← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV HỌC CHỮ NHO (HÁN)

1.- Muốn luyện văn, cần thông Việt ngữ.

2.- Muốn giỏi Việt ngữ, cần biết chữ nho.

3.- Ích lợi của chữ nho.

4.- Học chữ nho.

Viết thì phải dùng chữ. Muốn viết cho khéo thì phải dùng chữ cho tinh. Mà muốn dùng chữ cho tinh thì điều kiện cốt yếu, là phải biết rõ nghĩa mỗi chữ. Đó là một sự thực quá hiển nhiên, một sự thực mà người Pháp gọi là “sự thực của La Palice”[1].

Nhưng ở đời chính những sự thực của La Palice lại thường dễ bị quên hơn cả, nên thỉnh thoảng phải nhắc lại.

Tôi biết một bạn trẻ dự bị viết văn và quyết tâm học cho thông sáu ngoại ngữ: Pháp, Anh, Đức, Ý, Y Pha Nho và Nga. Tôi hỏi bạn ấy có ý nghiên cứu về ngôn ngữ học không? - Không - Có ý chuyên dịch tác phẩm ngoại quốc không? - Cũng không mà chỉ muốn học để luyện văn thôi. “Biết thêm một ngoại ngữ, bạn ấy nói - tức là thấu rõ thêm tâm hồn, cảm xúc, tư tưởng, văn minh cùng cách phô diễn của một dân tộc nữa, và trí óc ta sẽ mở mang thêm, đời sống sẽ phong phú thêm, văn tài ta sẽ cao rộng thêm một từng nữa.” Trí óc sẽ mở mang thêm, đúng; đời sống sẽ phong phú thêm, cũng có thể đúng; nhưng văn tài sẽ cao rộng thêm thì chưa hẳn, vì nếu vậy thì những nhà bác học thông cả chục ngôn ngữ như Trương Vĩnh Ký, hoặc nói ngay như các viên thông ngôn ở Liên hiệp quốc mà người nào cũng thông bốn năm thứ tiếng, tất phải có một văn tài ăn đứt văn tài của Nguyên Du, của La Fontaine ư?

Không. Muốn luyện Việt ngữ không cần học nhiều ngoại ngữ như vậy, chỉ cần thông tiếng Việt thôi, rồi biết thêm được hai sinh ngữ nữa thì càng tốt; hai sinh ngữ đó, ta nên lựa một ở phương Tây, một ở phương Đông, chẳng hạn Anh hoặc Pháp và Trung Hoa hoặc Ấn Độ, tức những nước có nền văn minh và văn học cao nhất hoặc cổ nhất. Điểu cốt yếu là phải thông tiếng Việt đã, muốn vậy phải biết chữ Hán (Nho). Bạn trẻ tôi nói trên kia, không thuộc một trăm chữ Nho mà chỉ tính học những tiếng châu Âu để luyện Việt ngữ, có khác chi đã quên một sự thực của La Palice không?

Mà đâu phải chỉ có riêng bạn ấy nghĩ vậy. Hầu hết những nhà văn thời này, nếu dưới bốn chục tuổi, đều giỏi tiếng Pháp, có khi cả tiếng Anh nữa, nhưng đến cái vốn chữ Hán thì gần như thiếu hẳn. Thực là một sự bất lợi lớn cho các vị ấy.

Tôi vẫn biết nhiều văn sĩ Pháp không thông tiếng Hi Lạp hay La Tinh mà vẫn có văn tài, song ta nên xét lại tình trạng của ta có hoàn toàn giống tình trạng của Pháp không? Người Pháp có những bộ tự điển hoàn bị về Pháp ngữ, từ những bộ từ nguyên, những bộ cổ ngữ, đến những bộ đồng nghĩa tự điển, văn liệu tự điển, nên chẳng cần học tiếng La Tinh, chỉ tra cứu trong những bộ đó cũng đủ giỏi về Pháp ngữ. Huống hồ, nhờ những sách giáo khoa giá trị, nhờ cách dạy kĩ lưỡng và có phương pháp, nên thanh niên của họ ở ban Trung học ra có một số vốn chắc chắn và đủ dùng về tiếng mẹ. Còn ta, tự điển Việt ngữ có được bao nhiêu bộ và xin bạn mách cho tôi một bộ nào gọi là tạm đủ, gọi là có thể ví được với cuốn Nouveau Petit Larousse, tức cuốn phổ thông nhất của Pháp. Rồi cách học tiếng mẹ của chúng ta hồi xưa và hồi nay ra sao? Nói ra thì mang tiếng vong ân bội nghĩa, chứ sự thực hồi xưa chúng tôi có học Việt ngữ là học trong Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều, chứ ít khi được thầy chỉ bảo cho lắm. Còn ngày nay? Ngày nay thì bạn đã biết rồi đấy! Sách giáo khoa đã không hoàn toàn tin cậy hẳn, mà giáo sư thì có ông giảng cho học sinh rằng chữ phong trong tác phong cũng có nghĩa là gió như chữ phong trong phong vũ. Làm sao được? Đã không được học mà tự điển lại không có để tra thì đành phải đoán, và đoán được như vậy là giỏi rồi. Cho nên, ở ban Trung học ra, ta phải tự học thêm Việt ngữ, và cách chắc chắn nhất, có kết quả nhất để giỏi Việt ngữ là học chữ nho (Hán).

Trước hết, nhờ biết chữ nho, ta dễ viết chánh tả được trúng. Sáu bảy năm trước, khi chưa nổi lên phong trào trọng chánh tả, hầu hết các văn nhân và cả một số nhà giáo nữa cho sự học chánh tả là một bó buộc vô nghĩa của chương trình tiểu học, và một khi đã đậu bằng cấp tiểu học rồi thì người ta có thể liệng nó đi như liệng vô hộp cá mòi, hộp lê, hộp nhãn khi đã ăn hết vậy. Trong số văn nhân, chỉ có năm sáu vị, phần đồng là học giả, như Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh, Vũ Ngọc Phan... là thận trọng về chánh tả.

Mấy năm gần đây, nhờ sự hô hào trên báo chí của những người yêu Việt ngữ, có lẽ cũng nhờ tiếng Việt được thay thế tiếng Pháp trong ban Trung Học, chánh tả được người ta chú ý tới nhiều hơn và ta phải khen tờ Mới (Tờ báo xuất bản trong những năm 50 ở Sài Gòn (BT) đã đầu tiên chủ trương sự in trúng chánh tả trên các báo. Tôi tin rằng chẳng bao lâu nữa, một khi chánh tả đã được qui định cho toàn quốc, sự in sai chánh tả sẽ làm mất giá trị một tác phẩm và những sách xuất bản từ hồi tiền chiến, chắc phải sửa hết lỗi chánh tả rồi mới tái bản.

Có lẽ đến tám, chín phần mười chữ Việt gốc ở chữ Hán, và khi biến từ Hán qua Việt những chữ đó luôn luôn theo những luật về phát âm học. Ông Lê Ngọc Trụ cặm cụi nghiên cứu ngữ nguyên ta mười năm nay, áp dụng những luật đó để qui định chánh tả. Tôi xin kể vài thí dụ.

Chẳng hạn ông thấy chữ vuông (hình bốn cạnh đều nhau) do chữ phương mà ra chữ phương viết có g thì chữ vuông cũng phải có g.

Chữ dũ trong quyến dũ, do chữ dụ là dỗ, mà những dấu huyền, ngã, nặng đi với nhau, thay đổi lẫn nhau, nên dụ hóa dỗ, hóa dữ, vì vậy dũ phải viết với dấu ngã. Một thuyết nữa là quyến rủ [2], và rủ là rủ rê, viết với r. Rút cục, muốn viết quyến dũ hoặc quyến rủ cũng được nhưng không nên viết quyến rũ hoặc quyến dủ.

Chữ ăn năn gốc ở chữ ân (ân hận). Tiếng ân biến thành ăn, rồi tiếng ăn điệp âm và xen phụ âm n cho thuận tai, thành ăn - n + ăn, (cũng như áy - áy thành áy - n + áy = áy náy, ai ấy thành ai n + ấy = ai nấy). Ân không có g nên ăn và năn đều không có g.

Kể ra, chánh tả Việt ngữ dễ hơn chánh tả Anh, Pháp rất nhiều, và chỉ cần chú ý, chuyên cần học ít lâu, là ai cũng có thể viết trúng được, nhưng xét những thí dụ trên, bạn nhận thấy rằng người nào thông chữ nho viết vẫn dễ trúng hơn những người khác.

Ích lợi thứ nhì của sự học chữ nho là nhờ nó, ta hiểu rõ nghĩa của mỗi chữ mà khỏi dùng lầm.

Nhiều nhà văn có học, có tài, nghị luận chặt chẻ, lời lẽ duyên dáng, mà chỉ vì thiếu cái vốn Hán học, nên thỉnh thoảng dùng sai một vài chữ, làm cho độc giả bực mình, tưởng như rờ phải một mũi kim nhọn trên mặt nhung mịn, hoặc nhìn một vết dầu hắc trên tấm lụa bạch.

Các nhà ấy lầm nghiêm nghị với nghiêm trọng, thanh tích với thành tích, yếu điểm với nhược điểm, lỗi lạc với lỗi lầm, xán lạn lại viết là sáng lạng, thối thác lại viết là thối thoát, đưa ra ba, bốn thí dụ mà dùng chữ đan cử, muốn nói chính mình nhận thì lại bảo công nhận...

Những lỗi như vậy rất nặng đối với người cầm bút, khác chi những lỗi eu égard à mà viết là en égard à, solution de continuité mà lầm là solution de discontinuité trên một trang sách Pháp.

Mà chỉ cần có một số vốn độ hai, ba ngàn chữ nho là ta tránh được những lỗi đó ngay, vì ta sẽ hiểu rằng:

- Nghiêm nghị là nghiêm trang và có nghị lực, còn nghiêm trọng là khẩn cấp, quan hệ (trọng nghĩa là nặng): một tính tình nghiêm nghị và một tình thế nghiêm trọng.

- Thanh tích (thanh là trong, tích là vết), nghĩa là dấu vết thanh liêm, trong sạch của một ông quan.

- Thanh tích (thanh là tiếng, tích là vết) nghĩa tựa như tiếng tăm. Ví dụ: Anh X chơi bời, cờ bạc, có thành tích bất hảo.

Còn Thành tích (vết đa thành) nghĩa tựa như công hiệu, kết quả. Thí dụ: một công chức cao cấp nọ tuy liêm khiết, nhưng làm việc không đắc lực, thì ta có thể bảo là ông ta có thanh tích mà ít có thành tích.

- Yếu điểm là điểm quan trọng (chữ yếu đó tức là chữ yếu trong trọng yếu, toát yếu) chứ không có nghĩa là điểm yếu ớt (point faible) mà ta phải gọi là nhược điểm

Thí dụ: nhược điểm của bài văn đó là lời lẽ không sáng sủa, nhưng đọc nó ta cũng hiểu được yếu điểm trong vấn đề mà tác giả nêu ra.

- Lỗi lầm (tiếng nôm) là có lỗi và lầm lẫn còn lỗi lạc (tiếng Hán Việt) là tâm hồn và tài năng hơn người, vì lỗi là đá lởm chởm, hiện ra rõ ràng, còn lạc có lẽ là một tiếng láy, đi với lỗi cho thành tiếng đôi.

Như Cao Bá Quát là một văn tài lỗi lạc, nhưng vì quá cậy tài, nên phạm nhiều lầm lỗi nặng trong phép xử thế.

- Tiếng Việt không có gì là sáng lạng, chỉ có xán lạn và sáng láng mà hai chữ này nghĩa, hơi khác nhau. Sáng láng là chữ nôm, nghĩa ai cũng đã hiểu; còn xán lạn là chữ Hán Việt nghĩa là rực rỡ. Diện mạo anh ấy sáng láng như vậy, nếu có chí, tương lai có thể xán lạn được.

- Chúng ta chỉ có chữ thối lui, chứ không có chữ thối thoát, còn thối thác là chữ Hán Việt nghĩa là lấy cớ mà lui, không nhận công việc, trách nhiệm. Chữ thác đó còn dùng trong chữ thác bệnh nghĩa là mượn cớ có bệnh để tránh việc, kí thác, nghĩa là gởi nhờ người khác trông nom, ủy thác nghĩa là giao việc cho người khác.

- Trong chữ đan cử, chữ đan (cũng đọc là đơn) nghĩa là đơn chiếc một mình, vậy đan cử là lấy một việc mà đưa ra. Khi muốn kể bốn năm thí dụ, ta không thể dùng chữ đan được mà phải nói: Tôi xin cử ra những thí dụ dưới đây.

- Công nhận là nhiều người đều nhận (công nghĩa là chung). Vậy không thể nói tôi công nhận được vì chỉ nói một mình tôi nhận thôi. Muốn diễn ý tôi cũng quan niệm như mọi người thì phải viết: tôi cũng nhận như mọi người rằng:

Việt ngữ đương bước vào một giai đoạn mới, chẳng những nhà văn, nhà giáo, mà cả những công chức nữa cũng có khi phải tạo ra những tiếng mới để diễn những quan niệm mới, sự vật mới cần thiết cho nhu cầu (chứ không phải là nhu cần, chữ này nhiều người cũng dễ lầm lắm) mới của ta. Trong trường hợp đó, không biết chữ nho, mà cứ mở những tự điển Pháp Việt, Anh Việt ra tra rồi ghép thì tất không sao tránh được những lỗi vô nghĩa.

Tôi nhớ năm 1945, hồi mà toàn quốc “lật đổ” tiếng Pháp một cái một, một viên kĩ sư nọ muốn dịch chữ Conseil de discipline, lật tự điển Pháp Việt của Đào Duy Anh, thấy conseil là hội đồng mà discipline là kỷ luật, bèn ghép lại thành hội đồng kỷ luật (mà ông không viết là kỉ luật lại viết là kĩ luật, ông có phân biệt được ? ~ , kỉ và kĩ đâu), tưởng như vậy là đúng lắm rồi, ngờ đâu rằng discipline còn có nghĩa là trừng giới và conseil de discipline nên dịch là hội đồng trừng giới thì hơn. Khốn nỗi, ông không học chữ nho thì làm sao hiểu được kỉ luật (kỉ = lễ phép, luật = pháp) là những điều làm pháp lệnh cho mọi người trong một nhóm theo, còn trừng giới (trừng - răn, trách, phạt; giới = răn, đe) là trách phạt để rằn đe.

Nhưng chưa nực cười bằng gần đây trong một công sở nọ, người ta cũng dùng cái phương pháp ghép đó để tạo nên một từ ngữ vô nghĩa là từ ngữ phụ cấp hộ sinh, làm cho ai không hiểu tiếng Pháp, không đoán được rằng từ ngữ đó do tiếng indemnité de maternité dịch lầm ra, tất phải ngạc nhiên tự hỏi: chính phủ sao biệt đãi các cô đỡ như vậy, ngoài tiền lương tháng ra, còn tặng riêng các cô một thứ phụ cấp riêng gì nữa đây? Sự thật là phụ cấp đó để cho các sản phụ, tức số tiền cấp cho người đàn bà trong khi sanh đẻ. Chữ maternité là lòng mẹ, phận người mẹ, là nhà hộ sinh. Người dịch thấy chữ hộ sinh thường được dùng hơn cả, lượm ngay, chẳng hiểu nó nghĩa là gì. Nếu biết hộ 1à giúp đỡ (như trong chữ bảo hộ, hộ vệ...) sinh là sinh sản, và hộ sinh là giúp cho người ta sanh, tức công việc của cô đỡ, thì đâu còn mắc cái lỗi ngây ngô như vậy nữa. Đó là cái ích lợi thứ ba của sự học chữ nho.

Bạn có thể là một tiến sĩ văn chương (Pháp, tất nhiên) bạn có thể đọc rất nhiều sách Việt, lại có thể cầm cây viết trong mười năm, nếu bạn không có một số vốn chữ nho kha khá, thì bạn viết cũng vẫn trật mà không thể nào ngờ rằng mình trật được. Vì đọc những tác giả lộn thanh tích với thành tích, yếu điểm với nhược điểm, thấy họ dùng đi hoài những chữ hội đồng kỷ luật, phụ cấp hộ sinh... thì tất nhiên bạn cũng phải viết lầm như họ.

*

Kể ra muốn giỏi Việt ngữ, không cần thông chữ nho chỉ cần hiểu rõ nghĩa khoảng hai ba ngàn chữ Hán Việt trọn bộ Việt Nam tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức là đủ. Nhưng muốn dễ nhớ nghĩa, thì cũng nên nhớ mặt chữ, như học những chữ thanh bần (thanh là trong), thanh âm (thanh là tiếng), thanh không (thanh là xanh) thanh minh (nghĩa là nói rõ ràng; thanh là tiếng), thanh minh (nghĩa là một tiếng trong mùa xuân, thanh là trong), thanh vân (thanh là xanh)... mà không nhớ cách viết mỗi chữ thanh đó thì lâu có thể lầm chữ thanh nọ với chữ thanh kia mà hiểu sai nghĩa đi [3].

Mà khi đã muốn học hết chữ Hán Việt trong Việt Nam tự điển thì sao không gắng thêm chút nữa, học cho được bốn ngàn chữ để có thể đọc ít văn thơ cổ và những sách của Trung Quốc viết về phương Đông, như Ấn Độ, Triều Tiên, Nhật Bổn...? Công không tốn hơn bao nhiêu mà ta được cái tiện là có thể học trong những sách Hán tự viết có phương pháp, dễ hiểu dễ nhớ hơn là học trong tự điển.

Trong cuốn Tự học để thành công [4] tôi đã chỉ một cách học chữ Hán, ở đây xin miễn nhắc lại. Tôi vẫn biết tự học là việc rất khó, nhất là lại tự học chữ Hán, một thứ chữ mà nhiều người đã phải nhận là “không có phương pháp nào học mà không rớt nước mắt” và khi người ta đã ba bốn mươi tuổi mới bắt đầu học “nhân chi sơ” thì ngán vô cùng. Nhưng “nhân chi sơ” lại chính là sơ bộ trong thuật luyện văn và hầu hết các văn sĩ có danh tiếng ít nhiều đương thời đều đã qua cái cầu “nhân chi sơ” đó cả. Tôi không nói tới các học giả như Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn... các vị ấy tất thông chữ Hán không kém các nhà túc nho; ngay các thi sĩ, tiểu thuyết gia như Đông Hồ, Tú Mỡ, Bàng Bá Lân, Vũ Hoàng Chương, Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Tchya, Hư Chu... cũng có một vốn liếng khả quan về chữ Hán.

Tôi không bảo rằng biết được ba bốn ngàn chữ nho là văn tài của bạn tự nhiên sẽ cao lên đâu, nhưng ít nhất bạn viết cũng trúng hơn và kiến thức bạn sẽ tăng lên. Một người Việt đáng gọi là trí thức không thể nào không học vài ba năm chữ Hán, mà học sớm chừng nào càng dễ chừng ấy.

Vậy bạn nào muốn thông năm, sáu ngoại ngữ thì càng quí, nhưng muốn luyện văn, trước hết phải học chữ nho để giỏi Việt ngữ đã.

Chú thích:

[1] Palice là một vị anh hùng tử trận ở Pavie trong thế kỉ 16. Sĩ tốt ông làm một bài ca tụng can đảm của ông, trong có hai câu: “Un quart d’heure avant sa mort, il était encore en vie” (Một khắc trước khi ông chết, ông còn sống), ý muốn nói 15 phút trước khi ông chết, ông còn hăng hái chống địch. Nhưng lần lần người ta quên ý đó đi, chỉ nhớ cái ý ngây ngô của câu hát, do đó mà từ ngữ “Sự thực của La Palice” chỉ một sự thực quá hiển nhiên.

[2] Sách in là “quyến dũ”, tôi tạm sửa lại “quyến rủ”. (Goldfish).

[3] Ý nói nên phân biệt các chữ thanh này: 清 (nghĩa là trong), 青 (nghĩa là xanh), thanh 聲 (nghĩa là tiếng). (Goldfish).

[4] Đã in lần thứ nhì, cùng nhà xuất bản. [Tức cũng nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê. Năm 1968, cụ Nguyễn Hiến Lê sửa chữa, bổ sung và đổi nhan đề là Tự học một nhu cầu của thời đại, nhà Thanh Tân xuất bản. (Goldfish)].