CHƯƠNG XI DỊCH CŨNG LÀ MỘT CÁCH LUYỆN VĂN
1.- Ích lợi của sự dịch sách về phương diện ngôn ngữ, văn hóa và luyện văn.
2.- Hai lối dịch: dịch thoát và dịch sát.
3.- Dịch sách khảo cứu:
Dịch đúng ý nghĩa.
Tránh lỗi vô nghĩa.
Giữ tính cách của Việt ngữ.
4.- Dịch văn thơ
Dịch thơ thì khó mà sát được, phải châm chước cho thoát.
Nhưng nên thoát tới mực nào?
Dịch cái hồn trong thơ.
Một bài dịch làm kiểu mẫu.
Dịch danh văn ngoại quốc là một việc vô cùng bổ ích. Ta có thể nhờ nó kiếm được cách áp dụng văn phạm của người một cách thông minh, khéo léo vào văn phạm của ta mà làm cho Việt ngữ phong phú thêm, tế nhị thêm. Cách đây hai chục năm, ông Nguyễn Giang, trong cuốn Danh văn Âu Mĩ đã nhận thấy điều đó và viết:
“Chúng tôi trông thấy rằng sự dịch văn có liên can đến một vấn đề tối hệ trọng trong nước ta ngày nay là vấn đề ngôn ngữ (La problème de l’expression en Anmarn). Đối với chúng tôi sự giải quyết rõ ràng vấn đề đó có cái ích lợi không phải là nhoû. Nó có thể giúp cho thanh niên nước ta trông rõ con đường nên theo, trong mọi sự cải cách có trong nước ta hiện giờ, giúp cho ta ngày một hiểu rõ cái tinh thần cuûa ta mà suy thấu tới được cái tinh thần sâu sắc của người Pháp”.
Trong cuốn Luyện văn II tôi đã nêu lên vấn đề nên nay mượn cách phô diễn tư tưởng của Âu Mĩ tới mực nào và theo những qui tắc nào. Giải quyết được vấn đề ấy là làm cho Việt ngữ tiến được một bước khá dài. Đó là đứng về phương diện ngôn ngữ, còn về phương diện văn hóa, ích lợi của công việc dịch cũng lớn: các dịch giả có thể giúp đồng bào biết thêm được văn hóa của người, cùng những học thuyết, tư tưởng mới lạ rồi dung hòa để bồi bổ cho văn hóa của mình thêm sinh khí.
Vì công việc dịch quan trọng như vậy nên cả những nước mà văn hóa rất cao như Pháp cũng khuyến khích nó. Hàn lâm viện Pháp mỗi năm đặt một giải để thưởng dịch phẩm nào có giá trị nhất và những bản dịch thơ Đức của Gérard de Nerval, bản dịch thơ Shakespeare của Gamier được coi là những công trình đáng lưu lại hậu thế.
Ở Trung Hoa, các nhà soạn văn học sử đều đặt những dịch giả có tài như Lâm Thư ngang hàng với các đại văn hào và mới từ cuối Thanh tới nay, trong khoảng nửa thế kỉ, văn sĩ Trung Hoa đã dịch được non vạn cuốn, nhiều nhất là của Pháp, Nga, Anh, Mĩ rồi đến Đức, Ý, Ba Lan, Ấn Độ, Y Pha Nho... Một tiểu thuyết vào hạng trung bình của mình, cuốn Đồng quê của Phi Vân cũng đã được họ dịch với nhan đề là Nguyên dã.
Nói gì tới Nhật Bản. Hạng trí thức của họ đã được đọc từ mười năm nay bản dịch cuốn Kiều của Nguyễn Du in lần đầu mười ngàn cuốn và cả những thanh niên quê mùa của họ cũng biết André Gide, André Malraux.
Ở nước ta, công việc dịch cần được phát triển mạnh hơn ở Trung Hoa và Nhật Bản vì non một thế kỉ nay, ta phải học trong những sách viết bằng tiếng Pháp, ngày nay nếu không có một phong trào rộng lớn, dịch hết những sách căn bản của ngoại quốc trong mọi môn mọi ngành, thì ta sẽ bị ràng buộc hoài vào người, không sao tự lập được.
Nhưng không cần xét phương diện văn hóa và ngôn ngữ, chỉ đứng riêng về phương diện luyện văn, thì người cầm bút nào cũng nên tập dịch. Dịch văn ngoại quốc là một cách luyện văn rất có hiệu quả: nó tập cho ta tìm tòi cân nhắc từng chữ để diễn đúng ý của tác giả; nó lại cho ta cơ hội học được bút pháp của các văn hào trên thế giới. Tôi xin chép lại dưới đây một đoạn trong cuốn Nghê viết văn bàn về điểm đó.
“Sau khi viết kí ức và nhật kí... tôi bỏ ra hai năm dịch Pháp văn và Hoa văn. Tôi dịch lung tung ít trang của A. France, J.J. Rousseau, V. Hugo, một chương trong Nghệ thuật sống (Un art de vivre) của A. Maurois trọn cuốn Huấn luyện tình cảm (L’Education des sentiments) của P.F. Thomas, nhiều truyện ngắn, tùy bút của Hồ Thích và năm, sáu chục bài trong bộ Cổ văn quan chỉ.
Nhờ công việc dịch ấy, tôi học được rất nhiều và hỉểu rõ được tư tưởng của tác giả hơn trước: lắm câu đọc qua tưởng là minh bạch, đến lúc dịch mới thấy có chỗ chưa tinh xác, dễ khiến độc giả hiểu lầm. Khi dịch tôi rán tìm những tiếng Việt để diễn đúng và khi viết, tôi giữ được tập quán lựa tiếng, thành thử ngoài cái lợi được ảnh hưởng của nhiều danh sĩ tới phép hành văn, tôi lại tập thói suy nghĩ, phê bình và viết sao cho thật sáng sủa.
Người ta bảo Henry de Montherlant - một danh sĩ Pháp đương thời - ngày nào cũng dịch Tacite đề luyện văn. Điều ấy có thể tin được và gương ấy rất nên theo”.
*Ai cũng rõ có hai lối dịch:
- Một lối dịch thoát, như lối dịch thơ Đức của Gérard de Nerval, lối dịch thơ Đường của Tản Đà, dịch thơ Âu Mĩ của Nguyễn Giang.
Chính Nguyễn Giang đã biện hộ cho lối dịch ấy trong cuốn Danh văn Âu Mĩ:
“Dịch văn tức là lợi dụng cái tư tưởng ngoại quốc mà bồi bổ cái tư tưởng của người mình cho đến hết cái chỗ có thể bồi bổ được.
Cũng một cái tình tứ, người Tây và người mình diễn tả hai cách khác nhau. Như trong bài Lucie của Alfred de Musset mà chúng tôi dịch hôm nay có đoạn sau nầy:
...Tu pleurais; sur ta bouche adorée
Tu laissas tristement mes lèvres seposer
Et ce fut ta douleur qui reçut mon baiser
Đoạn nầy, người Tây họ có một lối văn nói riêng của họ, ta không thể bắt chước được. Nếu ta cứ dịch câu thơ đó ra y nguyên theo giọng Tây, (traduction littérale) thì ta sẽ thấy tình tứ nó sai lạc đi mất, mà câu thơ cảm động lại hóa ra có cái vẻ ngô nghê buồn cười. Cốt làm sao dịch nó ra cái ý cảm động, yêu thương nồng nàn của đoạn đó là được rồi, mà chỉ có như thế mới có thể dịch được”.
Nghĩa ba câu đó như vầy:
...Em khóc; trên cái miệng yêu quí của em
Em buồn bã để môi anh đặt lên,
Và chính là nỗi đau khổ của em nhận được chiếc hôn của anh vậy.
Mà ông dịch thoát ra là;
Tình riêng nức nở không hàn.
Phân ưu anh chẳng biết lời,
Hàng môi hé mở tạm thời sẽ hôn.
Hôn em đó mà buồn vô hạn
Hôn mối sầu của bạn ngày xanh!
Đinh Gia Trình chủ trương ngược lại. ông bắt dịch giả phải trọng, chẳng những ý tưởng mà cả đến tính tình của tác giả, đến từng cái “cặn kẻ” trong văn. Ông nói:
“Người ta bảo: Can chi mà phải nhọc nhằn như vậy? Lấy nội dung câu thơ diễn nó bằng lời mình, theo cú pháp của mình, dùng những đẹp tương đương ở văn mình. Thực là lầm. Văn đi với ý, với tình. Một câu văn hay đem cái ý lên tột độ của sáng sủa, hấp dẫn, mạnh mẻ, đem tình lên tột bậc. Có cái duyên nợ keo kết giữa một tiếng, một vần, một chuyển vận, với cái rung động của thi sĩ. Cả đến cái lối xếp đặt trên dưới liên tiếp, cũng là nguyên tố của cái đep trong một câu thơ. Thể như những tiên nữ nối tay nhau nhảy một điệu nhịp nhàng. Đem thay xiêm áo của bầy tiên nữ ấy, đem xáo trộn thứ tự, hàng lối của các tiên nữ ấy thì ôi thôi còn đâu cái nhịp điệu xưa nữa? Đàn sai cung bực, tiếng đàn thô sơ, cảnh Bồng Lai biến mất. Có thể có trăm lối diễn một ý, một tình, nhưng có một lối tuyệt diệu, mỹ thuật hơn cả, mà lối ấy nhà nghệ sĩ mà ta dịch văn đã tìm thấy rồi trong một phút cảm hứng thiêng liêng mà ta không có”.
Lời ấy đúng, song ta phải nhận đó chỉ là lí tưởng mà người dịch may mắn lắm mới đạt được. Cho nên ngay những thạc sĩ Pháp dịch Virgile, Horace cho học sinh đọc, cũng chỉ rán dịch sát tới cái mức không thêm bớt, giữ cách sắp đặt của tác giả và đừng phản cái hồn của nguyên văn. Được vậy là khá rồi. Tôi đã áp dụng cách đó trong cuốn trước và cuốn nầy. Chẳng hạn khi dịch đoạn:
...tandis que le courant du milieu entraine vers la mer les cadavres des pins et des chênes, on voit sur ỉes deux courants latéraux remonter le long des rivages, des iles flottantes de pistia et de nénuphars dont les roses jaunes s’élèvent comme de petits pavillons.
của Chateaubriand, tôi đã dùng một đảo ngữ hơi bạo, cho chủ từ “những cù lao nổi” đứng sau động từ “trôi ngược” để giữ đúng văn khí cùng tiết điệu trong nguyên tác:
...Trong khi dòng nước giữa sông cuốn ra biển xác những cây thông và cây “sên”, người ta thấy, ở trên hai đòng nước hai bên trôi ngược theo bờ sông, những củ lao nổi, đầy những cây “pit tia” và sên mà bông màu hồng vàng đưa lên trời như những thủy tạ nhỏ.
Hai lối dịch thoát và sát đó đều được những người có uy tín về văn học chủ trương và họ thường chọi nhau kịch liệt. Xét chung thì các thi gia, tiểu thuyết gia thường phóng túng, chỉ cần dịch thoát thôi, còn hầu hết các học giả bắt buộc ta phải dịch sát.
Theo nguyên tắc, đã gọi là dịch thì phải giữ đúng tư tưởng, cả cách hành văn của tác giả nữa, vì ta không thể nào thay đổi cách hành văn mà không thay đổi tư tưởng được. Tôi nhớ cách đây khoảng ba chục năm, một người Hoa kiều đăng trên một tờ báo Hoa văn một bài thơ luật của một nhà ái quốc Triều Tiên (người Triều Tiên cũng dùng chữ Hán như các nhà nho ta hồi xưa) và treo một giải thưởng hai chục đồng để tặng bản dịch ra Việt ngữ nào hay nhất. Chỉ trong một tháng, có trên trăm bài dịch gởi về tòa soạn. Tới kì hạn, người Hoa kiều đó tuyên bố kết quả: không bài nào trúng cách, vì không bài nào dịch sát, mặt dầu y nhận có bài hay hơn cả nguyên tác. Nhiều người gởi bài bực tức cho là bị gạt, song không ai kêu ca gì được hết vì quan niệm dịch của ông ta rất đúng, dịch thì đừng nên khoe là hay hơn nguyên tác mà chỉ nên theo sát nguyên tác, và giả tỉ như nguyên tác có lỗi thì mình cũng không có quyền sữa lỗi cho tác giả.
Tuy nhiên, khi dịch văn thơ, nhất là thơ, qua một ngôn ngữ mà cách phô diễn nhiều khi khác hẳn với ngôn ngữ dùng trong nguyên tác thì dịch sát có thể hóa ra ngô nghê kì cục, làm độc giả nào không thông ngoại ngữ đã chẳng thấy hay mà còn hiểu lầm nữa. Trong trường hợp đó ta phải châm chước miễn diễn được đủ ý của tác giả và gây được cái cảm tưởng như khi đọc trong nguyên tác là được.
Theo tôi, dịch sát hay thoát đều nên dùng, tùy mục đích của ta: nếu ta thiên về khảo cứu thì phải dịch sát, nếu thiên về văn chương thì có thể dịch thoát. Dưới đây tôi xin bày tỏ ít ý kiến của tôi về những điều nên theo hoặc nên tránh trong hai lối dịch đó.
*Khi dịch những sách khảo cứu như sách Khoa học, Triết lí... ta không cần có nhiều tài bằng có một sức học vững vàng đủ để hiểu rõ mà dịch đúng từng chữ. Ta không có quyền thêm bớt nhưng ta phải sáng sủa.
Nếu ta sợ dịch đúng từng chữ, độc giả sẽ hiểu lầm thì một là ta phải chú thích, hai là phải châm chước. Một nhà dịch Thánh Kinh nhận thấy rằng, đối với một dân tộc Mọi ở bờ hồ Victoria (Châu Phi), nếu dịch đúng từng chữ câu: “Đây, ta đứng ở cửa và ta gõ cửa” trong Thánh Kinh thì dân tộc đó sẽ hiểu lầm vì ở miền ấy, chỉ những tên ăn trộm mới gõ cửa để xem trong nhà thức hay ngủ, còn người lương thiện muốn vô nhà ai, cứ kêu tên chủ nhà. Và dịch giả đó đã phải đổi ra là: “Ta đứng ở cửa và gọi”.
Dân sơn cước ở miền Volta chưa bao giờ trông thấy tàu và tất nhiên không có tiếng để chỉ cái neo, song họ có những cái cọc để buộc ngựa và bò, cho nên khi dịch lời của thánh Pierre: (Niềm hy vọng đó là)... cái neo của tâm hồn “chắc và vững”, phải đổi là (Niềm hy vọng đó là)... cái cọc của tâm hồn, chắc và vững.”
Ta lại phải để ý đến sự dụng công của tác giả và chỉ khi nào diễn đúng cái giọng cùng những thâm ý trong văn thì mới là khéo.
Chẳng hạn câu này của N.M. Buter
“L’homme qui ne parle que de soi même, ne pense qu’ à soi même, Et l’homme qui ne pense qu’à soi même est irrémédiablement mal élevé. Il n’apas d’éducation quelque soit le degré de son instruction.”
mà dịch là:
“Người chỉ nói đến mình là người chỉ nghĩ đến mình
Và người chỉ biết nghĩ tới mình là người thiếu giáo dục dù trình độ học vấn họ đến đâu.”
thì tuy không sai nghĩa đấy, song còn thiếu, thiếu cái giọng gay gắt trong nguyên văn.
Dịch như vầy thì hơn:
“Người nào chỉ nói về mình là chỉ nghĩ đến mình.
Và người nào chỉ nghĩ đến mình thì nhất định là mất dạy. Dù trình độ học thức của y tới đâu, y cũng là kẻ thiếu giáo dục...”
Nếu là thơ, ta càng phải đặc biệt chú ý tới phép hành văn của tác giả. Chẳng hạn Milton, trong hai câu cuối tập Paradize Lost tả ông Adam và bà Eve, thủy tổ của loài người rời vườn Cực lạc (Eden) để xuống trần:
They hand in hand with mandering steps and slow
Through Eden took their solitary way.
Theo phép thường, tính từ slow (chậm chạp) phải đứng trước danh từ steps (bước chận); nhưng ông tách nó ra cho đứng sau, thành thử câu thơ có giọng trang nghiêm, cảm động vô cùng. Nếu ta không để ý đến sự dụng tâm ấy mà dịch là:
Hai ông bà nắm tay nhau bước thơ thẩn và chậm chạp.
Trên con đường hiu quạnh của mình qua vườn Cực lạc.
thì tầm thường quá. Milton không viết: with wandering and slow steps. Ta phải tìm cách nhấn mạnh vào chữ chậm chạp chẳng hạn:
Hai ông bà nắm tay nhau, chậm chạp bước thơ thẩn
Trên con đường hiu quạnh của mình qua vườn Cực lạc.
*Phải tránh trước hết lỗi vô nghĩa. Muốn vậy, ta phải đọc cả đoạn để tìm hiểu đại ý rồi mới dịch. Gặp đoạn nào chưa rõ nghĩa thì suy luận để tìm, để đoán nghĩa; ta tự hỏi: “Tác giả muốn nói gì đây? Nếu ông ấy muốn nói như vậy, thì có phản nghĩa với những đoạn trên và dưới không? Muốn cho đoạn đó hợp nghĩa với những đoạn khác thì đại ý của nó phải ra sao?”
Dịch Anh văn, ta thường gặp những tiếng Anh viết giống tiếng Pháp, cùng gốc với tiếng Pháp mà nghĩa lại khác hẳn. Chẳng hạn tiếng Anh evidence không có nghĩa là sự hiển nhiên như tiếng Pháp évidence mà có nghĩa là chứng cứ, tiếng Anh comity không có nghĩa là ủy ban như tiếng Pháp comité, mà có nghĩa là lễ độ.
Những tiếng ấy, Maxime Koessler và Jules Derocquigny gọi là những bạn giả dối hoặc những sự phản bội của dụng ngữ Anh. Khi dịch nó, nếu ta không nhớ đại ý trong bài thì rất dễ lầm, mà lễ độ hóa ra ủy ban thì nguy lắm. Lại thêm, mỗi tiếng có nhiều nghĩa, phải lựa cái nghĩa hợp với bài mà dịch. Chẳng hạn chữ Hán Việt tệ có nghĩa là tệ mà cũng có nghĩa là che lấp; chữ trách có nghĩa là trách mắng mà cũng có nghĩa là trách nhiệm. Chính học giả Phan Văn Hùm, khi dịch văn của Vương Dương Minh cũng sơ ý đến nỗi dùng lầm nghĩa nọ với nghĩa kia, làm sai hẳn ý tác giả: dĩ ngôn vi trách nghĩa là “lấy việc phải nói làm trách nhiệm của mình”, mà ông dịch là “bởi dâng sớ mà bị trách”, thì nghĩa tuy không tương phản, song cách nhau xa quá.
*Một lỗi nữa, cũng rất quan trọng mà nhiều dịch giả nước ta thường mắc, là không giữ tính cách Việt Nam cho câu văn dịch; nên đọc nhiều bản dịch ta thấy chối tai, rất ngớ ngẩn. Bản dịch các sách Pháp, Anh bán không chạy, nguyên do chính ở đó.
Người Pháp dịch văn Anh, văn Đức, văn Nga, văn Trung Quốc, Nhật Bản... có thể sai được, nhưng họ luôn luôn theo văn phạm của họ, giữ cái giọng Pháp, chứ không bắt chước giọng Anh, Đức, Nga... Người Trung Hoa dịch văn Âu Mĩ cũng vậy. Duy có người Việt chúng ta dịch văn Tây là Tây đặc. Tại sao vậy nhỉ?
Có lẽ tại hồi nhỏ, khi mới bập bẹ học tiếng Pháp, các ông giáo đã bắt ta dịch từng chữ:
Cette maison là: Cái nhà nầy
est: là
belle: đẹp.
Cette maison est belle: Cái nhà nầy là đẹp.
Cet arbre a été abattu par mon père: cây đó đã bị đốn bởi ba tôi,
rồi lớn lên, ta cũng quen lối dịch đó mà viết những câu Việt chẳng ra Việt, Pháp chẳng ra Pháp.
Một số học giả có ý buồn khi thấy tiếng Pháp có những tế nhị mà tiếng Việt thiếu hẳn. Lòng yêu tiếng Việt đó thực đáng khen, chỉ tiếc họ nóng nảy quá, ép tiếng Việt phải kết hôn với tiếng Pháp, thành thử yêu mà bằng mười phụ. Họ muốn nhất đán thay đổi hẳn văn phạm của ta, cóp đúng văn phạm Pháp, viết những câu đại loại như:
“Vả khi mà, sau khi thí nghiệm và lần dò. Việt ngữ đã sẽ (!) thực hiện được cái liên quan thích đáng của những âm, những ảnh và ý nghĩa nó sẽ trở thành (...) một lợi khí đep và chắc để nói năng và truyền tư tưởng: chuyển ngữ giáo huấn hoàn bị của một nước Việt Nam đổi mới.
Nguyên văn bằng tiếng Pháp và người dịch cóp đúng văn phạm Phú lãng sa, dùng một “futur antérieur” (đã sẽ thực hiện) và một “futur” (sẽ trở thành) cho câu văn được tinh xác, rõ ràng hơn. Nhưng nó đã chẳng tinh xác, rõ ràng hơn chút nào mà trái lại, chỉ hóa ra lúng túng, ngô nghê.
Tôi vẫn chủ trương rằng cần phải mượn của Anh Pháp nhiều cách phô diễn cho Việt ngữ minh xác hơn hầu diễn được hết những tế nhị của Văn học, Triết học, Khoa học, song nếu người ta muốn đổi mới tới cái mức đó, tới cái mức nói:
“Ngày mai khi tôi đã sẽ dạy học xong, tôi sẽ đi dạo phố”
và “Hôm qua, khi tôi đã đã dạy học xong, tôi đã đi dạo phố” thì thưa bạn, tại sao ta không đổi phắt một lần cho hết đi, sau này khỏi phải đổi thêm nữa, sao không đặt ra đủ mười tám thì như Pháp rồi chúng ta cùng nhau chia động từ như Pháp. Chẳng hạn động từ ăn, ta thêm er ở đằng sau rồi chia; tôi ăne, mày ăne, nó ănes.., có phải là tinh xác rất mực không?
Rồi tại sao lại chỉ bắt chước có Pháp thôi? Còn Anh, Nga, Đức, Ấn Độ, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ.., cũng có chỗ đáng làm thầy ta chứ? Sao không lựa hết những cái hay trong văn phạm vạn quốc, nhồi lại thành một thứ văn phạm hổ lốn, rồi ép Việt ngữ phải theo nó để sản xuất những câu văn mới mẻ, gấp mười câu sau nầy nữa (cũng của dịch giả nói trên):
“Nó (Việt ngữ) được tạo ở từng lầu thượng (!) do các nhà văn chúng tôi đứng đắn (!) cố tâm sản xuất một văn phẩm lâu dài, nhờ các trạng sư chúng tôi nơi pháp đình, bây giờ biện hộ bằng tiếng Việt để soi sáng hay che mờ (!) quan tòa, các ông nầy quả nhiên họ (!) chịu khó thảo những xét vì” của họ để tránh cho những người đặng kiện mắc phải một vụ kiện mới”.
Dịch, như vậy thì quốc dân có oán lối văn dịch cũng là phải.
Mỗi dân tộc có một cách phô diễn tư tưởng, mỗi ngôn ngữ có những đặc điểm của nó.
Ta nói một con mèo mun, một con chó mực, người Pháp không dịch ra là un chat d’ébène, un chien d’encre thì tại sao dịch câu:
Veuillez agréer, cher Monsieur, l’expression de mes sentiments respectueux et reconnaissants.
lại cứ phải dịch đúng từng chữ là:
Thưa ông thân ái, xin ông vui lòng gia nạp sự biểu hiện của những tình cảm tôn kính và tri ân của tôi.
Và tại sao lại phải dịch một “futur antérieur” là đã sẽ?
Dịch văn không phải là dịch chữ, mà là dịch cái nghĩa, cái tinh thần của câu văn, nên mỗi lần dịch, phải đọc kĩ nguyên văn, tìm hiểu ý và tinh thần của nó, rồi tự hỏi: “Một người Việt không biết một ngoại ngữ nào cả, muốn diễn đúng những ý đó, tinh thần trong câu đó, sẽ nói ra sao?”
Nếu tìm mà không thấy cách nào phô diễn được hoàn toàn đúng ý của tác giả thì chẳng thà bỏ bớt những tế nhị đặc biệt của ngoại ngữ đi mà giữ cho câu văn dịch cái tính cách Việt Nam.
Jean Suberville nói rất đúng:
Une langue est l’expression même d’une race, de sa conformation physiologique et mentale, de son tempérament, de son climat, de son histoire.
(Một ngôn ngữ chính là sự biểu hiện của một giống nòi, của cách cấu tạo sinh lí và tinh thần của giống nòi đó, của khí chất, phong thổ và lịch sử của nó.)
Vì vậy mỗi ngôn ngữ có những cách phô diễn, những tế nhị riêng không sao dịch nổi. Có tiếng Pháp hoặc Anh nào diễn được đúng ý và tình trong những chữ in đậm của những câu dưới đây không:
Trời tối quê nhà đâu đó tá?
(Vô danh)
Thú yên hà trời đất để riêng ta,
Nào ai, ai biết chăng là!
(Nguyễn Công Trứ)
Đã hay chàng nặng vì tình,
Trông hoa đèn, chẳng thẹn mình lắm ru!
(Nguyễn Du)
Vậy thì cũng đừng nên quá thắc mắc về chỗ tiếng Việt không có được đủ những tế nhị về mười tám thì của tiếng Pháp, mà hóa ra có tự ti mặc cảm, bắt chước người một cách vô lí.
Hễ dịch thì phải cam chịu đánh mất một phần cái hay trong nguyên tác. Giữ được chừng nào thì giữ, không giữ được thì phải bỏ. Hai Ông H. Veslot và J. Banchet hiểu lẽ đó, nên thú rằng không thể nào dịch được cái tài tình trong những câu dưới đây của Dickens:
In came a fìddler with a music book... In came Mrs Fezziwig, one vast substantial smile.
In came the three Miss Fezziwigs, beaming and ỉoveable. In came... In came... In came.
(Christmas Carol)
Trong mỗi câu có hai đảo ngữ: động từ came đáng lẽ phải đứng sau chủ từ: fiddler, Mrs Fezziwig... thì đứng trước, hậu trí từ in đáng lẽ đứng sau came, cũng đứng trước. Nhờ phép hành văn đặc biệt đó mà ta có cảm giác thấy những lớp sóng khách khứa ồn ào vui vẻ, vội vàng tiến vào cửa hàng ông Fezziwig.
Bạn thử dịch ra Việt ngữ xem có hoàn toàn đúng được không. Tôi thấy không có cách nào khác là dịch ra: Tiến vô, một người kéo vĩ cầm... Tiến vô, bà Fezziwig... Tiến vô... nhưng như vậy mới lột được cái phần nguyên tác và cũng là hơi gượng.
*Dịch thơ rất khó, khó hơn dịch loại khảo cứu nhiều, và dịch giả phải là một thi sĩ thì mới lột được gần đủ tình ý trong nguyên tác.
Nếu gặp được một bài ngắn và dễ thì may ra có thể dịch được gần sát mà hay như Phan Khôi dịch bài Cảm khái của Phan Tây Hồ khẩu chiếm khi ở trong khám bước ra để đi Côn Đảo:
Luy luy thiết tỏa xuất đô môn,
Khảng khái bi ca thiệt thượng tồn.
Quốc thổ trầm luân, dân tộc tụy,
Nam nhi hà sự phạ Côn lôn.
Dịch
Mang xiềng nhẹ bước khỏi đô môn,
Hăng hái cười reo lưỡi vẫn còn.
Đất nước hãm chìm, dân tộc héo,
Làm trai chi sá thứ Côn lôn.
Ta nhận thấy thể thơ (thất ngôn tuyệt cú) giữ đúng, vần cững đúng, và chỉ có ba chỗ dịch giả đã hơi đổi, tức: thiết tỏa (khóa sắt) mà dịch là nhẹ bước; khảng khái bi ca mà dịch là hăng hái cười reo; sau cùng chữ thứ (thứ Côn Lôn) tuy là thêm song rất hợp với giọng ngang tàng của nhà cách mạng. Dịch thơ mà được như vậy thì mười phần đáng gọi là thành công tới tám, chín. Trường hợp đó hiếm còn phần đông là những bài khó dịch, phải dịch thoát.
Thì có tài như Phan Bội Châu, lại dịch một bài chính cụ đã làm, cũng không thể nào theo sát nguyên văn từ đầu tới cuối được:
Ỷ lâu Nam vọng nhật bồi hồi,
Tâm tự như vân uất bất khai,
Sơ vụ thâm tiêu nhân ám khốc,
Tà dương sơ nguyệt nhạn cô hồi.
Khả vô đại hỏa thiêu sầu khứ,
Thiên hữu trường phong tống hận lai.
Cố ảnh tự lân hoàn tự tiếu,
Đồng bào như thử, ngã hà ai!
Nghĩa:
Tựa lầu, ngóng về phía Nam ngày nào lòng cũng bồi hồi
Lòng tựa như mây, uất không mở.
Sương mới, đêm khuya, người khốc thầm,
Trời tà trăng mới, nhạn lẽ loi về.
Không có lửa lớn đốt cái sầu đi,
Riêng có gió dài đưa cái hận lại.
Ngó bóng tự thương mình lại tự cười mình.
Đồng bào như thế, ta buồn làm gì?
Cụ Phan tự dịch thơ:
Tựa lầu Nam để ngắm phương trời,
Tâm tự tơ vương ruột rối bời.
Lác đác đêm trường mưa điểm giọt,
Là đà bóng nhạn tít ngoài khơi.
Đốt sầu nhưng kiếm không ra lửa,
Rước giận ai xuôi gió thổi hoài.
Ngó bóng gẫm mình cười lẫn khóc,
Đồng bào như thế, dạ sao nguôi!
Chỉ có ba câu 5, 6, 7 là dịch sát còn những câu kia đều dịch thoát; tuy thoát nhưng đại ý và giọng vẫn không phản nên cũng gọi là được.
Tôi cử thêm ít thí dụ nữa, cũng là dịch thoát thơ Hán mà thành công.
Trong bài Hoàng hạc lâu, Thôi Hạo hạ hai câu kết:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Một nhà nho dịch là:
Trời tối quên nhà đâu đó tá?
Khói tuôn sóng vỗ mối sầu gây[1].
Trong nguyên tác không có ý tuôn và vỗ; dịch giả lại bỏ ba chữ giang thượng và nhân. Nhưng có hề gì đâu? Ý vẫn đủ mà hồn thơ thì nguyên vẹn, lời linh động, cảnh rõ ràng, vậy là hay rồi, không kém hai câu dịch sát của Tản Đà:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!
mà theo ý tôi, lại còn có phần hơn nữa vì giữ đúng được cái thể thất ngôn trong chữ Hán.
Bài dịch dưới đây của Tản Đà tuy không thật sát mà cũng là khéo:
Tuyệt cú
Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc,
Một hàng nhạn trắng vút trời xanh.
Nghìn năm tuyết núi song in sắc.
Vạn dặm thuyền Ngô bến rập rình
Nguyên văn
Tuyệt cú
Lưỡng cá hoàng li minh thúy liễu,
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên,
Song hàm tây lĩnh thiên thu tuyết,
Môn bạc Đông Ngô vạn lí thuyền
Đỗ Phủ.
Dịch thiếu những chữ hàm (là ngậm), môn (là cửa), bạc (là đậu) và hai chữ tây đông; mà dư những chữ in sắc, bến rập rình; bốn câu của Đỗ Phủ đối nhau từng cặp một và rất chọi như một bộ tứ bình, còn trong bài của Tản Đà, bến rập rình đối với song in sắc chỉ là gượng. Nhưng ai chẳng nhận rằng hai tiếng rập rình đã khéo lựa và cái đẹp trong thơ đã giữ được gần đủ.
Dịch thơ Anh, Pháp khó gấp bội dịch thơ Hán, vì tính tình, cách phô diễn của ta gần với Trung Hoa và khác xa Âu Mĩ; cho nên rất ít người thành công; và giữ đúng được giọng thơ và ý chính trong mỗi câu đã là giỏi rồi. Bài Sonnet d’Arvers tương đối dễ dịch, từ trước đến nay chắc đã có cả chục người dịch, mà bản được lưu truyền nhất vẫn là bản của Khái Hưng. Bạn sẽ nhận thấy ông dịch rất thoát:
Sonnet d’ Arvers
Mon âme a son secret, ma vie a son mystère,
Un amour éternel en un moment conçu.
Le mal est sans espoir, aussi j’ai dû le taire,
Et celle qui l’a fait n’en a jamais rien su.
Hélas! j’aurai passé près d’elle inaperçu,
Toujours à ses côtés, et pourtant solitaire,
Et j’aurai jusqu’au bout fait mon temps sur la terre,
N’osant rien demander et n’ayant rien reçu.
Pour elle, quoique Dieu l’ait faite douce et tendre,
Elle ira son chemin, distraite, et sans entendre
Ce murmure d’amour élevé sur ses pas;
À l’austère devoir pieusement fidèle,
Elle dira, lisant ces vers tout remplis d’elle:
“Quelle est donc cette femme?” et ne comprendra pas.
Tình tuyệt vọng
Lòng ta chôn một khối tình,
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu,
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu,
Mà người gieo thảm như hầu không hay.
Hỡi ơi, người đó ta đây,
Sao ta thui thủi đêm, ngày chiếc thân.
Dẫu ta đi trọn đường trần,
Chuyện riêng dễ dám một lần hé môi.
Người dù ngọc nói hoa cười,
Nhìn ta như thể nhìn người không quen.
Đường đời lặng lẽ bước tiên,
Ngờ đâu chân đạp lên trên khối tình.
Một niềm tiết liệt đoan trinh,
Xem thơ nào biết có mình ở trong.
Lạnh lùng, lòng sẽ hỏi lòng:
“Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây?”[2]
Khái Hưng đã phải dịch giôi ra hai câu (nguyên văn 14 câu, bản dịch 16), nhưng điều đó không quan trọng. Lời thơ du dương và buồn như vậy là lột được một phần tinh thần của nguyên tác. Nhưng câu 1 dịch không đúng, câu 3 dịch thiếu mấy chữ aussi j’ai dû le taire (cho nên tôi phải im, không nói ra), câu 8 cũng thiếu những chữ et n’ayant rien reçu (và không nhận được gì hết). Câu 9, douce et tendre (dịu dàng và âu yếm) mà dịch là ngọc nói hoa cười thì sai, câu 12 (của Khái Hưng) dịch thiếu chữ murmure (tiếng thì thầm) trong câu 11 của Arvers, sau cùng trong ba câu cuối thiếu những ý: tout remplis (đầy cả) và et ne comprendra pas (và sẽ không hiểu gì)
*Vậy dịch thơ ra thơ thì khó mà sát được, ta bắt buộc phải châm chước ít nhiều. Tuy nhiên, không phải muốn thêm bớt ra sao cũng được. Có những tiếng quan trọng không thể bỏ và có những tiếng thêm vô chẳng những vô ích mà còn có hại. Tôi đồng ý với Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại mà cho rằng những câu dịch sau nầy của Nguyễn Văn Vĩnh là kém lắm, mặc dầu ai cũng phục tài dịch thơ ngụ ngôn của ông:
Miễn là cá sống dưới hồ,
Cỏn con cũng có ngày to kết xù,
Nhưng mà cá đã cắn cu[3]
Thả ra tôi nghĩ còn ngu nào tầy,
Nguyên văn:
Petit poisson deviendra grand,
Pourvu que Dieu lui prête vie,
Mais le lâcher en attendant,
Je tiens, pour moi, que c’est folie,
(Le petit poisson et le pêcheur của La Fontaine)
Ngoài những lỗi dịch sai (folie là điêu, chứ không phải là ngu; pourvu que Dieu lui prête vie là miễn Trời cho sống); còn hai lỗi thừa: dưới hồ và nhưng mà cá đã cắn cu. Thêm hai chữ dưới hồ thì được, chứ thêm cả câu thứ ba thì thật vô ích, vụng về và làm cho độc giả phì cười vì cái vần kì cục ở cuối câu đó.
Ngay những câu thơ mà Nguyễn Giang đưa ra biện hộ cho lối dịch thoát của ông, cũng không đáng cho ta bắt chước vì ông thêm bót quá nhiều, cơ hồ như chỉ lấy trong mỗi câu một hai chữ chính rồi làm thành một bài thơ khác. Muốn cho bạn dễ thấy, tôi xin chép lại đoạn trong đó ông trích ra ba câu mà ông đã dẫn:
Nous étions seuls, pensifs; je regardais Lucie.
L’écho de sa romance en nous semblait frémir.
Elle appuya sur moi sa tête appesantie.
Sentais-tu dans ton coeur Desdemona gémir,
Pauvre enfant? Tu pleurais; sur ta bouche adorée
Tu laissas tristement mes lèvres se poser,
Et ce fut ta douleur qui reçut mon baiser.
Telle je t’embrassai, froide et décolorée,
Telle, deux mois après, tu fus mise au tombeau;
Telle, ô ma chaste fleur! tu t’es évanouie.
Ta mort fut un sourire aussi doux que ta vie,
Et tu fus rapportée à Dieu dans ton berceau.
Đêm thanh vắng lời ca đã dứt,
Dư âm còn rạo rực trong tâm.
Buồn xuân bóng tối âm thầm,
Nhìn nàng ta cũng trầm ngâm âu sầu.
Nàng bỗng mệt, ngả đầu nằm nghỉ,
Bên mình ta rơi lụy chứa chan.
Tình riêng nức nở khôn hàn
Dường như mang nặng nỗi oan trong lòng.
Nỗi oan ức có không, em hỡi,
Cớ sao mà quằn quại không thôi?
Phân ưu anh chẳng biết lời.
Hàng môi hé mở tạm thời sẽ hôn.
Hôn em đó mà buồn vô hạn,
Hôn mối sầu của bạn ngày xanh!
Thương em liễu yếu một cành
Sau hai tháng bỗng tan tành gió mưa,
Mười lăm tuổi ngây thơ trong trắng,
Giấc mộng đời lẳng lặng nằm yên.
Hỡi ôi! hương sắc thiên nhiên,
Cành hoa sớm vội qui tiên nhẹ nhàng.
Chính nghĩa như vầy:
Chúng tôi chỉ có một mình, nghĩ ngợi; tôi nhìn Lucie.
Dư âm khúc hát huê tình của nàng hình như run rẩy trong lòng chúng tôi,
Nàng ngả đầu nặng nề lên người tôi.
Em có cảm thấy trong lòng em nàng Desdemone[4] rên rỉ không.
Hỡi em bé tội nghiệp! Em khóc; trên cái miệng yêu quí của em
Em buồn bã để môi anh đặt lên,
Và chính là nỗi đau khổ của em nó nhận được chiếc hôn của anh.
(Hôm đó) anh hôn em, em ra sao, lạnh lẽo và nhợt nhạt.
Thì hai tháng sau, em bị đưa xuống huyệt cũng như vậy.
Ôi, đóa hoa trong sạch của anh, em đã tàn lịm đi cũng như vậy.
Và em được trả về đức Thượng Đế trong chiếc nôi của em.
Những chữ in nghiêng trên bản dịch là những lỗi thừa hoặc dịch sai[5]. Sai nghĩa nhất là chữ tristenment: em buồn bã để môi anh đặt lên mà Nguyễn Giang dịch là: Hôn em đó mà buồn vô hạn. Bốn câu cuối, mười phần không dịch được ba: tác giả đã dụng tâm lặp lại ba lần chữ telle (ra sao, như vậy), giọng cực chua xót mà dịch giả cơ hồ như không nhận thấy.
Vì sự bó buộc của vần, ông phải dịch quá thoát như vậy, nên ta có thể châm chế cho ông, đến như Trúc Khê dịch hai câu nầy của Phúc Vương (con vua Lê Thánh Tông):
Sơn phì thủy tú xuân dung lí,
Ngư dược diên phi thánh hóa trung
(Bài Phụng họa Ngự chế Thiên vực giang hiểu phát) ra làm:
Nước non rờ rỡ xuân dung,
Rồng bay cá nhảy trong vòng trời Nghiêu.
thì tôi không còn hiểu ra sao nữa. Trong nguyên tác, chữ diên (diên phi) là diều hâu, tại sao Trúc Khê lại dịch ra là rồng? Phúc Vương tả cá nhẩy, diều hâu bay, rất hợp với cảnh thuyền đi trên sông, mà dịch giả tự tiện đổi chữ diên ra chữ long là rồng thì cực vô lí. Ông Trúc Khê lẽ nào lại không hiểu thơ tới bực đó. Ấn công sắp chữ sai chăng?
Nếu lại thêm tới cái mức cho một nhân vật trong tiểu thuyết Mĩ ngâm Kiều: “Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?” thì thật là nực cười!
*Nhiều khi thêm một vài chữ có thể làm cho bản dịch bóng bảy hơn nguyên tác, nhưng ý và giọng do đó hơi thay đổi, như vậy phải coi là miễn cưỡng, chứ không đáng khen. Chắc bạn còn nhớ bài thơ Tuyệt mệnh dưới đây của cụ Phan Bội Châu!
Nhất lạc nhân hoàn lục thập niên,
Hảo tòng kim nhật liễu trần duyên.
Sinh bình kì khí qui hà hử?
Nguyệt tại ba tâm, vân tại thiên.
Bài đó đã được nhiều người dịch. Bản dịch khá nhất là bản dưới đây của một nhà cách mạng vô danh:
Sáu chục năm nay ở cõi đời,
Trần duyên giờ hẳn rũ xong rồi.
Bình sinh chí lớn về đâu đó?
Trăng giọi lòng sông, mây ngất trời[6].
Năm đó (1925) cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt ở Trung Quốc tưởng mình sẽ chết, làm bàì ấy để giã đời, giọng vô cùng thê lương. Người dịch thêm chữ giọi và ngất ở câu cuối (chính nghĩa là: trăng ở lòng sông mây ở trời), tuy lời có đẹp hơn, hùng hơn, nhưng tôi e là không hợp với tình ý tác giả; tình ý tịch mịch của một người sắp trở về với Hư vô.
*Dịch nghĩa thì thường dễ, diễn cái hồn trong thơ mới khó, vì cái hồn không phải chỉ ở trong các chữ, mà còn ở cách sắp đặt bài thơ, ở cách các ý tứ ràng buộc với nhau - mà Nguyễn Giang gọi là cái giọng điệu sau cùng ở trong cái thể thơ nữa.
Cùng một đầu đề đó, cũng những ý tưởng đó mà diễn bằng thơ cổ phong, thơ luật hoặc thơ lục bát... thì cảm tưởng trong tâm hồn người đọc cũng hơi khác. Tôi thấy thơ cổ phong chất phác mà nghiêm kính; thơ luật diêm dúa mà vẫn trang nhã; thơ lục bát thì có giọng bình dân; thể song thất lục bát hợp với những khúc ngâm; và thể hát nói thì có vẻ đài cát, ung dung, nhàn nhã,.. Đó là tôi nói về thể, chưa xét đến ý. Cho nên thể thơ nào cũng nên dùng mà một thi nhân có tài tất biết lựa thể thơ cho hợp với tình cảm cùng ý tưởng của mình; và khi dịch, ta phải chú ý đến sự dụng tâm của tác giả mà giữ đúng thể trong nguyên tác.
Ai không nhận bản dịch Hoàng Hạc lâu của Tản Đà là rất khéo:
Gác Hoàng Hạc
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu!
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ!
Hạc vàng đi mất từ xưa.
Nghìn năm mẩy trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!
Hoàng Hạc lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khí bất phục phản.
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Thôi Hiệu)
Tản Đà dịch rất sát, diễn được hết tình hoài cổ trong nguyên tác, chỉ tiếc ông dùng thể lục bát, làm mất tính cách đối ngẫu, vừa thanh nhã, vừa nghiêm trang trong hai cặp thực và luận. Vì lẽ đó, tôi thích bản dịch sau nầy hơn:
Lầu Hoàng Hạc
Người xưa cỡi hạc vàng đi mất,
Lầu Hạc vàng trơ đứng chỗ nầy.
Hạc vàng một đi chẳng trở lại,
Mây trắng ngàn năm vơ vẩn bay.
San sát bóng sông cây Hán đó,
Dàu dàu ngọn cỏ bãi Anh đây,
Quê nhà, trời tối, nào đâu nhỉ!
Sóng gió tuôn sầu, nhớ chẳng khuây.
(Vô danh dịch)
mặc dầu ba chữ: nhớ chẳng khuây trong câu cuối hơi non, làm cho câu ấy kém hẳn câu cuối bản dịch của Ngô Tất Tố:
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây.
Bài Hoàng Hạc lâu dịch ra thể lục bát còn được, đến bài Kinh Hạ Bì Dĩ kiều hoài Trương Tử Phòng của Lý Bạch, thể ngũ ngôn cổ phong, mạnh mẻ, hùng hồn mà cũng dùng thể lục bát để dịch, thì Tản Đà đã mang lỗi cẩu thả đáng trách.
Nguyên văn:
Tử Phòng vị hổ khiếu,
Phá sản bất vị gia.
Thương Hải đắc tráng sĩ,
Chùy Tần Bác Lãng sa.
Báo Hàn tuy bất thành,
Thiên địa giai chấn động.
Tiềm nặc du Hạ Bì,
Khởi viết phi trí dũng?
Ngã lai Dĩ kiều thượng,
Hoài cổ khâm anh phong.
Duy kiến bích lưu thủy,
Tằng vô Hoàng Thạch công,
Thán tức thử nhân khứ,
Tiêu điều, Từ Tứ không.
Tản Đà dịch:
Qua câu Dĩ đất Hạ Bì nhớ Trương Tử Phòng.
Thầy Lương hổ chửa ra oai,
Phá tan của cải, gia tài sạch không
Biển xanh được kẻ anh hùng,
Vua Tần đánh một dùi dồng thử coi.
Cánh đồng Bác Lãng công toi,
Thù Hàn chưa trả, đất trời cũng kinh.
Hạ Bì trốn lánh nương mình,
Khôn ngoan mạnh bạo tài tình lắm thay!
Ta nay cầu Dĩ chơi đây,
Nhớ ai thiên cổ tình đầy nhớ yêu.
Trong veo nước biếc xuôi chiều,
Mà ông Hoàng Thạch đâu nào có đâu?
Than rằng ai đó đi đâu,
Vắng tanh Từ, Tứ để sầu nước non.
Bản dịch đó kém xa bản sau nầy vừa gọn vừa mạnh:
Cọp Lương chưa thét gió,
Phá sản tiếc gì nhà?
Thương Hải được tráng sĩ.
Đánh Tần Bác Lãng sa.
Báo Hàn tuy chẳng thành,
Thiên địa đều chấn động.
Trốn lánh nơi Hạ Bì,
Há phải không trí dũng?
Ta lên chơi cầu Dĩ.
Hoài cổ, phục anh hùng,
Chỉ thấy dòng nước biếc,
Nào đâu Hoàng Thạch công?
Than thở người ấy khuất,
Từ, Tứ có như không.
(Vô danh dịch)
Dịch biền văn, cũng như dịch thơ, nếu không cốt chỉ cho độc giả hiểu nghĩa thì phải giữ đúng tính cách đối ngẫu du dương của nguyên tác, như bản dịch bài Bình Ngô đại cáo[7] của Bùi Kỷ trong cuốn Quốc văn cụ thể, hoặc bản dịch bài Điếu cổ chiến trường văn, bài Vị Từ Kính Nghiệp thảo Vũ Anh[8] hịch, bài A Phòng cung phú trong cuốn Đại Cương Văn học sử Trung Quốc - Đời Đường của tác giả.
*Dưới đây tôi xin dẫn một đoạn nguyên văn trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn với ba bản dịch của các danh sĩ nước nhà để bạn so sánh mà thâu thái ít kinh nghiệm của cổ nhân vể nghệ thuật dịch. Hết thảy những bản đó trích trong cuốn Chinh phụ ngâm bị khảo của Hoàng Xuân Hãn (Minh Tân Paris 1953)
Nguyên văn chữ Hán:
Tương cố
Lang khứ trình hể! mông vũ ngoại;
Thiếp qui xứ hề! tạc dạ phòng.
Qui khứ lưỡng hồi cố:
Vân thanh hề! sơn thương
Lang cố thiếp hề! Hàm Dương.
Thiếp cố lang hề! Tiêu Tương.
Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ,
Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang,
Tương cố bất tương kiến,
Thanh thanh mạch thượng tang.
Mạch thượng tang! Mạch thượng tang.
Thiếp ý, quân tâm, thùy đoản trường?
Dịch nghĩa:
Cùng ngóng nhau
Đường chàng đi ra chốn mưa phùn,
Chốn thiếp về là phòng đêm qua.
Kẻ về, người đi cùng ngảnh lại:
Chỉ thấy mây biếc cùng núi xanh.
Chàng ngóng lại thiếp ờ Hàm Dương,
Thiếp ngóng sang chàng ở Tiêu Tương.
Khói Tiêu Tương cách cây Hàm Dương.
Cây Hàm Dương cách sông Tiêu Tương.
Cùng ngóng nhau mà không thấy nhau,
Chỉ thấy đám dâu xanh trên đường.
Những dâu trên đường! Những dâu trên đường!
Ý thiếp lòng chàng bên nào nhiều ít?
(Hoàng xuân Hãn dịch)
Bản dịch của Đoàn Thị Điểm:
Chàng đi ngoài cõi mịt mòng,
Thiếp về chốn cũ loan phòng ủ ê.
Nẻo ở, đi, mặt cùng trông đoái,
Đóa mây xanh cùng trái non thương
Chàng thì đoái thiếp Hàm Dương
Thiếp thì dõi dõi Tiêu Tương đoái chàng.
Bến Tiêu Tương mấy lần khói tỏa.
Cây Hàm Dương bóng lá ngất đầu,
Trông nhau mà chẳng thấy nhau.
Xanh xanh những thấy bóng dâu trên đường.
Dâu mấy hàng có hay chăng nhé,
Lòng đấy đây ai kẻ vắn dài?
Bản dịch mà Hoàng quân đoán là của Nguyễn Khản:
Chàng lận đận dầu sương dãi gió,
Thiếp trở về vò võ đêm đông.
Kẻ đi người lại đều trông.
Non pha thức biếc, cây lồng màu xanh.
Chốn Hàm Ducmg bằng hình trông thiếp,
Vợi Tiêu Tương chầy kíp trông chàng.
Khói Tương ngất bóng Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách sông Tương mấy trùng.
Cùng trông mà vân mòng nào thấy,
Kìa xanh xanh những mấy ngàn dâu,
Ngàn dâu thôi lại ngàn dâu
Tinh chàng, lòng thiếp, so nhau vắng dài?
Bản dịch của Phan Huy Ích:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp lại về buồng cũ chiếu chăn.
Đoái trông nhau đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, phơi hằn núi xanh.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại,
Ngác Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu,
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Nguyên văn thuộc thể từ khúc, dài 12 câu. Ba bản dịch đều dùng thể song thất lục bát, một thể rất hợp với những khúc ngâm như tôi đã nói - đều dài 12 câu và đều giữ thứ tự các ý của tác giả, không đảo lên đảo xuống.
Hai câu đầu, ba bản đều dịch thoát: Bản của Đoàn thêm những chữ mịt mòng, ủ ê, bản của Nguyễn thêm: dầu sương dãi gió, vò võ đêm đông, bản của Phan thêm xa, gió, chiếu chăn.
Câu 4 của Đoàn dở vì non thương (tức non xanh) rất gượng, độc giả thấy ngay là nữ sĩ bí vần. Câu 4 của Nguyễn đẹp mà không đúng nghĩa, dịch thiếu chữ vân thanh (mây biếc). Câu của Phan vừa đẹp vừa sát.
Hai câu 5, 6 của Nguyễn kém, của Phan dịch sát cũng như của Đoàn, chỉ tiếc chữ hay hơi ép.
Sáu câu sau của Phan dịch rất đúng và rất hay, hơn cả hai bản kia: bốn chữ có hay chăng nhẻ của Đoàn là dư, câu 9 và 10 của Nguyễn tầm thường.
Nhưng phân tích tỉ mỉ như vậy không cho ta thấy rõ chỗ hơn kém. Phải ngâm lên, ta mới cảm được cái du dương, cái ý triền miên quyến luyến nó hiện lên ở nhạc điệu trong bản của Phan, nhờ nghệ thuật tuyệt diệu của dịch giả về phép điệp từ, nghệ thuật mà tôi đã xét kĩ trong chương đầu cuốn nầy.
Dịch được như vậy, phải có thiên tài và quần chúng đã không lầm trong lựa chọn, nên trong ba bản dịch đó chỉ có bản của Phan là được lưu truyền. Nhưng theo sự nhận xét của Hoàng quân, bản của Phan xuất hiện sau hai bản kia; vậy Phan đã rút ít nhiều kinh nghiệm của Đoàn và Nguyễn, và cái công để lại cho hậu thế một tác phẩm bất hủ không phải là của riêng Phan mà là của chung cả ba họ.
Chú thích:
[1] Trong bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo người dịch là Vô danh (Vô danh dịch), còn trong bộ Hồi kí, cụ lại bảo người dịch kí tên là Vô danh đó là người bác thứ ba hiệu là Phương Sơn. (Goldfish).
[2] So bản dịch đó với một bản dịch khác ở phần phụ lục.
[3] Tức cắn câu. Vốn là vần u vờ âu, theo thi pháp xưa, có thể thay nhau được, như thiên thu có thể đọc là thiên thâu.
[4] Một nhân vật trong kịch Othello của Shakespeare, nàng bị chồng giết oan vì chồng nghi nàng ngoại tình.
[5] Toàn bài dịch thơ và dịch nghĩa, trong sách đều in nghiêng. (Goldfish).
[6] Chữ “rũ” (trong câu 2) và chữ “đó” (trong câu 3), trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục chép là: “giũ” và “nhỉ”. (Goldfish).
[7] Nguyên văn bài đó ở trong bộ Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim.
[8] Anh: chữ Hán chép trong Đại cương văn học sử Trung Quốc là: 瞾 (ở trên là 2 chữ mục目); trong bộ Sử Trung Quốc, cụ Nguyễn Hiến Lê đính chính lại thành tên Chiếu 曌 (ở trên là chữ minh 明). (Goldfish).