CHƯƠNG X VÀI LỐI HÀNH VĂN
1.- Lối hành văn của nhóm Tự Lực đã được phổ biến và không còn gì là đặc sắc nữa. Bài Nhặt lá bàng của Nhất Linh.
2.- Lối hành văn của Vũ Bằng. - Khúc Ngâm ở trong đất Hà.
3.- Lối hành văn của Nguyễn Tuân - Huế.
4.- Lối hành văn của Tô Hoài. - Buổi chiều ở trong nhà. - Đôi gi đá.
Khoảng hai chục năm trước, người ta thường nói đến lối hành văn của nhóm Tự Lực, tức của Khái Hưng, Nhất linh, Thạch Lam, Trần Tiêu, Thế Lữ... Lối đó xuất hiện trên những tờ Phong Hóa, Ngày Nay, khác hẳn lối hành văn nặng nề, lê thê của nhóm Nam Phong và lối cộc lốc, rời rạc của Hoàng Tích Chu, cho nên hồi ấy được coi là đặc sắc. Nó đánh dấu một bước tiến tự nhiên của văn xuôi Việt trong giai đoạn thoát li những trói buộc của văn biền ngẫu Trung Hoa để tiếp nhận ảnh hưởng của văn xuôi Pháp hợp với thời đại hơn. Nó được phổ biến rất mau, đã thành lối hành văn của một thế hệ, chứ không còn là của một nhóm, và do đó ngày nay nó không còn gì là đặc sắc. Những tính cách của nó, như mọi người đều biết, là sáng sủa, giản dị, gọn ghẻ, nhẹ nhàng, trung hòa. Dưới đây tôi xin trích một bài của Nhất Linh để làm tiêu biểu cho lối văn ấy. Thực ra, tôi có thể không cần lựa chọn mà lấy bất cứ đoạn nào của ông, hoặc của Khái Hưng, Thạch Lam... vì trừ vài tiểu dị văn những nhà đó đều một bút pháp như nhau.
Nhặt lá bàng
Đêm khuya lạnh. Ở phía sau một gốc bàng, một cái bóng chạy ra. Đó là một đứa bé vào trạc mười tuổi, đầu chít một cái khăn đỏ phủ kín hai bên má, áo rách để hở cả hai vai. Một ít lá rụng ở cuối phố. Đứa bé chạy vội lại. Một thằng bé ở sau gốc bàng khác cũng chạy ra, rồi hai chị em - có lẽ là hai chị em - chạy loăng quăng đuổi những lá bàng gió thổi lăn trên đường. Một cơn gió mạnh nổi lên.
Lá rụng ào ào, một lát đã đầy đường.
- Mau lên chị ơi,... nhặt cả hai tay lên chị ạ
- Tao bảo mầy đem cái chổi đi, mày lại bỏ quên, thằng nỡm. Tao đã biết trước là đêm nay gió to.
Mày chẳng nghe tao bao giờ, thằng nỡm.
Con bé mắng một cách có vẻ thông thạo lắm, lúc mắng lại tỏ ra vẻ người nhớn biết mắng em, dạy em rồi. Đứa bé không để ý đến lời chị, vừa nhặt vừa reo:
- Gió lên... lạy trời gió nữa lên!
Chúng vẫn nhặt không ngừng tay, lá vẫn rụng không ngớt, nhiều khi màu áo lẫn với màu đường, không nom rõ người, chỉ thấy hai bóng đen loăng quăng. Chúng chạy vụt ra xa, rồi lại quay vòng giở lại; có khi đang cùng chạy về một phía, bỗng dưng đứng dừng; một đám lá rơi lỏa tỏa trên người chúng, khiến chúng ngập ngừng bối rối, không biết quay mặt phía nào.
- Lạnh quá,
- Chạy mau lên cho ấm.... thằng nỡm.
Mặc dầu trời rét, chúng mong mỏi gió thổi thật mạnh: mỗi lần cơn gió tới làm rụng lá, chúng hồi hộp và sung sướng, nhưng chỉ gió được có một chút rồi tạnh hẳn. Thỉnh thoảng còn thưa thớt một hai chiếc lá rơi; lá trên đường chúng nhặt đã hết.
- Em được tám bó.
- Tao được năm bó. Tại mày tranh lấy hết của tao, thằng ranh con.
Rồi chúng lại về ngồi chỗ cũ, mỗi đứa một gốc bàng cho khuất gió, khuất những cơn gió làm chúng rét run mà chúng vẫn mong nổi lên.
- Gió lên,... Lạy trời gió lên.
Tôi không muốn phân tích vài lỗi nhỏ trong bài đó (chẳng hạn lỗi điệp ỷ: chúng mong mỏi gió thổi thật mạnh rồi mươi hàng sau; những con gió làm chúng rét run mà chúng vẫn mong nổi lên; lỗi nhiều lời, ít ý trong câu: con bé mắng một cách cỏ vẻ thông thạo lắm, lúc mắng lại tỏ ra vẻ người nhớn biết mắng em, dạy em rồi) mà chỉ xét lối hành văn của tác giả thôi.
Nhất Linh - cũng như Khái Hưng - sở trường về những truyện tả phong tục, tính tình hạng trung lưu, nhưng đôi khi ông cũng nhận xét hạng dân nghèo, thấy những nét ngộ nghĩnh, hồn nhiên trong đời tối tăm của họ, và nếu ông có biểu lộ chút lòng thương hại cho họ thì lòng thương đó cũng gần gần như lòng một công chúa đứng trên lầu son ái ngại cho đám dân lam lũ ở dưới đường, một lòng thương pha chút chán chường về đời sống quá phẳng lặng của mình.
Một đêm đông, đứng trong một phòng ấm, nhìn qua cửa kính, thấy hai đứa trẻ nghèo lượm lá bàng, ông cảm thông nỗi khổ của chúng: áo rách để hở cả hai vai mặc dầu trời rét những cơn gió làm chúng rét run; song ông chú ý đến những cử chỉ, ngôn ngữ ngộ nghĩnh (chạy loăng quăng, hai bóng đen loăng quăng, chúng chạy vụt ra xa rồi lại quay vòng giở lại, có khi đang cùng chạy về một phía bỗng dưng đứng dừng; khiến chúng ngập ngừng bối rối, không biết quay mặt phía nào; tao bảo mày đem cái chổi đi, mày lại bỏ quên, thẳng nỡm, chạy mau lên cho ấm.. thằng nỡm, tại mày tranh lấy hết của tao, thằng ranh con) cùng nỗi vui sướng giản dị hồn nhiên của chúng hơn (vừa nhặt vừa reo, chúng hồi hộp và sung sướng, em được tám bó, tao được năm bó.)
Chúng tuy khổ mà vui. Đó là sự thực. Nhưng có tâm trạng như ông mới nhận thấy cạnh góc ấy của sự thực. Nếu là Vũ Trọng Phụng thì một cạnh góc khác đã được nhấn mạnh và giọng văn tất mỉa mai, chua xót chứ không nhẹ nhàng, vui vui như của Nhất Linh.
Ta thấy trong bài, những câu dài, ngắn xen nhau điều hòa, lời bình dị, tự nhiên.
Nhận xét đúng, chữ dùng khéo: chạy loăng quăng, lá bàng gió thổi lăn trên đường, gió tạnh hẳn, thưa thớt một hai chiếc lá rơi; những lời đối thoại của hai đứa trẻ như được tốc kí lại.
Văn linh động; cứ một đoạn tả hay tự sự lại tới vài câu đối thoại. Linh động nhất là những hàng:
Chúng chạy vụt ra xa, rồi quay vòng giở lại; có khỉ đang cùng chạy về một phía, bỗng nhiên đứng dừng; một đám lá rơi lỏa tỏa trên người chúng, khiến chúng ngập ngừng, bối rối, không biết quay về phía nào.
Phép tả bằng vài nét đơn sơ của ông, tuy có nghệ thuật, song không sắc bén. Tả gió thì chỉ:
Một con gió mạnh nổi lên, lá rụng ào ào, lá rơi lỏa tỏa, con gió làm rụng lá, cơn gió làm chúng rét run.
Ta có cảm tưởng rằng, ông cảm xúc không mạnh. Phần lí trí cơ hồ như thắng phần tình cảm. Xin bạn nghe ông phân tích, giảng giải:
- Ở phía sau một gốc bàng, một cái bóng chạy ra. Đó là một đứa bé vào trạc mười tuổi,
- Một thằng bé ở sau gốc bàng khác cũng chạy ra, rồi hai chị em có lẽ là hai chị em chạy loăng quăng.
- Nhiều khi màu áo lẫn với màu đường không nom rõ chỉ thấy hai bóng đen loăng quăng
- Một đám lá rơi lỏa tỏa trên người chúng, khiến chúng ngập ngừng, bối rối, không biết quay mặt phía nào.
Câu cuối:
- Gió lên... Lạy trời gió lên.
để lại được nhiều dư âm, đáng gọi là khéo.
*
Trái với nhóm Tự lực, Vũ Bằng có một phép hành văn mạnh mẻ, ráo riết, nhiều khi tàn nhẫn.
Ông tả một đám trẻ nhà nghèo:
Chúng nó lấy làm xấu hổ về những cái mà chúng thấy ở trên người chúng và chúng cong lưng lại, và chúng co ro lại, và chúng thu cả chân tay lại. Chúng nó run rẩy, chúng nó thu hình cho thực bé - bé bằng một cái chấm để không làm phiền bất cứ ai ai.
Bạn nhận thấy ông nói cho kì hết ý nghĩ trong lòng và cố lặp lại: và chúng, và chúng, và chúng, chúng nó, chúng nó, cho lời thêm sắc bén, giọng thêm chua chát.
Ông thường dùng cách điệp tự đó một cách quá dễ dãi: trong truyện hai người, ông viết:
Và cặp trẻ tuổi ấy thấy mối hạnh phúc chân thật; hạnh phúc ở bên trái, hạnh phúc ở bên phải, hạnh phúc ở trước mặt.
rồi:
Rượu bốc lên đầu, rượu bốc ra đằng mặt, rượu bốc vào cả chân tay, rượu bốc cả ở trong bụng nữa.
Nhưng khi nào cảm xúc thực hành, nồng nhiệt thì văn ông có nhiều sinh khí. Hồi mới tản cư về, mục kích xã hội thối nát ở Hà Nội ông viết một bài mà giọng châm biếm cực kì cay độc, hấp dẫn, chỉ tiếc hơi kém phần tế nhị -
Khúc ngâm trong đất Hà Nhẹ béo
... Nhưng béo mỡ, anh phải biết là tai hại!
Đã đành là không phải tai hại cho các quan đâu. Nhưng tai hại cho chính chúng ta là thằng dân. Điều đó ai lại còn không biết nữa?
Nguyên do như thế này:
Béo, không tất nhiên là khỏe. Béo là người ta có mỡ thừa. Người ta không hoạt động dề dàng; người ta ỳ ạch thở; người ta làm việc ít. Làm việc ít mà lấy lương nhiều chỉ khổ thằng dân, điều đó đã tất nhiên. Nhưng đau đớn nhất là người ta béo quá không đi bộ được, từ sở về nhà cũng phải ngự công xa [1]. Thành thử chánh phủ đáng lẽ để tiền ra làm việc công ích cho dân, phải để ra một món chi dụng về công xa lớn quá. Đáng lí chỉ có ông bộ trưởng hay đổng lí văn phòng đi công xa để làm phận sự mà thôi. Nhưng đây thì khác. Công xa được “đại chúng hóa”. Đại chúng hóa công xa. “Vờnờbờ”- V.N.B. đi ngậu cả phố phường và trong cái, ngân thị của đời sống, giá anh trụt xuống là một cát đồ hứng bụi. Quan bí thư đi công xa, quan thư kí đi công xa, quan phán lục đi công xa, quan đánh máy đi công xa và quan bếp cũng đi công xa đi chợ.
Một hôm tôi gặp người bạn làm tài xế vặn một cái “vờ nờ bờ” thật choáng.
Hỏi - Đi đâu mà ngậu thế, hở chàng kia?
Đáp - Trông đây thì biết, lựa là phải hỏi.
Trên ô tô cả một vườn rau cải chất đầy lên, hãy còn nguyên cả đất và cây nào cây nấy trông cứ ngồng cả lên như là cái thứ rau cải của Trạng Quỳnh tưới bón đặc biệt để đem dâng lên chúa Trịnh.
Hỏi - Thế là nghĩa thế nào?
Đáp- Nghĩa là... nghĩa là tôi vừa lên vườn ươm cây của thành phố lấy cải về đem chia cho từng nhà cho các quan thời, chứ còn làm sao?
Thì ra người ta lại dùng cả công xa để đi lấy rau cho các quan ăn. Mà, không có sự gặp gỡ của tôi với anh tài xế trên kia, ai dễ mà mỗi lúc đã biết được rằng sở ươm cây của thành phố lại còn có bổn phận phải trồng cải đế các quan xơi món tả pí lù và rau sà lách để nhắm với món “ăng đui” cho đỡ ngấy?
Chính thực ra thì nhà thơ nước Tàu [2] dùng chữ phì là để chỉ một giống không phải người. Phì là phì mã. Phì mã là ngựa béo. Nhưng người béo hay ngựa béo cũng không quan hệ mấy.
Quan hệ là làm thế nào cho các quí phu nhân, quí nhân tình, quí tiểu thư, quí đĩ được bảnh chọe như người hay hơn người. Len may áo có thứ trăm hai một thước[3]. Nhưng đủ các kiểu. Quần tơ lụa viền đăng ten có cứ là hàng tấn, sợ không đủ tiền mà mua.
Khinh là nhẹ. Áo khinh cừu là áo cừu nhẹ. Người ngày xưa mặc đến áo cừu nhẹ là tuyệt sang, không ai có thể sang hơn được nữa.
Nhưng bây giờ...
Anh đi chơi phố, trông thấy một số vợ con các quí quan và lẫn vào đó, bao nhiêu là đĩ! anh sẽ thấy nhẹ cả thể xác, nhẹ cả thính quan[4] nhẹ cả tâm hồn là khác. Mũ nhẹ như tờ giấy. Áo khoác ngoài nhẹ như cái lông. Khăn san nhẹ như bấc; áo tơi và quần nhẹ và mỏng nhìn thấy hân hân cả thịt! Thế rồi ở Bôn Be, Tràng Tiền, Hàng Đào, Bờ Hồ, Phố Nhi, bao nhiêu là phấn sáp, son, là trầm hương, là kem, là nước hoa! là nước hoa! là nước hoa! Có thứ to bằng cái hoa chuối, giá bảy mươi hai đồng. Lại có thứ chỉ bằng cái hoa kèn mà hơn trăm bạc. Nhưng có thứ nước hoa to chỉ bằng một cái vẩy ốc nhồi mà ba trăm, mà năm sáu trăm, mà một nghìn đồng một lọ thì có bốn trăm hai mươi mốt thứ khác nhau. Chàng làm quan phát tài mua cho nàng. Cậu xoay xỏa được sắm tặng mợ. Ông kí một chữ, phát tài, biếu bà. Cụ ông lờ một việc kia đi, được món bổng hơn chục vạn dâng cụ bà. Bà ngoại giao phất, bà lại mua tặng... bà. Cứ như thế, làm gì mà ngửi không nhẹ cả tâm hồn mình đi! Ấy thế mà có tờ báo lại bắt chước Tàu hô hào dân chúng nên cần kiệm, liêm chính. Hơ hơ! Văn hóa Âu Tây có cái văn hóa nếm rượu ăn tiền và ngửi nước hoa mà phát tài.
Ta xức nước hoa, ta đánh phấn quí và ta mặc hàng trăm thứ quần áo đắt tiền cũng là một thứ văn hóa chớ sao?
Văn hóa... gỡ.
Thực là cay độc. Trào phúng, mỉa mai, uất hận, ghê tởm trước một xã hội thối nát.
*Văn Nguyễn Tuân còn dễ nhận hơn văn Vũ Bằng, ta không cần đọc tên tác giả cũng đoán được là của ông. Nhưng văn của Vũ dễ bắt chước hơn văn của Nguyễn. Nguyên rất tài hoa, tả tâm sự thì thường có giọng khinh bạc, kiểu cách, trầm buồn. (Những ngày thanh hóa) mà tả cảnh cũng rất khéo dù là cảnh thực hay tưởng tượng, cảnh thời nầy hay thời cổ.
Dưới đây tôi xin trích một đoạn khá dài gồm gần gần đủ những đặc sắc của ông.
...Rồi những bức thành bên đường Huế. Không đi thì nhớ Huế mà xuống Huế thì... Ở Huế nhiều truyện lắm. Bao giờ tôi quên được Huế.
Hay là tôi cứ xuống Huế? Xuống nghỉ ít ngày cho nó đỡ mệt, rồi lại đi nữa. Vả lại cách đây ít ngày, tôi cũng đã thư cho anh bạn cũ là sẽ ghé thăm Đoàn, cái anh bạn cũ ấy có lẽ giờ đang nghĩ đến tôi sắp bước vào nhà anh với luồng gió nồng mới đem theo của cảnh xứ Bắc vào. Một lần hồi cuối thu, viết ra cho bọn tôi, anh tả con sông Hương, anh tả người đàn bà hát trong sạp thuyền, lời lẽ lâm li như giọng một khúc hành Tì Bà, cuối thư có một câu”... Giọng líu lo buồn nỗi khó nghe...”
Tôi vẫn còn ngần ngừ. Tàu đã qua cầu sắt để vào ga. Tôi vẫn ngồi chưa chịu đứng dậy. Tôi hỏi thiếu phụ có “một lối đẹp Thúy Vân” ấy rằng: “Thưa bà, bà xuống Huế?” “Chúng tôi đi Phan Thiết”. Tôi sợ quá, vội cầm ngay lấy quai va li, bỏ con tàu xuống Huế. Đằng nào thì cũng tội, nhưng xuống Huế có lẽ hơn là phải ngồi suốt một ngày một đêm nữa đối diện với một người đàn bà có một vẻ tầm thường của cái đẹp dĩ dàng phô ngay ra hết để rồi chẳng nói chẳng gợi gì nữa hết.
Tôi nghĩ đến ngày năm trước ở đây. Hồi ấy thầy tôi làm việc ở tòa Hội Lí, tôi còn ở tuổi bé dại, mặc một cái quần không đũng, ngày ngày bỏ nhà, đi chân lên xóm chợ. Định tìm đến nhà một ông già tôn thất bên họ ngoại để được xem những cái bọn đồ sứ nội phủ tủn mủn, xinh xinh. Lớn lên thăm lại cảnh cũ, có lần tới Huế, thầy tôi nhỡ độ đường đã đem tôi vào ngủ đỡ một đêm ở hội quán Bắc Kì Châu Phả. Đêm ấy mưa gió, cảnh lại tối vàng, hai cha con không sao nhắm mắt nổi. Rồi mấy lần sau tôi ghé Huế một mình, có một ông bán cho tôi một hào một cốc nước lã, vào một kì tế Nam Giao tôi trọ ở khách sạn ông có nửa ngày. Một lần khác, đi chơi dài hạn với một anh bạn thi sĩ điên điên và hay đãng tính, tôi đã phải ghé xuống Huế vì hết tiền. Phải dịch độ lại ở kinh, nhiều buổi chiều, chúng tôi không biết làm gì cả, đành lại vào hồ Tĩnh tâm mà nhàn sầu. Lòng đói và lòng nặng trĩu những ý nghĩ của tự sát, hai đứa tôi tì xuống lan can nếp lầu tạ cũ, lặng nhìn đàn chim vỗ cánh lìa mặt nước hồ sen cuối hè. Bạn tôi ngồi đấy yên lặng cho đến lúc giời tà chìm xuống đáy nước tù, ngồi đấy ví ra trong đầu những câu thơ sầu rụng mà sau nầy được dịp in ra thành tập, có nhiều người sành chơi cảm giác của chung quanh kêu là hay lắm, hay bởi vì không ở ngoài đau khổ. Tôi ngồi đấy để nhớ đất Bắc. Để tính một con đường về. Ở Huế tôi còn để lại những cái gì nữa? Còn, còn một cái mả xinh xinh, mả người em gái nhỏ, chết ở nhà thương làm phúc và chôn ở núi “côi” đường lên núi Ngự Bình. Bây giờ lại xuống Huế. Nhìn con đò ban ngày, tôi đã nhớ đến một câu hò mái đẩy: “Nhớ lại thêm phiềng. Quên đi thì chớ, dớ lại thêm phiềng...”
Đặt tên cho mấy thủ đô ở Đông Dương, một văn sĩ Pháp qua đây đã gọi Huế là “nàng sùi sụt”. Cái thứ mưa dầm ở Huế có cái công dụng là đay nghiến chì chiết đến lòng người.
Những người lữ thứ ngồi co ro ở quán trọ nhìn Huế mưa liên hồi mà lại tuyệt lương nữa thì có thể uống ngay được một liều thuốc vĩnh biệt, nếu sức sống trong lòng mình không còn nhắc cho một chút phấn đấu gì. Thường niên Huế không có tết Trung Thu. Vào cữ này, quả kim phong vũ biểu ở đây lúc nào cũng chỉ lả lay ở khoảng mưa và ấm thôi. Tôi là người vốn thích thú chơi mưa mà tôi cũng phải khiếp cái lối mưa Huế, mưa mang mang vô tuyệt kì.”
...Mưa mãi, mưa hoài. Mưa rào đổ xuống mái nhà thầy đồ Đoàn[5] đều và mau nghe cứ như tiếng máy khâu lúc kim chỉ ăn nhanh xuống vải hồ. Đến lúc cái chậu thau ngoài hiên chỉ còn kêu lóc bóc rất thưa thớt để đón lấy giọt gianh thõng thẹo trong đêm tối, mấy đứa tôi lại lần qua sông mưa. Cầu đêm vắng người, rộng hẳn ra và sâu, dịp sắt xám buông trên dòng đen lạnh cũng dài thêm được chút nữa.
(Một lần đi thăm nhau - Tùy bút II)
Đoạn ấy cũng như hầu hết tác phẩm của Nguyễn Tuân gây một cảm giác buồn nhè nhẹ vì cái tâm sự chán chường vô cớ và miên miên của ông mà những người thích ông thì bảo là cái sầu vạn cổ của nghệ sĩ; còn kẻ ghét ông lại cho là cái sầu ủy mị của một kẻ vô lí tưởng, chỉ sống lây lất cho qua ngày và nhớ nhung dĩ vãng. Ở đây tôi không phê bình tính tình đó, chỉ xét ông đã dùng cách hành văn nào mà gợi được cho ta cảm giác đó thôi.
Đại ý ông tả nỗi do dự của ông không biết nên xuống Huế hay không, rồi kể những kỉ niệm hồi nhỏ về Huế, sau cùng tả cảnh mưa “mang mang vô tuyệt kì” ở Huế.
Ông có tâm trạng “nhàn sầu”, hành động không tính toán trước mà chỉ theo sở thích nhất thời, định vô Nam rồi chỉ vì cái nhan sắc tầm thường của một người đàn bà mà xuống. Huế Giọng khinh bạc của ông hiện trong đoạn tâm sự ấy. Mấy chữ “một vẻ đẹp Thúy Vân” đã là mỉa mai và ba chữ “tôi sợ quá” mới là khinh người. Lòng thì khinh mà ngôn ngữ vẫn lễ độ: ‘Thưa bà, bà xuống Huế?” Càng lẽ độ thì lại càng mỉa mai[6].
Ông chỉ thích xê dịch để tìm sự thay đổi, và quay về dĩ vãng để nhớ những kỉ niệm buồn: buồn ngay từ hồi bận quần không đũng, không biết làm gì, đi “coi cái bọn đồ sứ nội phủ tủn mủn”, rồi lớn lên, buồn vì cảnh đêm mưa gió tá túc ở một hội quán, vì lòng tham lam của một kẻ đầu cơ, vì cảnh hồ Tĩnh Tâm vào mùa sen tàn, sau cùng, vì cảnh một ngôi mộ ở non Côi.
Dĩ vãng như vậy mà hiện tại trong mắt ông chỉ là một cảnh mưa dầm “sùi sụt, đay nghiến chì chiết đến lòng người”.
Ông dùng những chữ kiểu cách: đã thư cho anh bạn, phải dịch độ lại kinh, nhàn sầu, tuyệt lương, một liều thuốc vĩnh biệt, vào cữ này, một khúc hành tì bà, mang mang vô tuyệt kì.
Văn ông đầy những hư tự, thành thử có vẻ như lôi thôi: cái anh bạn rũ đó, tôi còn ở buổi bé dại, cái bọn đồ sứ, nghe cứ như tiếng máy khâu, để đón lấy giọt gianh, nghỉ ít ngày cho nó đỡ mệt, cái thứ mưa dầm ở Huế có cái công dụng là đay nghiến, chì chiết đến lòng người. Kẻ không hiểu, cho ông là cẩu thả; sự thực đó chính là một đặc sắc của ông, một thứ cầu kì lối cổ - hợp với câu chuyện và tâm trạng của ông.
Ông cầu kì cả trong lối hành văn theo Tây: nhiều người sành cảm giác của chung quanh, dầu nặng trĩu những ý nghĩ của tự sát, bởi vì không ở ngoài đau khổ.
Thực khác xa với lối hành văn bình dị của nhóm Tự Lực.
Phép tả của ông cũng không giống phép tả của Nhất Linh hay Khái Hưng.
Khái Hưng tả cánh đồng dưới mưa phùn, viết:
Trên con đường đất ngòng nghoèo, bò giữa một vùng bằng phẳng, anh phu xe mập mạp, lực lưỡng, phải nằm rạp xuống càn xe, mới khiến được đôi bánh cao su từ từ nặng nề lăn trên con đường đất bùn xám và vàng lầy lội.
Hai bên đường, những ruộng còn gốc rạ, thẳng tắp chạy dài về nơi chân trời trắng đục như những cù lao trong biển đầy sương mù buổi sớm lô nhô nổi lên những lũy tre bao bọc các làng lớn nhỏ. Vượt hẳn lên cao, những ngọn cau màu nâu nhạt treo lơ lửng từng không, vì thân cây đã lẩn trong mưa phùn mờ xám.
Đi song song với con đường đất, lạch sông đào nhỏ uốn éo lượn khúc, giòng phẵng lặng không trôi
Thỉnh thoảng luồng gió lạnh chạy qua đám sậy đầy tiếng xào xạc khô khan.
Tác giả muốn vẻ một bức tranh, nên ghi đủ nét: con đường, chiếc xe, anh phu xe, ruộng, lạch, làng xóm; về mưa và gió chỉ có hai chi tiết “màu mưa phùn mờ xám” với “luồng gió lạnh chạy qua đám sậy đầy tiếng xào xạc khôn khan”. Văn gợi hình nhiều hơn là gợi cảm.
Nguyễn Tuân trái lại, chuyên gợi cảm, ông tả mọi vật thì ít mà tả ảnh hưởng của nó đến tâm tư ông thì nhiều. Phải có nằm co trong một noi hiu quạnh, xa nhà, xa bạn và nhìn mưa suốt ngày này sang ngày khác cứ rả rích trút xuống, có lúc muốn ngưng rồi lại không ngưng mà còn đổ hột mau hơn, mới thấy câu: “Cái thứ mưa dầm ở Huế có cái công dụng là đay nghiến chì chiết đến lòng người” là tuyệt hay, đáng khuyên kín, nhất là hư tự đến thì phải khuyên đến hai khuyên vì nó có giá trị gấp mấy một thực tự.
Hai chữ lả lay ở sáu bảy hàng sau cũng rất khéo. Rồi hình ảnh ở đoạn cuối mới đúng làm sao: tiếng mưa như tiếng máy khâu lúc kim chỉ ăn nhanh xuống vải hồ, cái chậu thau kêu lóc bóc rất thưa thót để đón lấy những giọt gianh thõng thẹo trong đêm tối.
Chỉ một đoạn đó cũng có giá trị bằng trọn truyện ngắn Rain (Mưa) của Somerset Maugham; và trước cảnh mưa mang mang vô tuyệt kì đó tác giả tất phải lần qua sông phải “bốc đồng”, cũng như ông Mục sư trong truyện Rain phải làm một việc thẹn với lương tâm để rồi tự tử.
Để tả nỗi sầu triền miên đó, Nguyễn Tuân dùng những câu dài, ít xuống hàng, hơi văn đi chậm chậm, lừ đừ như dòng nước sông Hương:
Đằng nào thì cũng tội, nhung xuống Huế… để rồi chẳng nói chẳng gợi gì cả (Dài 4 hàng).
Mưa rào đổ xuống mái nhà thầy đồ Đoàn... mấy đứa tôi lại lần qua sông mưa. Hai câu, mỗi câu trên hai hàng).
“Bạn tôi ngồi đấy yên lặng cho đến lúc giời tà... bởi vì không ở ngoài đau khổ”. Câu nầy dài năm hàng, ý nọ luồn vào ý kia, phảng phất có lối hành văn của Marcel Proust.
Nhưng nhiều khi ông cũng khéo dùng những câu ngắn như ở đoạn đầu:
Rồi những bức thành bên đường Huế. Không đi nhớ Huế mà xuống Huế thì... Ở Huế, nhiều truyện lắm. Bao giờ tôi quên được Huế.
Khi cảnh vật hoặc ý nghĩ xô đẩy nhau trong đầu ông thì ông cũng ngắt câu theo lối Tô Hoài (Coi ở sau) cứ ghi vội lại không cần sắp đặt, tổ chức, cho văn được linh động.
Đến cái giọng trầm trầm, buồn buồn của cả đoạn thì tôi không sao phân tích được. Nó ở nội dung hay ở hình thức ở cách chấm câu hay ở những âm trầm? Bạn nhận thấy chăng những tiếng ở cuối vế hoặc câu phần nhiều có thanh bằng: “Một lần hồi cuối thu viết ra cho bọn tôi anh tả con sông Hương anh tả người đàn bà hát trong sạp thuyền lời lẽ lâm li như giọng một khúc hành Tì bà, cuối thư có một câu: “...giọng líu lo buồn nỗi khó nghe.” Nỗi sầu đó bàng bạc, man mác, thấm lần vào tâm hồn ta như một thứ rượu nhẹ và làm ta ngây ngất, u hoài.
Tôi muốn trích thêm một đoạn nữa, cách đoạn trên khoảng ba trang để bạn thấy cái buồn trong văn Nguyễn Tuân. Ông ghé Huế ít ngày rồi lên xe lửa vô Nam. Ở Huế thì chán Huế mà xa Huế lại nhớ Huế.
....Tàu rời Lăng Cô - ga Lăng Cô có lẽ là một sự thực hiện của Bồng Đảo - tôi vẫn còn nhớ lại không sai lấy một nét, cái bóng dáng lả lơi gầy mảnh của cô bé bán sò. Cô đã gợi đến hình ảnh của một thiếu phụ Huế đêm trên sông mưa ấy hò giọng mái đẩy: “Kim Luông dãy dọc tòa ngang..., í., nước đổ ổ ổ về Sình... Đôi đứa mình... Lỡ hẹn ba sanh... Dẫu có ó ó làm răng đi nữa.. í... í., cũng không đành quên nhau.” Lòng tôi muốn bảo tôi hay là tí nữa gặp tàu tránh nhau ta lại quay về Huế. Huế vẫn dễ thương lắm. Mỗi thớ thịt người tôi bây giờ là một chữ của câu hò đó. Ngắm bể gạt sóng đầu bạc vào chân đường sắt cứ lớp lớp không ngừng, tôi nghĩ đến linh hồn của mỗi giọng hát, đến cái ma lực của giọng hò đò, nó cảm người ta như cái tiếng vô cùng của con nước thủy triều khi theo ánh trăng suông mà dâng lên mãi. Hễ bao giờ có dịp ghé Huế nữa thế nào cũng phải ra Quảng Trị mà nghe hò mái đẩy cho thực thỏa thuê thì mới đành. Trời! đi đò dọc lên chợ Huyện, liệng ngay đồng hồ và cuốn lịch túi xuống một dòng sông Quảng Trị, cứ nằm dài trong khoang thuyền mà tẩm tràn mình trong điệu hát có tiếng bơi chèo lúc lúc miết mạnh xuống dòng!”
Văn của Nguyễn Tuân không hợp với thời nầy; người ta ghét nó vì nhiều lí do, nhưng ai cũng phải nhận rằng nó có nhiều nghệ thuật, có một vẻ đẹp riêng, một vẻ đẹp không phải “Thúy Vân” mà “Thúy Kiều”.
Hiện nay, Hư Chu có một lối hành văn phảng phất như Nguyễn Tuân, cũng hơi kiểu cách, cũng dùng nhiều hư tự và chữ cổ, nhưng lời nhũn nhặn hơn, hóm hỉnh hơn, sáng sủa, du dương hơn tuy kém sâu sắc và thiếu nghệ thuật miêu tả.
*Văn của Vũ Bằng để châm biếm, của Nguyễn Tuân để diễn nội tâm; còn để tả ngoại giới thì lối của Tô Hoài đặc sắc nhất.
Văn của Tô ngược hẳn với văn của Nguyễn, nhưng có phần dễ bắt chước hơn và được nhiều người yêu hơn vì linh động, vui vẻ có nhiều nhận xét dí dỏm, tinh tế. Tôi xin cử bài Buổi chiều ở trong nhà của ông.
Ba bố con cùng ngồi giữa sân trong một manh chiếu rách nham nhở. Anh Hối xoe quần lên tận bẹn, doạng dài hai cẳng chân. Thằng Bang cưỡi một bên khoe bố. Giả làm ngựa đang tế, nó nằm mọp xuống, Cái Hiệu ngồi cạnh, miệng nhai kẹo bột tóp tép. Cả hai đứa cùng chăm chú nhìn môi bố; bố đương hát. Anh Hối dương hát thực. Anh hát cho hai con nghe (...)
(Một lúc sau) ba bố con cùng im lặng. Trong tịch mịch nghe có tiếng nhai cồn cột và tiếng muỗi o, o. Cả ba cái mồm cùng nhai keo. Lúc chiều, anh Hối mua một trinh bốn kẹo bột ở ngoài ngõ xóm. Bố xơi một. Hai con ăn hai. Còn một cái đề dành vợ. Chị Hối đi làm bây giờ cũng sắp đến độ về.
Trời đã chạng vạng tối. Ở trong những khe cửa, những ao hồ và những cây hoa xoan mọc quanh nhà, muỗi thấy bóng tối quen thuộc, sà xuống, bay ra hàng đàn đông nghịt.
- Làm gì mà ngồi như bụt mọc cả thế kia?
- A mẹ về! A mẹ về!
Hối pha trò:
- Đáng lẽ bố con tôi ngồi trong phản, ấy mà lơ mơ muỗi khiêng ra đây lúc nào không biết!
Bác Hối gái cười tủm. Cái Hiệu túm lại, hỏi mẹ:
- Mẹ bưng bát gì thế?
- Bát dầu (...) Cả nhà ăn cơm chưa?
- Ăn rồi, ra cho cái kẹo đây này.
Nói xong, bác Hối lại hát cho hai con nghe. Bây giờ bác hát đổi sang giọng kể truyện. Tiếng trầm, tiếng bổng, hòa theo bàn tay bác vỗ vào bụng làm nhịp (...)
Dứt câu anh Hối hỏi vợ:
- Hay đấy chứ, mẹ mày nhỉ?
Nhưng vợ không đáp. Và như chị ta đương làm cái gì lục cục ở trong nhà. Đúng là tìm vật gì thực. Bởi chị hết đứng lại ngồi xuống, lại lom khom quờ quạng tay trong gầm phản. Người chồng hỏi:
- Mẹ mày làm gì thế?
- Tìm cái chai.
- Chai nào?
- Chai đựng dầu chứ còn chai nào nữa?
Bác Hối ngẩn người:
- Tưởng mẹ mày mang đi mua dầu.
Bác gái biết có sự không tốt chi đây, liền lồng trở ra hiên trợn mắt.
- Ai mang đi mua dầu? Thôi chết tôi rồi! Cái chai đâu?
Anh chồng tần ngần một tí:
- Tưởng nhà có hai cái chai.
- Bán một cái hôm nọ để mua thuốc cao cho thằng Bang rồi không? Còn cái chai ờ nhà đâu?
Bác Hối cười ê à:
- Thế thì tớ không biết. Lúc nẫy tớ cũng bán nốt cái chai ấy rồi. Tưởng nhà có hai cái thì đằng ấy đem đi một. Ai biết đâu? Tớ bán cho hàng đồng nát được hai xu rưỡi. Một trinh mua kẹo chia cả nhà. Hai Xu thì để cạo cái đầu. Đầu này ba tháng nay chưa cạo, tóc mọc cả vào hai lỗ tai. Đêm nào cũng ngứa ngáy rậm rật.
Đáng lẽ bác còn kể dài dòng và dịu dàng nữa, nếu vợ bác không lu loa.
- Ôi giời đất ơi! Làm hại tôi rồi! Có mỗi một cái đễ đựng dầu mà cũng bán tào bán huyệt của tôi đi rồi!
Và người đàn bà để dằn cái bát xuống phản ngồi xoạc hai chân ra, bắt đầu làm một cuộc nói ray rứt, rất dài dòng và liên miên. Chị ta làm như chồng vừa mới ăn trộm tiền để trong hòm của chị. Bao nhiêu những điều gì không phải từ năm ngoái năm kia, chị cũng đem ra nói lại. Chị nói từng hồi dài, kè nhè, giọng cao, giọng thấp. Dường như chị tức tối lắm. Và thôi thế là anh Hối cũng tức quá. Song anh cũng hết sức nói một câu ngọt ngào:
- Làm cái gì mà nói dai thế, người đâu có người.
Chị vợ lấy hơi, gào to hơn trước:
- Ối giòi ơi! người ta hại tôi. Người ta cấm đoán tôi.
- Bố mày, ông cấm đoán gì mày?
...Thế là người đàn ông rực lên. Y mắm môi lại xông vào đá ngay vợ một cái. Mụ đàn bà ngã lăn chiêng. Đồng thời mụ kêu làng ầm ĩ. Hai đứa con cũng quáng quàng, giơ tất cả hai tay lên mà khóc ra rả như ve sầu. Cáu quá, anh chồng lại xô đến. Mụ đàn bà tuy khóc nhưng vẫn trông trộm; vội bưng mặt, tóc rũ rợi, chạy cung cúc ra ngõ. Người chồng không đuổi. Anh ta vớ lấy một cái chén uống nước ngoài hiên quăng ra sân. Gọn một tiếng cạnh sắc nhưng hơi rè của một miếng sành vỡ rạn. Cũng chưa đủ hả giận. Anh Hồi vẫn còn nghe thấy những gì tưng tức quanh đây. À hai đứa trẻ thi nhau khóc. Cái người bố nóng tính ấy liền cho mỗi đứa mấy chiếc bợp tai. Chúng khóc réo lên nữa và nhảy trốn xuống cửa bếp. Nhưng xuống đến đây thì hai đứa trẻ cùng im bặt. Chúng sợ bóng tối om om và sợ những ông vua bếp tưởng tượng. Chỉ còn tiếng thút thít. Và ở ngoài ngõ tiếng âm ực.
Bấy giờ anh Hối mới lùi lũi vào trong nhà, nghĩ ngợi thế nào một lúc sau, anh vào phản chui vào màn; anh đi ngủ. Chỉ có hai đứa trẻ là vẫn ngồi, rồi chúng, nằm ngay xuống trước cửa bếp. Chúng ôm nhau ngủ khò khè như hai con chó ốm (...)
Sáng hôn sau, cả hai đứa trẻ cùng thấy chúng trở dậy ở trên giường có màn buông kín cẩn thận. Nhưng không biết ai đã mang chúng vào đấy lúc nào.
Người mẹ đã đi làm từ tờ mờ đất.
Còn bố chúng cũng trở dậy sớm và cũng mở cửa ra đi sớm như thế. Nhưng không phải là đi làm. Bác ta hấp tấp chạy qua cánh đồng lên đường “cái tây” nậy ít nhựa giải đường. Mang về, bác đem cái chén đập tối hôm qua ra cặm cụi lấy nhựa chắp lại. Vừa hí hoáy làm việc, bác vừa vui miệng hát:
Anh thương cô nàng như lá đài bi,
Ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương.
Hai đứa trẻ thấy bố gắn gắn chắp chắp hay hay mắt, xúm lạt xem. Thằng Bang ngồi xổm, thò hai tay luồn dưới khoeo, môi nó thuỗỉ ra, rãi chảy rỏ xuống ngực áo.
(Nhà nghèo)
Tô Hoài cũng như Trần Tiêu đều sống ở thôn quê và đều tả cuộc đời nông dân Bắc Việt hồi tiền chiến, song Trần Tiêu sinh trưởng trong một gia đình phong lưu, chỉ thấy những cảnh cơ cực, ảm đạm, suốt đời lo ăn lo mặc, lo cái nhiêu cái xã của dân cày; còn Tô Hoài, sinh trưởng trong một gia đình cần lao, thấy rõ tính tình và đời sống người nhà quê hơn, tính tình và đời sống ấy giản dị chất phác, có cực mà cũng vui, có xấu mà cũng có tốt. Đọc Trần Tiêu ta chỉ thương hại nông dân; đọc Tô Hoài ta thêm lòng yêu họ, thấy họ tuy cách biệt với ta mà cũng rất gần ta.
Ta thử xét Tô đã nhận xét ra sao và dùng bút pháp nào để gây được cảm tưởng ấy.
Trước hết ta nhận thấy văn rất thay đổi; ông dùng điều hòa cả ba thể; miêu tả, tự sự và đối thoại, không như Nguyễn Tuân, tự sự nhiều hơn miêu tả và miêu tả nhiều hơn đối thoại. Thể nào của ông cũng linh động nhờ ông khéo nhận xét, khéo dùng chữ, nhất là nhờ một bút pháp đặc biệt.
Tài nhận xét của ông ai cũng phải phục. Những hàng nầy chẳng hạn:
Và như chị ta đương làm cái gì lục cục ở trong nhà. Đúng là tìm vật gì thực. Bởi chị hết đứng lại ngồi xuống, lại lom khom quờ quạng; tay trong gầm phản.
đã ghi được đúng dáng điệu âm thầm của một người làm vật trong bóng tối.
Cảnh vui vẻ đầm ấm trong gia đình; tính hiền lành thương vợ con, nhưng cục cằn của anh chồng; tính cần kiệm nhưng tai ngược mà sợ đòn của chị vợ đều hiện rõ trong cử chỉ, ngôn ngữ của mỗi người.
Những câu đối thoại của vợ chồng y như được tác giả tốc kí lại. Ông không cần xen những mệnh đề như “Bác Hồi nói” hoặc “Người vợ đáp”, mà ta vẫn hiểu rõ câu nói là của ai.
Ông dùng ngay những tiếng trong miền như: bố, mạ sắp đến độ về, mẹ mày (để chỉ vợ), tớ, (không biết đằng ấy (đem đi một), cấm đoán, bộp tai, đường cái tây, bán tào bán huyệt.
Những tiếng: xoe quần, quờ quạng, tần ngần, ngứa ngáy rậm rật, lu loa, bè nhè, sợ quáng quàng, khóc ra rả như ve sầu, chạy cung cúc, lùi lũi vào trong nhà, cười ê à, ngủ khò khè, môi nó thưỡi ra,.. đều lựa rất khéo.
Đặc biệt nhất là phép chấm câu của ông. Ông dùng những cân ngắn một mệnh đẻ. Cả bài chỉ có vài câu dài hai ba hàng mà lại chứa những mệnh đề độc lập đặt liền nhau, chứ không có mệnh đề chính và phụ. Ông không muốn lí luận sắp đặt tư tưởng, gài ý nọ vào ý kia để tạo những câu dài hơn. Ông trông thấy cái gì đặc biệt là ghi lại liền, như một người chụp hình, bấm phía này một cái, phía kia một cái, tách... tách, nhờ vậy văn ông linh động như đời sống.
Ta thử đọc lại đoạn tả Hối đánh vợ con:
Thế là người đàn ông rực lên. Y mắm môi lại, xông vào đá vợ một cái. Mụ đàn bà ngã lăn chiêng. Đồng thời mụ kêu ầm ĩ.
Một nhà văn khác tất đã viết:
“Y giận quá, mắm môi xông vào đá vợ; mụ đàn bà ngã lăn chiêng và kêu la ầm ĩ.”
Và cảm tưởng của ta sẽ ra sao? Ta không còn thấy đứng trước một cảnh đương diễn ra nữa, chỉ còn thấy một sự thực đã chiếu qua bộ óc của nhà văn, một sự thực đã được phân tích, sắp đặt lại, nghĩa là đã biến thể rồi. Xin bạn tiếp:
Hai đứa con cũng sợ quáng quàng giơ hai tay lên mà khóc ra rả như ve sầu (bạn để ý: chúng giơ tay lên mà khóc, nhận xét tài tình vì chúng sợ bố đánh, giơ hai tay lên muốn đỡ).
Cáu quá, anh chàng lại xô đến.”
Tô Hoài không viết:
Hai đứa con cũng sợ quáng quàng, giơ hai tay lên mà khóc ra rả như ve sầu, làm cho anh càng thêm cáu, lại xô đến.
Như vậy sẽ không là tả nữa, mà là giảng giải, lí luận.
Rồi:
Mụ đàn bà tuy khóc nhưng vẫn trông trộm; vội bưng mặt, tóc rũ rợi, chạy cung cúc ra ngõ.
Dấu chấm phết đặt sau chữ trông trộm rất đắc thế có giá trị như dấu chấm phết trong câu của Macserlinck đã dẫn ở trang 110 cuốn I.
Ta thấy rõ người vợ dò xét cả chỉ của chồng. Đột nhiên nàng nhận thấy một vẻ gì đáng sợ vội vàng chạy:
Người chồng không đuổi. Anh ta vớ lấy một cái chén uống nước ngoài hiên quăng ra sân. Gọn một tiếng cạnh sắc nhưng hơi rè của một tiếng sành vỡ rạn.
Tiếng sắc và hơi rè: rất đúng
“Cũng chưa đủ hả giận. Anh Hối vẫn còn nghe thấy những gì tưng tức quanh đây. À, hai đứa trẻ đương thi nhau khóc.”
Bạn có nghe thấy ở chữ à tiếng thở ra khoan khoái của bác Hối tìm được cảì cớ đánh con cho hả giận không?
“...Chúng khóc réo lên nữa và nhẩy trốn xuống cửa bếp. Nhưng xuống đến đây thì hai đứa trẻ cũng im bặt. Chúng sợ bóng tối om và sợ những ông vua bếp tưởng tượng. Chỉ còn tiếng thút thít”.
Một câu dài nhất trong đoạn xen vô những câu ngắn để làm nổi bật cảnh yên tỉnh và tối om trong bếp với cảnh huyên náo ở ngoài. Câu sau, tác giả lại chỉ ghi những âm thanh, bỏ cả động từ:
“Và ở ngoài ngõ tiếng ậm ực.”
Cả trong những đoạn đối thoại, ông cũng dùng những câu cụt ngủn:
“Thế thì tớ không biết. Lúc nẫy tớ cũng bán nốt cái chai ấy rồi. Tưởng nhà có hai cái thì đằng ấy đem đi một. Ai biết đâu? Tớ bán cho hàng đồng nát được hai xu rưỡi. Một trinh mua kẹo chia cả nhà. (Anh chàng có vẻ như phân bua). Hai xu thì để cạo cái đầu. Đầu nầy ba tháng nay chưa cạo, tóc mọc cả vào hai lỗ tai. Đêm nào cũng ngứa ngáy rậm rập. (Giọng anh chồng nể vợ, giảng giải bông đùa - tóc mọc cả vào hai lỗ tai - để chị vợ khỏi giận).
Lối văn đó rất hợp với tính tình dân quê (Nên so sánh với một đoạn đối thoại thiếu nghệ thuật của Khái Hưng trong truyện Anh phải sống mà tôi đã phân tích trong cuốn Luyện văn I.) Trừ những trường hợp đặc biệt, họ không lí luận, phân tích, cứ nghĩ tới đâu nói tới đấy. Tư tưởng của họ tới từng đợt, vẫn có sự liên lạc về ý nhưng thiếu sự liên lạc về lời. Nếu là chúng ta, tất đã nói:
“Anh có ngờ đâu?
Tưởng nhà có hai cái chai, mình mang đi một để mua dầu, còn dư một cái thì đem bán cho hàng đồng nát được hai xu rưỡi để cạo cái đầu, chứ ba tháng nay chưa cạo, tóc mọc cả vào lỗ tai, ngứa ngáy rậm rập suốt đêm. Cạo đầu mất hai xu, còn lại một trinh, mua kẹo chia cả nhà”.
Trong tác phẩm nào của Tô Hoài ta cũng gặp lối hành văn ấy. Tôi xin dẫn thêm một thí dụ ngắn nữa tả một đôi gi đá:
“Chàng - tức con chim gi chồng - xao xác trong cây hồng bì. Nàng cũng xục xạo trong cây. Như kiếm chác một cái gì. Chẳng có lẽ. Họ tìm chi trong tụm lá hồng bì đó? Loại gi đá không biết ăn sâu. Đâu có bông lúa vàng ở đấy. Kia, đôi vợ chồng lại bay ra đậu ở cành cây cụt. Họ nghiêng má nhìn trời. Trời cao và xanh không cùng. Vụt một cái, bốn cánh vút bay đi loang loáng. ”
(O chuột)
Tác giả tả loài vật và ghi những suy nghĩ của mình mà cũng như một ngưòi chụp hình, chụp dáng điệu của đôi chim, chụp cả những tư tưởng lần lần hiện ra trong óc. Hai tiếng vụt và vút ở câu cuối dùng rất khéo.
Nếu ông viết:
“Không có lẽ chúng kiếm cái gì ở đây vì chúng không ăn sâu, chỉ ăn bông lúa mà ở đây thì làm gì có bông lúa?” văn sẽ tầm thường như văn của mọi người và vẻ suy nghĩ của ông làm sao nổi bật lên giấy được?
Lối hành văn ấy khác hẳn lối của Nguyễn Tuân. Tô cho cảnh vật ở ngoài in ngay vào tấm kính của ông, còn Nguyễn bắt nó hòa vào tâm tư của mình, mượn thanh âm và màu sắc của tâm tư, rồi mới phản chiếu ra ngoài. Tô ghi lại, Nguyễn phân tích; nên Tô dùng những câu ngắn mà Nguyễn thường dùng những câu dài.
Chú thích:
[1] Bài này đăng trên Tiểu thuyết thứ bả, tháng ba năm 1949.
[2] Tức Bạch Cư Dị, đời Đường, tác giả mười khúc Tần trung ngâm (Tần là Trường An, kinh đô nhà Đường. Khúc thứ 7 nhan đề là Khinh phì (nhẹ béo). Vũ Bằng noi vết ông mà viết Khúc ngân đầt Hà (Hà là Hà Nội).
[3] Năm 1947.
[4] Tác giả muốn nói “khứu quan” chăng, vì ở sau ông kể đến nước hoa.
[5] Nơi tác giả ghé.
[6] Đoạn sau này còn ngạo đời hơn nữa: Tôi cố giảng cho ông (một phóng viên địa phương ở tỉnh Thanh cho một tờ báo ở Hà Nội) hiểu rằng tôi về đây (Thanh Hoá) là một việc khác. Việc nhà. Vợ tôi vừa tin cho tôi biết rằng cái thai mang nặng nơi bụng không còn được yên như mọi cái yên ổn ở đây. Vậy mà ông bạn tôi vẫn cho tôi là giả vờ với cái tính bí mật cố hữu của một đặc phái viên gì đó (Những ngày Thanh Hoá).