← Quay lại trang sách

Cảm nhận mưa mà không cần dù

Thuốc men là một khái niệm cực kỳ quyến rũ. Không chỉ đối với người bị trầm cảm, hay người điều hành một công ty dược phẩm, mà còn đối với xã hội nói chung. Nó nhấn mạnh cái ý cả trăm ngàn quảng cáo truyền hình chúng ta xem nện vào đầu chúng ta, đó là dùng thứ này thứ kia thì có thể chữa được mọi thứ. Nó khuyến khích một cách tiếp cận “cứ im miệng mà uống thuốc đi” và tạo một sự phân chia “chúng ta” và “họ”, ở đó mọi người có thể thư giãn và cảm thấy rằng “điên loạn” - mượn chữ ưa thích của Michel Foucault - đang được an toàn triệt hạ trong một xã hội đòi hỏi chúng ta bình thường thậm chí kể cả khi nó làm chúng ta điên loạn.

Nhưng thuốc trị trầm cảm và trị lo âu vẫn làm tôi thấy sợ. Đã vậy lại còn mấy cái tên - Fluoxetine, Venlafaxine, Propranolol, Zopiclone - nghe như nhân vật phản diện trong phim khoa học viễn tưởng vậy.

Thuốc duy nhất tôi từng uống có vẻ làm tôi thấy đỡ một chút là thuốc ngủ. Tôi chỉ có một hộp vì chúng tôi mua ở Tây Ban Nha, ở đó các dược sĩ mặc áo choàng trắng làm ta thấy an tâm và họ nói năng như bác sĩ. Tôi nghĩ chắc tên thuốc là Dormidina. Nó không giúp tôi ngủ nhưng nó giúp tôi thức mà không cảm thấy quá hãi hùng. Hay làm tôi cách xa nỗi hãi hùng đó. Nhưng tôi cũng biết rằng thuốc đó rất dễ gây nghiện và nỗi sợ không uống có thể nhanh chóng lấn át nỗi sợ uống.

Mấy viên thuốc ngủ cho phép tôi hoạt động đủ để về nhà. Tôi còn nhớ ngày cuối chúng tôi ở Tây Ban Nha. Lúc đó tôi đang ngồi bên bàn, không nói gì trong khi Andrea giải thích với Andy và Dawn, chúng tôi đang làm việc cho họ và trên danh nghĩa thì đang sống chung với họ (biệt thự đó của họ, nhưng họ hiếm khi ở đó) là chúng tôi sẽ về nhà.

Andy với Dawn là người tốt. Tôi thích họ. Họ lớn hơn tôi với Andrea vài tuổi, nhưng ở bên họ luôn thoải mái. Họ điều hành chương trình tiệc lớn nhất ở Ibiza, Manumission; vài năm trước nó khởi sự là một đêm vui chơi nhỏ ở khu đồng tính tại Manchester, rồi thành một kiểu Studio 54 ở Địa Trung Hải. Đến 1999 thì nó là chấn tâm của văn hóa hộp đêm, thỏi nam châm đối với những người như Kate Moss, Jade Jagger, Irvine Welsh, Jean Paul Gaultier, ban nhạc Happy Mondays, Fatboy Slim và hàng ngàn dân đi hộp đêm châu Âu. Nó từng có vẻ như thiên đường, nhưng giờ ý nghĩ về bao nhiêu nhạc và dân tiệc tùng đó dường như cơn ác mộng.

Nhưng Andy với Dawn không muốn Andrea đi.

“Sao em không ở lại đây? Matt sẽ không sao đâu. Cậu ấy trông ổn mà.”

“Anh ấy không ổn,” Andrea trả lời họ. “Anh ấy bệnh.”

Ít ra theo chuẩn Ibiza thì tôi không phải dân nghiện ma túy. Tôi nghiện rượu. Một tay mãi mãi không chịu thoát đời sinh viên tôn thờ Bukowski [1] ngồi dưới nắng trên đảo vừa bán vé ở phòng vé ngoài trời vừa đọc các tiểu thuyết bán ở sân bay (trong thời gian làm việc bán vé kiếm thêm tiền, tôi kết bạn với một ảo thuật gia tên Carl, anh ta đưa tôi mấy cuốn tiểu thuyết của John Grisham đổi lấy Margaret Atwood và Nietzsche) và nốc rượu. Dù vậy đi nữa, tôi điên cuồng mong ước là trong đời mình chưa từng uống gì mạnh hơn cà phê. Nhất định là tôi ước gì mình đã không uống nhiều chai Viña Sol và ly vodka pha chanh như vậy trong tháng vừa qua, hay ước gì mình đã ăn vài ba bữa ăn sáng tử tế, hay ngủ nhiều hơn một chút.

“Cậu ấy có vẻ bệnh gì đâu nào.” Mặt Dawn vẫn còn dính kim tuyến từ cái chốn nào đó chị đã ở đêm qua. Cái đống kim tuyến đó làm tôi xôn xao.

“Em rất tiếc,” tôi nói yếu ớt, ước gì mình có chứng bệnh dễ thấy hơn.

Cảm giác có lỗi như búa nện nhừ tôi.

Tôi uống thêm viên thuốc ngủ và liều Diazepam chiều rồi chúng tôi ra sân bay. Tiệc tan.

Khi dùng Diazepam hay thuốc ngủ, tôi chưa bao giờ cảm thấy được “chữa” chút nào. Tôi vẫn như cũ. Tôi nghĩ bất quá thuốc chỉ tạo một khoảng cách. Thuốc ngủ buộc đầu óc tôi chậm lại một chút, nhưng tôi biết thật ra không có gì thay đổi. Cũng như, nhiều năm sau, khi uống rượu lại, tôi thường đối phó với chứng lo âu thể nhẹ bằng cách uống cho say, dù biết rằng nó vẫn sẽ ở đó chờ tôi cùng với cơn váng vất.

Tôi miễn cưỡng thú thật là mình bài bác mọi thứ thuốc, vì tôi biết với một số người thì vài loại thuốc cũng có tác dụng. Trong một số trường hợp chúng có vẻ làm tê liệt cái đau đủ để quá trình giúp phục hồi thật sự xảy ra. Trong những trường hợp khác, chúng đem lại một giải pháp phần nào dài hạn. Nhiều người không thể thiếu chúng. Trong trường hợp tôi, sau những cơn hoảng loạn mất phương hướng do uống Diazepam thì tôi sợ uống thuốc đến mức tôi chưa từng thật sự uống gì để trực tiếp trị trầm cảm (hoảng loạn và lo âu thì trái lại).

Riêng tôi, tôi mừng là tôi đã phần lớn cải thiện được tình trạng của mình mà không nhờ thuốc men và cảm thấy rằng phải nếm trải cái đau không có “thuốc tê” nghĩa là tôi đã phải biết cơn đau của mình rất rõ và đâm nhạy với những xê dịch lên xuống khó thấy trong tâm trí mình. Dù tôi cũng thắc mắc, nếu tôi có can đảm chống lại những cơn hoảng loạn sợ thuốc đó, nó có làm cái đau bớt đi không. Đó là cái đau liên miên, không dứt đến độ giờ chỉ nghĩ tới nó cũng ảnh hưởng đến hô hấp của tôi và tim tôi có thể suy. Tôi nghĩ đến chuyện ngồi trên ghế cạnh tài xế, bị nỗi kinh hoàng nặng trĩu nhấn chìm. Tôi phải ngồi nhổm lên trên ghế, đầu chạm mui xe, cơ thể tôi cố trèo ra khỏi chính nó, da sởn gai ốc, đầu óc vù vù nhanh còn hơn khung cảnh tối đen bên ngoài. Không phải nếm trải kinh hoàng kiểu như vậy thì tốt biết mấy, nên nếu một viên thuốc giúp được gì thì tôi đã uống. Nếu tôi có thứ gì làm giảm cơn thống khổ (và thật sự đúng là chữ đó) trong đầu thì có lẽ đã dễ hồi phục hơn. Nhưng vì không uống, tôi đâm rất nhạy với bản thân. Điều này giúp tôi biết chính xác cái gì làm tôi thấy đỡ hơn (tập thể dục, ánh nắng, giấc ngủ, trò chuyện sôi nổi, v.v...) và sự tỉnh táo này, sự tỉnh táo mà từ kinh nghiệm của chính mình và người khác tôi biết là có thể mất đi vì dùng thuốc, cuối cùng đã giúp tôi dựng lại mình từ số 0. Nếu tôi bị đờ đẫn đi hay cảm thấy sự khác biệt mà thuốc men làm ta cảm thấy, tình hình ắt đã gay go hơn.

Giáo sư Jonathan Rottenberg, một nhà tâm lý học tiến hóa và tác giả cuốn Vực sâu , năm 2014 đã viết những lời có tác dụng an ủi kỳ lạ:

Chúng ta sẽ kiềm chế được trầm cảm tốt hơn bằng cách nào? Đừng chờ đợi thuốc thần. Một bài học rút ra được từ điều trị đau kinh niên, đó là ta khó mà không đếm xỉa đến những phản ứng đã gài sẵn trong thể xác và tinh thần. Thay vì vậy, chúng ta phải đi theo sự dẫn dắt của cơ cấu tổ chức tâm trạng, để ý đến các nguồn cơn khiến biết bao người rơi vào tâm trạng chán nản - chẳng hạn những công việc thường ngày đề cao quá nhiều làm lụng và quá ít ngủ nghỉ. Chúng ta cần hiểu biết rộng hơn về tâm trạng và nhận ra các công cụ có thể cắt ngang trạng thái chán nản trước khi nó kéo dài hơn và nghiêm trọng hơn. Các công cụ này bao gồm thay đổi cách ta suy nghĩ, các sự kiện quanh ta, các mối quan hệ và tình trạng trong cơ thể ta (bằng thể dục, thuốc men hay chế độ ăn).

Nhà thơ, nhà văn người Mỹ gốc Đức, “một tác giả bi quan”, “nhà thơ vinh danh khu ổ chuột”.