳng hạn trong bản thảo cuốn Đại cương Văn học sử Trung Quốc III (Từ Ngũ đại đến Hiện đại) tôi viết:

“Văn học đời Thanh kết thúc các đời trước, từ phú thơ, biền văn, cổ văn đến tuồng, tiểu thuyết, loại nào cũng được tôn trọng và cũng có những tác phẩm xuất sắc”.

Tôi đã chép lại câu ấy hai lần, đọc lại hai lần mà không thấy một hồi nhỏ trong đó. Khi in, một anh bạn sửa giùm ấn cảo, chỉ câu ấy cho tôi và hỏi: “Anh có nhận thấy có cái gì không xuôi không?”. Tôi đọc lại chầm chậm, đáp: “À, có. Chữ từ để trước chữ phú, thơ như vậy, độc giả khi đọc chưa hết câu ngờ rằng từ đó là một thể thơ mất”. Và tôi sửa lại:

“Văn học đời Thanh kết thúc các đời trước, từ biền văn, cổ văn, đến thơ, phú, tuồng, tiểu thuyết, loại nào cũng được...

Một lần khác, sau khi đọc xong bản thảo cuốn Tự do cá nhân của ông Trần Thúc Linh, tôi thích thú quá, viết ngay ít lời giới thiệu với độc giả, có câu: “Ông Trần Thúc Linh đưa tôi cuốn này bảo: ‘Tôi đã thắc mắc về vấn đề cá nhân từ lâu...”. Hơn một năm sau, sách đem in, tôi sửa ấn cảo, vẫn để nguyên như vậy, in xong được ít lâu, đọc lại mới thấy nếu sủa lại là: “Ông Trần Thúc Linh đưa tôi bản thảo cuốn này…[1] thì có phần đúng hơn.

Đó là những lỗi nhỏ. Còn những lỗi tầy đình nữa mà đọc đi đọc lại cũng không nhận ra. Trong bản thảo tập Nghề viết văn, không hiểu tại sao tôi lại gán cuốn Lửa thiêng cho Huy Cận được (Chương IV, phần III, trang 168) sách in xong còn đương vô bìa, tôi tặng một anh bạn một cuốn; anh ấy thấy ngay lỗi, chỉ cho tôi, tôi vội vàng sửa bằng bút trên các bản in, trước khi cho phát hành. Mất trọn một ngày. Quả thật là cái óc bọn phàm nhân chúng ta còn khuyết điểm nhiều quá.

Ngoài ra, còn những lỗi về ý tưởng sai lầm nữa, làm sao ta thấy được nếu không được người vạch mắt ta ra? Rồi tới những tật riêng về các hành văn mà nếu không dẹp lòng tự ái, theo lời khuyên của bạn bè thì suốt đời cũng khó mà bỏ được. Chẳng hạn năm sáu năm trước, tôi hay dùng những hư tự ở cuối câu làm cho hơi văn lắm khi hóa đuối, nhờ một bạn thân mà nay bớt được đôi phần.

Ôi! Cái việc tự tìm lỗi trong văn của mình, khó sao là khó!

*

Ngay các đại văn hào Pháp cũng nhận vậy, nên hầu hết đều nhờ bạn thân phê bình cho.

Buffon cậy một người đọc bản thảo của ông, có đoạn nào lúng túng nghe không du dương thì ông đánh dấu để sau sửa lại.

Chateaubriand đáng làm gương sáng cho ta soi. Ông không viết trang nào mà không đưa bạn coi và phê bình. Ở chương trên tôi đã kể vì bị ông Fontaines chê mà ông phải thức trọn đêm viết lại một đoạn văn ra sao. Hai người nữa, ông Bertin và ông Joubert cũng đã sáng suốt chỉ lỗi cho ông.

Ông nghe lời chỉ trích chẳng những của bạn thân mà cả của độc giả. Khi bộ Génie du Christianisme mới xuất bản lần đầu, một kí giả chê cuốn đầu có mười bốn đoạn tầm thường, ông cảm ơn rồi sửa lại mười hai đoạn. Có lần ông tự thú:

“Có lẽ tôi nhận một cách quá dễ dàng lời khuyên của người khác; gần như bất kì ai cũng làm cho tôi thay đổi hoặc bỏ cả một đoạn văn vì tôi luôn luôn tin rằng người khác xét và thấy rõ hơn tôi”.

Thái độ đó quân tử biết bao! Ông thành thiên tài một phần là nhờ nó.

Tuy nhiên, chắc ông phải có chủ kiến khi sửa văn mình theo ý kiến người, nên văn ông mới bất hủ được. Bạn nhớ chăng, câu chuyện Hai cha con ông già xay bột và con lừa của La Fontaine? Ông già muốn đem lừa ra chợ bán, cột chân nó rồi khiêng như ta khiêng heo. Một người thấy vậy cười, ông tự nhận là khờ, cởi trói cho con vật, để con ông - một thanh niên mười lăm tuổi - cưỡi, còn ông lẽo đẻo theo sau. Có kẻ chê là con thì được sướng để cha già phải cực. Ông lại nghe theo, bắt con đi bộ để ông cưỗi lừa. Một bọn con gái trông thấy giễu ông là không thương con, ông lại đổi ý: hai cha con đều leo lên lưng lừa. Đi được ít chục bước, một bọn thứ ba ái ngại cho con vật già nua phải chở nặng, sợ chưa tới chợ đã chết mất. Thế là hai cha con lại tuột xuống đi bộ, nhưng vẫn chưa được yên, còn bị một kẻ nữa chê [2] là ngu như lừa vì có lừa mà không biết cưõi, để cực khổ tấm thân. Lần này thì ông già nổi giận, đáp “ừ thì lão ngu, nhưng từ nay, ai khen chê gì cũng mặc, lão cứ làm theo ý lão”.

Cái nghề phê bình văn cũng vậy: mỗi người một ý, người muốn tươi, kẻ muốn nghiêm, người chê dài, kẻ chê ngắn, người ưa tự nhiên, kẻ lại thích gò gẫm. Không biết bạn đã đọc lời những kí giả Pháp phê bình tiểu thuyết Soleil de Mars của Charles Braibant mà tôi đã trích ở cuối cuốn Nghề viết văn chưa? Nó tương phản nhau đến nực cười. Vậy thì làm sao mà theo ý của mọi người được? Mà dù có theo hết được thì tác phâm của ta còn gì là bản sắc? Nó sẽ như chiếc áo vá của Arlequin mất. Cho nên ta chỉ nên lựa một hai người hiểu văn, không có tinh thần cố chấp, mà nhờ đọc và giúp ý kiến, rồi ta xét lại những ý kiến đó để tự sửa lấy.

Không thể nghe lời hết thảy những người đương thời, thì trái lại, ta có nên tin cậy những danh sĩ mà thời gian đã trọng. Bản thảo của những nhà đó là những tấm gương càng cũ lại càng sáng cho ta soi. Chính Chateubriand đã nghiên cứu cách hành văn của các tác giả Pháp ở thế kỉ mười bảy, như Racine, Bossuet, Boileau để tập viết. Bà Stael cũng nhận muốn luyện văn chỉ có cách đó là hơn cả. Còn André Chénier thì nói: “Thỉnh thoảng tôi muốn coi bản nháp của các thi hào để xem các nhà ấy đã sửa mấy lần, trải qua mấy giai đoạn”.

*

Rất tiếc là chúng ta không còn bút tích của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ... mà phải đợi ít nhất là ba bốn chục năm nữa mới có đủ tài liệu để phân tích cách sửa văn của các cây bút có tiếng đương thời.

Nhưng trong khi chờ đợi, ta có thể rút kinh nghiệm của các danh sĩ ngoại quốc. Như vậy cũng hơi bất tiện vì cách phô diễn của họ có khi khác của ta, song nếu khéo áp dụng thì biết đâu ta chẳng được thêm cái lợi là giúp cho Việt ngữ phong phú, tế nhị, uyển chuyển hơn.

Dưới đây tôi xin trích ít thí dụ của các văn hào Pháp mà ông Antoine Albalat đã dẫn trong cuốn Le Trarail du style enseigné par les corrections manuscrites des grands écrivains. Tôi sẽ chép nguyên văn những thí dụ đó rồi dịch ra Việt ngữ, sau cùng phân tích chỗ hơn kém của mỗi đoạn trước khi và sau khi sửa, để độc giả nào không thông tiếng Pháp cũng lĩnh hội được đôi phần. Tất nhiên tôi chỉ lựa những thí dụ nào có thể áp dụng ngay vào tiếng Việt được, và khi dịch tôi sẽ ráng sao cho theo sát nguyên văn, dù lời kém trôi chảy cũng không hại.

Buffon rất ưa sáng tạo hình ảnh mới, nhưng cũng tùy chỗ, có khi ông thấy cần phải giản dị. Chẳng hạn so sánh hai câu dưới đây cùng diễn một ý, ông thích câu sau hơn câu trước:

Người nhà quê nói: “Xin người ta để yên đám tro của cha tôi” (Qu’on ne trouble point les cendres de mon père).

Người man di nói: “Ông muốn chúng tôi đi đâu bây giờ? Hài cốt ông cha chúng tôi có đứng dậy mà đi theo chúng tôi không?” (Les ossements de nos pères se lèveront-ils pour nous suivre?)

Ông cho chữ đám tro trong câu trên là một hình ảnh, không tự nhiên bằng chữ hài cốt trong câu dưới và nói: “Khi đầu đề cảm động, mà lớn lao như vậy, luôn luôn nên dùng những tiếng giản dị nhất; tô điểm chỉ thêm lố bịch”.

Có kẻ viết:

“Coligny uể oải trong cánh tay của sự nghỉ ngơi, và giấc ngủ giả đò đổ nhựa nha phiến vào miệng y” (Coiligny languissait dans les bras du repos. Et le sommeil trompeur lui versait ses pavots).

Ông chê cánh tay của sự nghỉ ngơi là vụng, vì nói đến cánh tay thì người ta nghĩ đến sự hoạt động hơn là sự nghỉ ngơi. Rồi hai chữ nghỉ ngơi và giấc ngủ đi liền nhau không sợ điệp ý sao?

*

Muốn chứng thực công phu làm thơ của La Fontaine, người ta thường đưa bài ngụ ngôn Con chồn, những con ruồi và con nhím làm thí dụ. Bài đó, ông viết lần đầu như vầy:

LE RENARD ET LES MOUCHES

Un renard tombé dans la fange,

Et de mouches presque mangé,

Trouvait Jupiterfort étrange

De souffrir qu’à ce point le sort l’êut outragé.

Un hérisson du voisinage

Dans mes vers nouveau personnage,

Voulut le délivrer de l’importun essaim.

Le renard aima mieux les garder, et fut sage

“Vots-tu pas, dit-il, que la faim

Va rendre une autre troupe encore plus importuce.

Celle-ci, déjà soule, aura moins d’âpreté”.

Trouver à cette fable une moralité

Nous semble chose assez commune.

On peut, sans grand effort d’esprit,

En appliquer l’exemple oux hommes.

Que de mouches on volt dans le siècle où nous sommes!

Cette fable est d’Esope, Aristote le dit.

CON CHỔN VÀ NHỮNG CON RUỒI

Một con chồn té trong đám bùn,

Gần như bị ruồi ăn,

Thấy Thần Jupiter cực kì cục

Chịu cho định mạng làm nhục nó tới mức đó.

Một con nhím ở gần đó,

Nó là nhân vật mới trong các bài thơ của tôi,

Muốn cứu con chồn thoát khỏi bầy khó chịu ấy.

Con chồn lại thích để yên, và như vậy nó khôn.

Nó nói: “Anh thấy chăng, sự đói

Sẽ làm cho một bầy khác còn khó chịu hơn nữa.

Bầy này, no say rồi, sẽ không tham lam bằng”.

Tìm cho bài ngụ ngôn đó một lời luân lí

Theo chúng tôi, là việc ai làm cũng được.

Người ta không cần suy nghĩ nhiều

Cũng áp dụng thí dụ đó vào loài người được.

Trong thể kỷ chúng ta đương sống, người ta thấy biết bao nhiêu là ruồi.

Bài ngụ ngôn đó là của Esope, Aristote bảo vậy.

Viết xong, La Fontaine thấy khô khan quá, bỏ gần hết, chỉ giữ lại hai câu, rồi cho con chồn thốt những lời bất bình, rút cục thành bài dưới đây, linh động, thú vị gấp mấy:

Le Renard, les Mouches et le Hérisson

Aux traces de son sang, un vieux hôte des bois,

Renard fin, subtil et matois,

Blessé pardes chasseurs et tombé dans la fange,

Autrefois allira ce parasite ailé.

Que nous avons muche appelé.

II accusait les dieux, et trouvait fort étrange

Que le sort à tel point le voulut affliger

Et le fìt aux mouches manger.

Quoi? Se jeter sur moi, sur moi le plus habile

De tous les hôtes des forêts!

Depuis quand les renards sont-ils un si bon mets?

Et que sert ma queue? est-ce poids inutile?

Va, le Ciel te confonde, animal importun!

Que ne vis tu sur le commun!”

Un hérisson du voisinage

Dans mes vers nouveau personnage,

Voulut le délivrer de l’importunité

Du peuple plein d’avidité:

“Je les vais de mes dards enfiler par centaines,

Voisin renard, dit-il, etterminer tes peines,

- Garde t’en bien, dit l’autre. Ami, ne le fais pas

Laisse-les, je te prie, achever leur repas.

Ces animaux sont souls, une troupe nouvelle

Viendrait fondre sur moi, plus âpre et plus cruelle”

Nous ne trouvons que trop de mangeurs ici-bas”.

Ceux-ci sont courtisans, ceux-là sont magtstrats.

Aristote appliquait cet apologue aux hommes.

Les exemples en sont communs,

Sur tout aux pays où nous sommes.

Plus telles gens sont pleins, moins ils sont importuns.

Con chồn, những con Ruồi và con Nhím.

“Hồi xưa, con Chồn tinh ranh, quỷ quyệt và giảo hoạt, đã già đời ở trong rừng, bị thợ săn bắn trúng rồi té trong bùn, làm cho loài kí sinh có cánh mà chúng ta gọi là loài ruồi, theo vết máu mà bu tới. Nó oán thần thánh, và thấy kì cục quá, sao định mạng lại muốn làm nó ê chề đến mực đó, và để loài ruồi ăn nó. “Sao! Chúng lại nhè ta mà sả vào, ta là loài khôn khéo nhất trong rừng! Loài chồn thành một món ăn ngon tới mực đó từ thời nào vậy? Và cái đuôi ta dùng để làm gì? Là một sức nặng vô dụng à? Cút, cái loài khó chịu kia, Trời phạt bay [3], sao bay không sống bám vào hạng tầm thường!

Một con nhím ở bên cạnh - nhân vật này mới mẻ trong thơ tôi, muốn cứu con chồn khỏi bị cái giống đầy lòng tham lam đó quấy rầy; bảo: “Anh láng giềng chồn ơi, để tôi lấy lông nhọn đâm tụi nó hàng trăm đứa một, cho anh hết khổ”. Con kia đáp: “Đừng. Bạn thân, anh đừng làm vậy. Tôi xin anh cứ để mặc chúng ăn cho xong bữa đi. Chúng no say rồi; giết chúng thì một bầy mới sẽ sả vào tôi, còn tham lam hơn và độc ác hơn nữa”.

Dưới trần này, bọn hạm nhiều quá, kẻ này làm nịnh thần, kẻ kia làm thẩm phán. Aristote áp dụng lời ngụ ngôn đó về loài người. Thí dụ về chuyện đó rất thường thấy, nhất là tại xứ chúng ta ở. Hạng người đó càng no bao nhiêu, càng ít khó chịu bấy nhiêu”.

Tại Ba Lê, có một viện gom góp tất cả những di tích về Victor Hugo, một thi hào đã làm vẻ vang cho nước Pháp: từ những sách vở, bàn ghế, quần áo, tượng, hình, bản thảo, thư từ, cả những sổ chi tiêu, toa mua hàng... của ông đều trân tàng. Nhờ những bản thảo của ông còn lại, chúng ta được biết ông viết và sửa văn ra sao và thấy những câu thơ bất hủ ông lưu lại đểu do công phu đẻo gọt.

Chẳng hạn trong bài Sacre de la femme, có câu:

Une ardente lueur de paix et de bonté

(Một ánh sáng rực rỡ an lạc và hiền từ)

Trước khi hạ chữ ardente (rực rỡ), ông đã thử ba chữ auguste (uy nghiêm), heureuse (sung sướng), sainte (thần thánh) và ta phải nhận ba chữ này đều không đúng, không tự nhiên bằng chữ ardente.

Chỗ khác ông viết:

L’horizon semblait pleint d’invisibles délires

(Chân trời hình như đầy những nhiệt cuồng vô hình) rồi đổi làm câu này mạnh mẻ hơn biết bao:

Les forêts vibraient comme de grandes lyres.

(Rừng rung lên như những cây đờn thất huyền lớn).

Trong câu:

Que savons-nous? Qui donc connait le fond des choses?

(Chúng ta biết gì? Ai biết được đáy mọi vật?) ông thấy động từ connait hơi yếu, thay chữ sonde (dò) vô:

Que savons-nous? Qui donc sonde le fond des choses?

(... Khu rừng lớn màu nâu)

Đầy vẻ mơ mộng tối tăm của trăng).

Sửa là:

Qu’emplit la rêverie immense de la lune

(Đầy vẻ mơ mộng mênh mông của trăng).

Trong bài Souvenirs de la nuit du 4, mới đầu ông thảo:

Nous nous taisions, debout, une larme dans ce deuil;

Et les plus fermes coeurs tremblaient devant ce deuil.

(Chúng tôi đứng, nín thinh, một giọt lệ trong mắt,

Và những trái tim cứng rắn nhất cũng run lên trước cái tang đó).

Một giọt lệ trong mắt thì chẳng hay ho chút nào mà còn có vẻ khôi hài nữa, ông xóa đi, thay:

Nous étions chapeau bas, muets près du fauteuil,

Les plus fermes tremblaient devant ce sombre deuil.

(Chúng tôi ngả nón, yên lặng bên ghế bành,

Những kẻ cứng rắn nhất cững run lên trước cái tang thảm đó).

Hai câu này đã khá hơn nhiều, nhưng ông vẫn chưa hài lòng, muốn đào sâu cái ý “ngả nón”, bèn đổi vần, viết lại:

Nous nous taisions, debout et graves, chapeau bas,

Tremblant devant ce deuil qu’on ne console pas.

(Chúng tôi đứng, yên lặng, và nghiêm trang, mũ ngả

Run lên trước cái tang không sao an ủi được đó).

Câu trên thực hoàn toàn, từ ý tới lời và giọng, chỉ tiếc những tiếng qu’on ne console pas trong câu dưới hơi non.

V. Hugo rất chú trọng đến âm thanh. Câu:

Le ciel, l’aube, où le jour, ce rire immense, luit...

(Trời, phương đông, tại đó ánh sáng, tức cái cười mênh mông ấy, rực lên).

Có những âm ririm (rire immense), không êm tai. Ông đổi:

Le ciel, le jour qui monte et qui s’épanouit...

(Trời, ánh sáng lên và tỏa ra...)

Nhiều khi ông sửa đi sửa lại bốn bận. Chẳng hạn, lần đầu ông viết:

Ce tas de demi-rois raisonne et se concerte

(Cái đống bán vương đó lí luận và bàn bạc với nhau)

Đã chẳng hơn mà có phần còn tệ hơn câu trước. Sửa nữa:

Ce ramassis d’enfants discute et se concerte

(Cái tụi con nít đó tranh luận và bàn bạc với nhau)

Rõ ràng chữ discute (tranh luận) đặt vô đó chỉ cho đủ cước. Hỏng. Sau cùng:

Cette collection de monstres se concerte (Bầy yêu quái đó bàn bạc với nhau)

Ý mạnh mẻ hơn nhiều. Chính chữ collection nghĩa là sự sưu tập, tôi dịch là bầy cho xuôi chứ không sát.

Rồi trong bài Le retour de l’Empereur, Victor Hugo cũng thử ba chữ: t’insulter (chữi ông), te vaincre (thắng ông), t’amoindrir (giảm uy tín ông) trước khi lựa chữ t’abaisser (hạ ông xuống):

Oh! t’abaisser n’est pas facile

(Ô! hạ ông xuống không phải dễ)

Bài Les pauvres gens cho ta một thí dụ khác. Trên chữ branle (lắc lư) ở câu:

Sur les murs vermulus branle un toit hasardeux

(Trên những bức tường mọt ăn, một cái nóc nguy hiểm lắc lư)

Ta thấy ông viết rồi xóa ba động từ: penché (nghiêng) tremble (rung rinh), craque (kêu rắc rắc).

Có khi ông đổi hẳn một hình ảnh:

L’épée est un marteau, l’annure est une enclume

(Gươm là một cái búa, áo giáp là một cái đe)

thành:

Ils frappent; le brouillard du fleuve monte et fume

(Họ đập; sương trên sông bốc lên như khói)

Ý đã thay hẳn: đỡ được một hình ảnh tầm thường, mà thêm được một cảnh bát ngát.

Loài người thường mù quáng trước lỗi của mình mà rất sáng suốt khi nhận xét lỗi người. Tôi không rõ Voltaire có nghiêm khắc như Flaubert trong việc tự sửa văn không, nhưng khi phê bình văn một môn đệ của ông là Helvétius, thì ông tỏ ra rất nhiều lương tri. Văn ông không điêu luyện nhưng sáng sủa, trong trẻo vô cùng, và quan niệm về nghệ thuật viết của ông rất xác đáng. Ông chú trọng đến tư tưởng trước hết, và theo ông, “muốn cho một ý hoàn toàn đẹp thì nó phải được đặt vào đúng chỗ của nó” rồi hết thảy những ý “phải được sắp đặt theo thứ tự nào tự nhiên nhất, để cho nó tiếp liên nhau mà không thấy sự gắng gượng và một tư tưởng nào đó luôn luôn phải có công dụng khai triển một tư tưởng khác”. Cũng như Flaubert, ông ghét tật rườm, chê gần hết các triết gia đồng thời là dùng thừa chữ, có cuốn bốn phần rút đi ba vẫn còn được. Ông nói: “Tôi thấy rằng viết ngắn mà đầy đủ, phân biệt những tế nhị, đừng dư mà cũng đừng thiếu, là một điều khó làm sao”. Cho nên khi chấm bài cho Helvétius, ông không thêm mà chỉ bớt.

Helvétius viết:

De sa passion nait un nouveau désir,

Un autré après le suit; jamais rien ne l’arrête.

(Do sư đam mê của hắn, phát sinh một thị dục mới,

Một thị dục khác lại theo sau; không bao giờ có cái gì ngăn nó cả).

Ông phê: Un autre après le suit (một thị dục khác theo sau): văn yếu ớt (nghĩa là ý loãng, hơi dư).

Trong mười một câu thơ dưới đây cũng của Helvétius, ông vạch ra được mười lỗi mà già nửa là lỗi thừa lời:

Oui, de nos passions toute (1) l’activité

Est moins à redouter que n’est (2) l’oisiveté

Son calme est plus affreux que ne sont leurs tempêtes,

Gardons-nous à son joug (3) de soumettre nos têtes;

Fuyons surtout (4) l’ennui, dont la sombre langueur

Est plus insupportable (5) encorque la douleur.

Toi qui détruit (6) l’esprit, en amortit la flamme,

Toi, la honte à la fois (7) et la rouille de l’âme,

Toi qui verse (8) en son sein ton assaupissement

Qui, pourla dévover, en suspend (9) son mouvement,

Etouffe sespensées et la tient (10) enchainée...

Phải, tất cả (1) sự hoạt động của những thị dục của ta

Không đáng sợ bằng sự ở không nó đáng sợ hơn (2)

Sự bình tĩnh của nó ghê gớm hơn là những dông tố của thị dục,

Ta phải coi chừng đừng đưa đầu ta vào ách (3) của nó;

Nhất là (4) ta phải trốn sự buồn chán, cái uể oải ủ rũ của nó.

Còn khó chịu (5) hơn là sự đau khổ.

Mi, mi diệt phá (6) tinh thần làm cho ngọn lửa của nó tắt dần đi.

Mi vừa làm (7) tủi nhục, vừa làm rỉ tâm hồn,

Mi, mi đổ (8) vào trong đáy tâm hồn sự mê dịu của mi,

Chất đó, để tiêu ma tâm hồn, làm cho cử động của nó ngưng lại (9).

Bóp nghẹt những tư tưởng của nó và giữ cho nó bị cùm xích...

Thực là nồng nặc cái mùi cầu kì của một anh thợ thơ cảm xúc tầm thường mà lại rán gò cho lời hùng hồn, lôi cuốn, Voltaire chê:

(1) Toute (tất cả) là dư, chỉ làm yếu nghĩa câu thơ.

(2) Que n’est: những tiếng này kéo dài lời ra, làm ta bực mình. Vả chăng ý đó tầm thường quá, phải diễn cách khác cho thêm đậm đà. Lại thêm que n’est với que ne sont gần nhau quá bỏ cả đi.

(3) Son calme. Son joug (sự bình tính của nó, cái ách của nó): hai hình ảnh không ăn nhau: lỗi lớn trong nghệ thuật viết.

(4) Fuyous surtout l’ennui. (Nhất là ta phải trốn sự buồn chán): chữ surtout (nhất là) vô dụng; ý cũng vô ích, vì ai chẳng muốn trốn sự buồn chán kia chứ?

(5) Plus insupportable (khó chịu hơn) gần với moins à redouter (không đáng sợ bằng) ở câu nhì và plus affreure (ghê gớm hơn ở câu ba quá). Nhưng chữ Plus (hơn) và moins (kém, không bằng) đó lặp lại như vậy thì còn gì là thơ nữa?

(6) Détruit (diệt): lỗi chánh tả, phải viết là détruis; lại thêm khi nói rằng tinh thần bị diệt thì còn nói ngọn lửa của nó bị tắt lần đi làm gì?

(7) La honte à la fois et la rouille (vừa làm tủi nhục, vừa làm rỉ). Hai tật đó của tâm hồn không tương phản nhau, thì chữ à la fois là vô ích. Người ta có thể nói: lòng tham vọng vừa là vinh dự, vừa là đau khổ của tâm hồn; vì hai cái đó tương phản nhau. Nhưng tủi nhục với rỉ thì có gì trái nhau đâu?

(8) Verse (đổ): lỗi chánh tả, phải viết là verses. Nhưng mà ai lại đổ sự êm dịu bao giờ?

(9) (10) Suspend và tient: lỗi chánh tả, phải viết là suspends và tiens. Điệp ý: giữ nó bị cùm xích, thì tất nhiên cử động của nó phải ngưng lại rồi.

Lời chê rất gắt nhưng tôi chắc bạn cũng đồng ý với Voltaire chứ?

Chú thích:

[1] Sách in “bản thảo cuốn này? thì có phần đúng hơn”, tôi sửa lại thành: “bản thảo cuốn này… thì có phần đúng hơn”. (Goldfish).

[2] Chữ “chê” này do tôi tạm ghi thêm. (Goldfish).

[3] Chính nghĩa là trời làm cho bay phải mắc cỡ.