Chương 43 .
Tiệc mừng là một thành công lớn, mọi người đều rất vui, nhất là tôi. Tôi có những người bạn tốt như thế, và họ hàng của tôi phần lớn đều dễ thương. Cuối cùng thì cuộc đời lại bắt đầu có ý nghĩa nào đó. Rồi sau đó...
- Này, người lạ! - Bonnie Clesnik nói, chị buông tờ thực đơn và suýt lật đổ bàn lúc ôm ghì lấy tôi giữa Dragon Flower phố Mott, ngày Chủ nhật sau tiệc mừng.
Tôi nhìn khắp nhà hàng rực rỡ thái quá. Chỗ nào cũng có bể cá trông vẩn đục. Khi người bạn cũ của tôi, trung úy Bonnie gọi tôi ra ngoài với chị, tôi tưởng là một quán ăn xoàng, các món nướng rán làm lấy, có thể vài chai Virgin Mary.
Tôi chớp mắt lúc cầm thực đơn, thấy hình con rùa và ếch. Ái chà. Bữa lỡ ngày Chủ nhật ở khu phố Tàu đây. Tôi đoán Bonnie chưa bao giờ bị buồn nôn buổi sáng.
- Mình không thể tin là bị nhỡ bữa tiệc tiễn cậu về hưu và mừng cậu có thai. - Bonnie nói lúc chúng tôi đã yên vị. - Có người ở ca ba gọi điện báo ốm, và cậu có biết không? Mình bị đến thay.
- Để dành sự nuối tiếc lại, Bonnie. - Tôi nói và mỉm cười. - Mình đang ở đây này. Thế này mới vui chứ. Hoàn hảo. - Miễn là tôi chịu được món ăn Tàu.
- Này. - Đang ăn dở đĩa dimsum, Bonnie nói. - Bỗng dưng cậu thay đổi nhiều thứ thế. Mình cứ ngỡ họ phải bẩy cậu khỏi công việc kia đấy. Tất nhiên là mình mừng cho cậu và Paul, nhưng... mình không biết nữa. Mình đã thấy cách cậu giải quyết các vụ rồi, Lauren. Ánh lấp lánh trong mắt cậu. Cậu có thể không biết sợ là gì. Mà này, mình không phải là nữ cảnh sát duy nhất được cậu truyền cho cảm hứng. Mình nghĩ là thật khó hình dung được cậu quay gót ra đi. Dù sao mình cũng không thể coi cậu như một người mẹ bận bịu tối ngày vì con cái.
Thôi nào, Bonnie. Cảm ơn sự tin cậy của cậu, tôi nghĩ. Đây chẳng phải là dịp kỷ niệm sao? Cứ để cho nó thoải mái đi chứ?
Bonnie bỗng đặt đũa xuống.
- Suýt quên. - Chị nói. - Mình có quà tặng cậu. Bonnie lấy trong xắc một phong bì lớn bằng giấy tơ chuối và đưa cho tôi. Tôi mở nắp.
- Chỉ là thứ mình luôn muốn có. - Tôi nói và nhìn những trang giấy rồi đăm đăm nhìn bạn, chế nhạo. - Một bản dữ liệu máy tính.
Bây giờ là chuyện gì nữa đây?
- Mình nhận được từ phòng thí nghiệm của FBI hôm thứ Sáu. - Bonnie nói. Chị lấy khăn ăn thấm nhẹ lên miệng và nhìn thẳng vào mắt tôi, vẻ ân cần. - Đây là kết quả xét nghiệm ADN mình tìm thấy trên tấm đắp bọc xác Scott Thayer.
Trong giây lát, cả thế giới trắng lóa lúc một luồng nóng bỏng đột ngột xuyên suốt người tôi.
Tấm Neat Sheet khốn kiếp của chúng tôi! Tôi nhớ rõ cuộc picnic mà Paul đã cung cấp mẫu ADN của anh!
Đó là dịp kỷ niệm đầu tiên của chúng tôi. Paul đưa tôi và hai chai champagne đến công viên Rockwood Hall tuyệt đẹp ở Bắc Tarrytown. Còn gì đẹp hơn với chúng tôi nữa? Tôi do dự. Cuối hè. Rượu champagne, tiếng dế nỉ non, và chỉ có hai chúng tôi. Đây là lần đầu tiên chúng tôi cố có thai.
Tôi liếc nhìn những trang giấy, rồi nhìn cô bạn.
- Cậu đang nói gì vậy? - Tôi hỏi Bonnie. - Mình tưởng cậu đã nói là chỉ tìm thấy máu của Scott.
- Sau khi cạo sạch máu, mình chú ý đến một thứ khác, một vệt cũ hơn. Hóa ra là tinh dịch khô. Chỉ đủ xét nghiệm ADN.
Tôi liếc nhìn trang giấy. Nó sẽ là gì với vụ Scott đã đóng lại? Tôi tự hỏi. Nước thánh ư? Đóng cọc qua tim ư? Bắn bằng viên đạn bạc ư?
Khốn khổ nhất là lúc này tôi biết nói gì đây? Hình như Bonnie đợi một điều gì đấy ở tôi.
- Sao trước kia cậu không nói với mình việc này? - Cuối cùng, tôi thu hết can đảm hỏi.
- Mình đã thử. - Bonnie nói. - Nhưng đúng vào buổi sáng Ordonez bị bắn, mình không thể liên hệ được với cậu. Ngày hôm sau, khi mình gọi cho trung úy của cậu, ông ấy bảo mình ỉm cái này đi. Người ta đã tìm thấy súng của Scott trên người Victor Ordonez, và vụ này là vụ xúc động và hiệu quả.
- Thế vấn đề là gì? - Tôi nói. Bonnie buột một tiếng thở dài.
- Mình có thể nói gì với cậu đây? ADN không phải của Ordonez. Mình tin chắc thế.
Tôi đọc được ngay những hàm ý. Họ đã có ADN của Paul! Nó sẽ hủy hoại anh, hủy hoại cả hai chúng tôi. Kể cả đứa con là ba.
- Thế thì của ai? - Tôi thận trọng hỏi.
- Bọn mình không biết. - Bonnie trả lời.
Tạ ơn Chúa, tình hình không đến nỗi tệ hại, tôi nghĩ. Nhưng không may, Bonnie chưa nói hết.
- Nhưng bọn mình đã lấy được một mẫu ở hiện trường khác. - Chị nói. - Thế thì sao đây?
Sao kia? Tôi sẽ tự tử ở đây, tại Dragon Flower ư?
Lời ám chỉ kinh sợ và mơ hồ giáng thẳng vào giữa ngực tôi như một quả đấm.
- Lại cho mình xem vậy. - Tôi nói với Bonnie.
- Cơ sở dữ liệu của FBI đã thu thập các mẫu ADN ở các hiện trường trong vùng để tìm danh tính thủ phạm. Hóa ra trùng ADN với tinh dịch trên tấm mền trong vụ của cậu, đã tìm thấy ở hiện trường khác, một vụ cướp có vũ trang ở Washington DC. Xảy ra từ năm năm trước. Vụ này chưa bao giờ khép lại.
Sự kinh hãi cồn cào trong bụng tôi bỗng thay đổi cách tấn công và chẹn ngang họng tôi. Tôi băn khoăn suy nghĩ tuy vẫn giữ tư thế ngồi rất thẳng.
Không. Không thể thế được. Điều Bonnie nói có nghĩa là...
Paul dính dáng đến một tội ác khác? Một vụ cướp có vũ trang?
Người phục vụ tới và Bonnie trả tiền. Rồi chị với tay qua bàn và vỗ nhẹ vào bàn tay tôi.
- Mình không có ý đổ dồn mọi chuyện này lên cậu cùng một lúc, Lauren. - Bonnie nói. - Mình cũng sửng sốt không kém gì cậu.
Muốn chắc ăn ư? Tôi nghĩ và hạ cái nhìn xuống bàn.
- Một vụ cướp có vũ trang ở DC? - Tôi thì thào, miệng tôi bỗng nhiên như nhét đầy bông. - Cậu có chắc không, Bonnie?
- Họ đã gửi cho bọn mình bản tóm tắt về sự trùng khớp với ADN ở mẫu máu tìm thấy trong vụ cướp có vũ trang tại một khách sạn ở DC. Nhưng vụ đó chưa phá được, và vẫn còn mở. Sự trùng khớp có nghĩa là bọn mình có những chất dịch vô danh ở hai hiện trường khác nhau. Tinh dịch trên tấm mền dùng gói Thayer. Và máu trong một phòng khách sạn ở DC.
Như thế có nghĩa gì? Rõ ràng họ chưa biết những thứ đó là của Paul. Dường như đấy mới là vấn đề, tôi nghĩ lúc vùi cái đầu tàn tạ vào hai bàn tay. Hình như mọi sự kết thúc ở điểm này.
Bonnie vẫn nói nhưng tôi hầu như không nghe thấy chị nói gì. Tôi chỉ còn biết chớp mắt và gật đầu. Điều không thể đã xảy ra. Lần đầu tiên, tôi thực lòng thôi quan tâm đến vụ của Scott. Tôi đã có một thứ sao lãng mới mẻ.
Gần năm năm trước, Paul đã dính dáng đến một vụ cướp có vũ trang trong một phòng khách sạn? Đầu tôi quay cuồng vì ý nghĩ ấy, rồi nhanh chóng dừng lại.
Vì điều đó là không thể. Nhưng ADN không nói dối.
Lúc tôi ngước nhìn, tôi thấy Bonnie đăm đăm nhìn mình, đợi một lời bình luận.
- Vậy việc này có nghĩa gì? - Tôi nói như thể không biết câu trả lời. - Victor Ordonez không giết Scott ư?
Bonnie nhìn đám đông trên phố Mott qua cửa sổ. Trong mắt chị lộ vẻ đau đớn.
- Mình không biết. Làm sao mà biết được, hả Lauren? Có lẽ hắn chỉ mượn tấm mền của một người bạn, nhưng rõ ràng là đã gây nhiều nghi ngờ. - Chị nói. - Loại ngờ vực mà luật sư biện hộ có thể nói cả ngày. Chưa kể đến giới báo chí.
Tôi nhìn những chữ Tàu bằng neon trong tủ kính nhà hàng. Một con lươn màu đen trong bể nuôi cạnh ngăn chúng tôi đang đập đầu vào kính như cố làm tôi chú ý và nói điều gì đó. Này, Lauren. Sao cô không gào lên và chạy khỏi nhà hàng? Đừng ngừng lại cho đến lúc tới Bellevue.
Bonnie vuốt thẳng những tờ giấy trên mặt bàn, cho vào phong bì và nhét tất cả vào xắc của tôi.
- Nhưng mình quyết định rằng đây là loại nghi ngờ mà thành phố này, cơ quan này, vợ Scott và nhất là cậu, Lauren ạ, chẳng cần bác bỏ.
Chị chỉ cái xắc của tôi:
- Chính vì thế mình tặng nó cho cậu. Vụ này rút cạn sức lực của những người liên quan. Đây là món quà mình tặng cậu nghỉ hưu. Tên của thám tử ở DC và thông tin liên hệ ở đâu đó trong những tờ giấy này, nếu cậu còn muốn theo đuổi riêng. Hoặc cậu có thể vứt nó qua cầu Brooklyn. Tùy cậu.
Bonnie đặt nụ hôn thắm thiết lên trán tôi lúc chị đứng dậy.
- Có điều mình biết rằng là một cảnh sát, cậu làm những điều có thể. Đây không phải lỗi của chúng ta khi không làm trọn vẹn. Lauren ạ, cậu là bạn mình, mình yêu quý cậu và cậu xứng đáng được thế. Hẹn gặp lại cậu.
Vài giờ sau, tôi đứng trong bóng tối ở công viên Battery, cực Nam Manhattan.
Manhattan, cha tôi hay nói trước khi chúng tôi bắt đầu những cuộc tản bộ ba lần một tuần ở chính công viên này. Guồng quay vĩ đại nhất trên đời.
Bài tập thể dục hàng ngày sau khi nghỉ hưu của ông gồm đi xe điện ngầm từ đây đến ga cuối, đi bộ qua Broadway, xem ông đi được bao nhiêu dặm đường bê tông của Manhattan thì mệt và nhảy lên xe điện ngầm về nhà. Suốt thời gian học ở trường Luật, tôi đi cùng ông mỗi khi có dịp. Lắng nghe ông kể về các tội ác, những vụ bắt giữ xảy ra trên vô số giao lộ. Chính từ một trong những cuộc tản bộ với cha khiến tôi muốn trở thành cảnh sát hơn là luật sư. Tôi muốn được giống cha.
Chính ở nơi này, bắt đầu chuyến đi bộ một mình, cha tôi đã mất vì một cơn đau tim. Dường như ông không có cách nào khác là dạo qua các nẻo đường trong thành phố mà ông đã phục vụ và yêu quý.
Tôi để bản báo cáo của FBI dựa vào chấn song han gỉ trước mặt lúc lắng nghe những làn sóng mơ hồ vỗ vào cầu tàu bằng bê tông.
Chỉ khi nào con hoàn thành trò chơi đố chữ gay cấn nhất này, cha ạ, tôi nghĩ.
Con đã được giao phó một thứ bất thường. Câu chuyện đời con gần đây.
- Con phải làm gì hở cha? - Tôi thì thầm lúc nước mắt chảy dài trên má. - Con không biết làm gì bây giờ.
Tôi biết chính xác chỉ có hai lựa chọn.
Tôi có thể vứt món quà của Bonnie đi như một chứng cứ còn lại, rồi đến với cuộc sống mới ở Connecticut, làm một người mẹ hạnh phúc.
Hoặc có thể tát vào mặt mình vì từ bỏ và hình dung cuộc sống sắp tới của tôi đầy khổ ải với người chồng khó hiểu của tôi.
Tôi giơ chiếc phong bì lên trên chấn song. Việc này thật dễ dàng.
Chỉ cần tôi mở các ngón tay ra là xong.
Tôi sẽ đi tàu lên phương Bắc, nơi an toàn, yên ổn, chồng tôi và cuộc sống mới của tôi đang đợi.
Một cơn gió mạnh cuốn nước, vỗ cái phong bì phần phật trong tay tôi.
Buông nó ra, tôi nghĩ. Buông nó ra, buông nó ra. Nhưng rốt cuộc, tôi cấu móng tay vào phong bì và ấp chặt nó vào ngực.
Tôi không thể. Tôi cần đi tới tận cùng vụ này, dù nó khó khăn, xấu xa đến chừng nào. Ngay cả sau tất cả những việc tôi đã làm, những điên rồ, tổn thương bạn bè và che giấu sự việc, tôi vẫn còn một mảnh của thám tử trong con người tôi. Có lẽ còn hơn một mảnh.
Tôi nhắm nghiền hai mắt. Tôi cảm thấy ở nơi nào đó trong bóng tối của công viên đằng sau tôi, một ông già đang duỗi chân, khởi động cho cuộc tản bộ. Lúc quay ngoắt lại tìm chiếc taxi, tôi cảm thấy qua khóe mắt một người đang gật đầu về phía tôi, nụ cười hiện trên gương mặt.
Sáng hôm sau, hơn tám giờ một chút, người chuyên pha cà phê ở Starbucks bên kia phố Pearl, cơ quan của Paul nhếch lông mày ngạc nhiên nhìn tôi.
Vui thật, tôi nghĩ. Tưởng chừng như trước kia cô ta chưa bao giờ thấy một người đàn bà đầu tóc rối bời, xúc động hỏi mua hết lớp trên hộp bánh nướng vậy.
Sau lễ hiển linh ở công viên Battery đêm qua, tôi gọi điện cho Paul bảo anh rằng Bonnie muốn tôi lưu lại trong thành phố để tưởng nhớ thời xưa. Rồi tôi lang thang lên Broadway như một kẻ vô gia cư đến tận nửa đêm.
Tôi đã đi suốt quãng đường đến The Midtown, đến phía nam Ed Sullivan Theater, chân tôi mỏi rời.
Tôi chỉ còn đủ sức quăng cái khăn trải giường màu cam có nhiều vết lốm đốm đáng ngờ vào một góc căn phòng thuê ba trăm đôla một đêm, rồi thiếp đi. Khá đắt, nhưng Paul có thể trả được.
Bảy giờ sáng tôi thức giấc, không tắm rửa, tôi rời khách sạn và bắt taxi trên đại lộ Bảy, nhằm khu thương mại đến quận tài chính.
Lần đầu tiên trong tháng, tôi sắp đặt một trò chơi. Tôi biết chính xác mình phải làm gì.
Chất vấn Paul.
Tôi không cần biết nó đạt được gì. Tôi vừa là cảnh sát giỏi vừa là cảnh sát tồi. Tôi liều mang theo cuốn danh bạ điện thoại khách sạn phòng khi phải bắt anh ta nói ra sự thực. Một việc chắc chắn. Paul sẽ phải thuật lại với tôi diễn biến sự việc nếu đấy là việc cuối cùng anh ta từng làm.
Theo cách tôi cảm nhận khi đứng trong cửa hàng Starbucks bên kia văn phòng Paul, đấy là khả năng dễ thấy.
- Còn gì nữa không ạ? - Cô nhân viên hỏi và đẩy bữa sáng năm calo qua quầy.
- Cô chẳng còn gì nữa hết. - Tôi bảo cô ta.
Trong chiếc ghế bành bọc nhung đỏ tía ngoại cỡ cạnh cửa sổ, tôi đọc báo cáo của FBI từ đầu chí cuối.
Tôi đăm đăm nhìn các bản chụp bằng tia phóng xạ - những mã số kẻ sọc theo chiều thẳng đứng của AND - của hai hiện trường tội ác cho đến lúc mờ mắt.
Không hề nhầm lẫn, không thể phủ nhận những điều hiển hiện trên giấy. Tôi không cần biết số biến thiên lặp lại hoặc điểm STR nghĩa là gì, cũng thấy hai mẫu giống hệt nhau.
Tôi để bản báo cáo xuống và để mắt tới cái cửa quay ở tòa nhà công sở lắp kính đen của Paul bên kia đường phố hẹp, tôi bắt đầu việc ăn uống bắt buộc theo kỷ lục thế giới. Đấy, phải cai tiệt rượu và thuốc lá. Làm cảnh sát mang thai có bực mình không kia chứ?
Mười lăm phút sau, tôi đang liếm kem sôcôla trên ngón tay thì phát hiện ra mái đầu vàng hoe của một người đàn ông tầm vóc như Paul giữa đám complê công sở và cà vạt. Không thể phủ nhận là anh chàng rất điển trai. Đấy là người đã từng và đang là chồng tôi. Có lẽ là người duy nhất.
Tôi uống nốt ngụm expresso nâu nâu, từ tốn sửa sang lại và chộp lấy báo cáo của FBI.
Đi ra và giơ tay lên, Paul, tôi nghĩ lúc băng qua đường phố Pearl hẹp, rợp bóng. Mụ vợ khốn nạn của mi, mụ vợ đang có thai của mi có súng trong xắc đây.
Nhưng lúc đứng trong hàng sau một anh chàng nhân viên bưu điện bên bàn an ninh, tôi chú ý đến một việc kỳ quặc.
Paul đã ở trong cửa của một thang máy mở. Chúng ta lại đến đây, tôi nghĩ.
Không như đội quân tài chính tràn lan, complê kẻ sọc nhỏ, anh đi ra như con cá hồi bơi ngược dòng, một con cá hồi lẻ loi.
Dù gì đi nữa, tôi nghĩ và len qua đám đông bước nhanh tới chỗ anh ta. Nó tiết kiệm cho tôi một chuyến thang máy.
Nhưng lúc đến gần hơn, tôi nhận ra cái ba lô bắt chéo qua ngực anh. Tay anh xách túi mua hàng.
Túi màu xanh lơ của hãng Tiffany.
Tôi chết lặng dừng lại, và lặng lẽ quan sát anh đi ra cửa.
BA LÔ? TÚI TIFFANY? Paul định đi đâu vậy? Bây giờ đang có chuyện quái quỷ gì đây? Tôi có thực sự muốn biết không?
Có! Tôi quyết định phải khám phá bằng được, lúc nhìn anh vẫy taxi.
Xe của anh vừa chuyển bánh thì tôi huýt gió gọi và vẫy được chiếc tiếp theo đỗ lại.
- Nghe có vẻ liều. - Tôi bảo người lái xe quấn khăn xếp màu cam. - Đi theo chiếc xe kia.
Chúng tôi đi. Lên Midtown Manhattan. Rồi qua đường hầm Midtown lên đường cao tốc Long Island.
Khi xe chúng tôi đến đường cao tốc Brooklyn- Queens, tôi gọi vào di động của Paul.
- Chào Paul. Có chuyện gì thế? - Tôi nói lúc anh trả lời sau vài tiếng chuông reo.
- Lauren, - Paul nói. - Đêm qua em ngủ ra sao? - Tôi nhìn thấy anh qua gương chiếu hậu của chiếc taxi trước tôi, tay cầm điện thoại.
- Rất ngon. - Tôi nói. - Nghe này, Paul. Em chán lắm. Em đang nghĩ gặp anh cùng đi ăn trưa nay. Có được không, anh?
Ngay ở đây, Paul. Thời điểm để anh nói thật.
- Không được đâu, bé ạ, - Paul nói. - Em thừa biết các ngày thứ Hai là không thể được. Bọn anh có sáu bảng lương phải rà soát, làm đi làm lại. Em có thể thấy lúc này sếp anh còn đang bên bàn làm việc. Ông ấy vừa uống thuốc trợ tim kia kìa. Tối nay nếu anh ra khỏi đây lúc tám giờ là may lắm rồi. Anh xin lỗi. Anh sẽ đền em, hứa đấy. Em thấy thế nào?
Biển hiệu màu xanh lúc chúng tôi tăng tốc “Sân bay Laguardia”. Tôi phải bịt chặt ống nghe để chặn tiếng nức nở.
- Anh giữ sức khỏe nhé, Paul. - Một giây sau, tôi nói. - Đừng lo cho em. Hẹn gặp anh tối nay. Nếu không sớm hơn, anh chàng điển trai ạ!
Tại sân bay, tôi phải chìa phù hiệu và thẻ NYPD ra để qua cửa an ninh mà không cần vé. Rồi tôi lẩn vào dòng người lúc theo Paul đi xuống đám đông khởi hành, qua các quầy báo chí, cửa hàng bán đồ lưu niệm và các quán bar.
Đi trước tôi khoảng ba chục mét, anh ta bỗng dừng lại. Rồi ngồi xuống bên cổng 32.
Giữ khoảng cách bằng một dãy bốt điện thoại, tôi cảm thấy vết loét trong dạ dày tôi nổ tung khi nhìn thấy điểm đến của anh ta.
Washington DC.