← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III : THỜI-ĐẠI (1785-1849)

Lý Văn-Phức là người hậu bán thế-kỷ XVIII qua tiền bán thế-kỷ XIX, tức là cuối Lê (Cảnh-hưng thứ bốn mươi sáu, 1785) qua Tây-sơn (1788-1802) đến đầu triều Nguyễn (1802-1849). Vậy ta thử lấy lịch sử làm bối-cảnh, xét qua khoảng thời-gian mà ông sống ấy.

Việc chiến-tranh. – Cuối năm mậu-thân (1788), hai mươi vạn quân Mãn-thanh lót miệng bằng tiếng « cứu viện Lê Chiêu-thống » (1787-1789) kéo sang Việt-nam, chiếm đóng Thăng-long: Mỗi ngày Tôn Sĩ-Nghị, tướng Thanh, xử tử hàng ba, bốn chục mạng người!

Từ năm đinh-mùi (1787), Bắc-hà đã trải biết bao tai nạn: « Gió to, bão lớn, nước biển tràn ngập, mất mùa, đói kém. Nhân dân ở vùng Bắc và vùng Nam đều phải phiêu lưu tan tác. Không có cơm, phải luộc cỏ mà ăn ; không có nhà ở, phải lộ thiên mà nằm. Người nào có thóc, lại không có muối... » 9. Đến khi quân Thanh kéo sang, dân đã khổ vì đói kém, khổ vì bị hiếp đáp, lại phải chịu thêm cái khổ nữa và trĩu vai òe cổ gánh vác việc cung-đốn giặc! Vắt từ bồ hôi nước mắt của hạng người kheo-khư ốm đói, vua tôi Lê Chiêu-thống nặn lấy rượu, thịt, cơm, gạo cho quân Thanh và rơm, cỏ, lá tre, ngô, thóc cho lừa ngựa chúng. Chỉ thiếu một gánh cỏ, một đấu thóc, anh dân đen cũng đủ bị đánh nát thịt hay phải tù mọt gông rồi 10.

Tháng giêng năm kỷ-dậu (1789), vua Quang-trung từ Thuận-hóa kéo quân ra Bắc, phá diệt quân Thanh, đại thắng ở những trận Hà-hồi, Ngọc-hồi và Đống-đa...

Từ năm nhâm-tí (1792), sau khi Quang-trung mất, nạn nội chiến lại bùng nổ: Nguyễn Phúc-Ánh đem quân đánh lấy Gia-định, rồi hạ Phú-xuân, rồi ra Bắc-thành, cuộc nội loạn mãi đến năm nhâm-tuất (1802) mới chấm dứt.

Trong những ngày loạn ly ở thời-kỳ nội chiến ấy, dân chúng cơ cực lầm than, luôn năm đói kém, nỗi thống khổ không sao tả xiết.

Quốc văn. – Từ đời Lê Cảnh-hưng (1740-1786), thơ nôm đã có một địa vị kha-khá trên đàn văn học, được dùng vào những « việc Triều-đình » như việc phủ liêu mừng vợ chúa Trịnh được kim sách phong làm chính phi (1755), việc đình thần mừng mưa khi hạn hán (1769)...

Đến nhà Tây-sơn, vua Thái-đức (Nguyễn Nhạc) từ khi lên ngôi (mậu-tuất, 1778) đến năm mậu-thân (1788) đi mười một năm trường, rất có đủ thì giờ để lựa dùng những nhà nho học yêm bác làm việc thảo văn thư, viết chiếu chỉ, nhất là Bình-vương Nguyễn Huệ là Đại nguyên súy tổng quốc chinh, rất có đủ điều kiện mà mời những bậc thông nho ở đương thời để nhờ giúp việc văn hàn từ lệnh. Thế mà tờ chiếu do Bình-vương Nguyễn Huệ gửi cho La-sơn phu-tử Nguyễn Thiếp đề năm Thái-đức 11 (1788) cũng viết chữ nôm 11. Vậy đủ biết quốc văn bấy giờ được coi trọng là thế nào!

Dưới triều Cảnh-thịnh (1793-1800) và triều Bảo-hưng (1800-1802), quốc văn lại dùng vào những việc quân quốc trọng sự như hiệu triệu tướng súy (1794), tế Vũ Hoàng-hậu (1799) và hiểu dụ quân, dân thành Quy-nhân (1800)... 12

Đến hồi Nguyên sơ, đầu thế kỷ XIX, xu hướng chuộng quốc văn lại lên sao: nào văn tế bằng quốc văn, như những bài tế Võ Tính và Ngô Tùng-Chu, tế trận vọng tướng sĩ (1804) ; nào viết truyện bằng quốc văn, như Bích câu kỳ ngộ, Phan Trần, Nhị độ mai, rồi kết tinh trong truyện Kiều của Nguyễn-Du (1765-1820), một tác phẩm bất hủ...

Phải chăng những xu hướng quốc văn ở mấy triều-đại trên đây rất có ảnh hưởng đến đời văn học của Lý Văn-Phức, nên đã thúc đẩy ông, ngoài những tác phẩm Hán văn, cũng viết nhiều văn nôm nữa? (Xem chương IV).

Chú thích:

[9] Theo Việt-nam phong sử của Tiểu-cao Nguyễn Văn-Mại (sách chưa in).

[10] Theo Quang trung của H.B., Bốn phương, Sài-gòn, 1951.

[11] Xem Quốc văn đời Tây-sơn của H.T.T., Vĩnh bảo, Sài-gòn, 1950, trang 15-16.

[12] Xem Quang-trung của H.B, Bốn-phương, Sài-gòn, 1951, trang 288-289.