← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV : TÁC-PHẨM TIẾNG VIỆT

Lý Văn-Phức là một nhà khoa-bảng, sống ở thời đại Hán-học đang thịnh-hành, có điều khác với nhiều nhà văn khác ở đương thời, ông ngoài Hán văn, lại còn viết nhiều Việt văn nữa. Nhưng đối tượng nghiên cứu của sách này chỉ nhằm những tác phẩm bằng tiếng Việt.

Vậy, phàm những tập văn thơ chữ Hán của ông như Tây hành kiến văn kỷ lược, Tây hành thi ký (hoặc kỷ), Mân hành tạp vịnh, Tiên-thành lữ hoại, Việt hành thi thảo, Việt hành tục ngâm Kính-hải tục ngâm và Chu-nguyên tạp vịnh thảo... 13 nếu cần, chỉ dùng làm tài liệu tham khảo, chứ không liệt vào bảng tác phẩm ở chương này.

Vậy, về Việt văn, Lý Văn-Phức có những tác phẩm gì? Theo chỗ chúng ta biết, thì ông có:

1)Nhị thập tứ hiếu diễn âm,

2) Sứ trình tiện lãm khúc,

3) Tự thuật ký,

4) Phụ châm tiện lãm, 14

5) Bất phong-lưu truyện.

6) Chu hồi, trở phong thán,

7) Thiên tự văn diễn âm... 15

Nay vì điều kiện chưa thuận tiện, chúng ta chỉ có thể làm việc nghiên cứu những tác phẩm Việt văn nào của ông mà ta hiện có.

Đến chương VII, sẽ nói kỹ về Nhị thập tứ hiếu diễn âm của Lý Văn-Phức. Bây giờ hãy xin giới thiệu sơ qua một vài tác phẩm Việt-văn khác của Lân-chi chưa hề in ra quốc-ngữ.

TỰ THUẬT

Tức là Tự thuật ký 16. Bài này, tác giả Lý Văn-Phức viết bằng thể văn biền ngẫu (đối nhau). Mở đầu: « Ở cõi giời Nam, có người đất Bắc... »

Nội dung, tác giả thuật mình sinh hồi Lê mạt, đương buổi loạn lạc binh đao. Lúc bé, nhờ có cha nhà rèn-cập, may được ăn học ra người. Lớn lên, thi Hương từ khoa đinh-mão (1807) nhưng hỏng tứ trường (kỳ thứ tư). Vì nhà nghèo, lại còn cha mẹ già, phải gắng lo sinh kế: lúc làm thày đồ ở làng Cổ-khúc 17, khi ngồi dạy học ở Thăng-long. Thường thường lại phải làm thêm nghề mọn thuật-số như lấy tử-vi và bói dã-hạc. Rồi chật vật hàng mười hai năm nữa mới đỗ hương-tiến (tức cử-nhân) khoa kỷ-mão 18, năm Gia-long thứ 18 (1819).

Đến năm canh-thìn 19, Minh-mệnh nguyên niên (1820), ông được bổ nhậm. trong khi bể hoạn dương buồm, lúc thăng, lúc giáng, lúc được phái đi ngoại quốc, lúc phải đày-ải gông cùm, nếm trải biết bao vinh, nhục...

Vinh thay, thủa ra vào bên điện-bệ, phận hàn-sĩ thoắt nhảy ngôi quan cả, tuy chẳng được bảng vàng, bia đá 20, nghĩ lại sáu bảy năm chừng ấy, tám chín phần chưa giả nợ sách đèn! Nhục thay, khi ngồi đứng gốc hành-dương 21, thân á khanh cam sánh kẻ lính già, gượng cho qua cháo muối, cơm đồ 22, tính dồn ba bốn tháng dài ghê, trăm nghìn nỗi đã cam mùi cay đắng!

Sau khi thuật hết những nỗi thăng trầm, cơn vinh nhục trên bước đường đời, tác giả không quên kết luận bằng mấy câu đạt quan, để tinh-thần ra ngoài vòng cùng, thông, được, hỏng, dầu sao cũng cố giữ vững lấy cái tâm có thủy, có chung, trước sao sau vậy, cốt mong báo đáp công ơn những ai đã đào tạo cho mình:

Đành tấm thân nhờ đào tạo còn dày, nếp đắc táng 23 có bàn chi sự cũ. – Cầm tấc dạ đối quỷ thần không hổ 24, niềm thủy chung chớ có phụ ơn trên.

Nhờ bài Tự thuật này, ta được biết rõ hơn và sâu hơn về thân thế Lý Văn-Phức.

« BẤT PHONG-LƯU » TRUYỆN

Đúng như nhan truyện đã mang, đó là tiểu truyện (cũng như sự-tích hoặc tiểu-sử) một người tên là « Bất-Phong-Lưu ».

Bất-Phong-Lưu ấy là danh,

Hỏi quê, rằng ở Bắc-thành ngày xưa.

Theo lời dẫn của Hải-châu-tử trong bản chữ nôm, thì truyện này, Lý-Văn-Phức soạn năm giáp-ngọ (1834), khi về dạy học ở làng Thế-lại (?).

Truyện gồm 90 câu, viết bằng thể lục bát. Nội dung miêu tả những thú phong-lưu ở đời, như chè, thơ, cầm, cờ, tửu, sắc, tuy cũng vui vui đấy thật, nhưng rút cục chỉ đi đến chỗ gây kiêu ngạo, tổn danh tiếng, hại sức khỏe, chứ chẳng hay gì.

Xanh-xanh 25 hồ dễ riêng ai,

Đã cho tai mắt biết mùi phong lưu.

Phong lưu sao chửa thấy đâu?

Tấm thân thấy những bấy lâu thiệt-thòi!

Mình là kẻ « Bất-Phong-Lưu », thật-tế đã dạy phải lo cho gia-đình: Con thơ một lũ, mẹ già bảy mươi. Cho nên, thay vào những thú phong-lưu mà người đời ham thích ấy, mình phải cần cù học tập, gắng cho nên người.

Khi thì đèn sách khu-khu,

Lấy gương hiền phạm, thánh mô làm thày.

Và lo-lắng việc công, cố mong báo đáp ơn cao như trời, dày như đất:

Khi thì công-sự lo-toan,

Gọi là học chút từ-hàn mảy-may.

Xót mình còn có ngày rày.

Tóc tơ ngõ 26 giả 27 cao dày chút chăng.

Cuối bài có kết mấy câu:

Phong-lưu truyện cũ thiếu gì,

« Bất-Phong-Lưu » mới chép ghi truyện này.

Nhời quê 28 nói lắm cũng rầy,

Khách phong-lưu hỡi! có hay chăng là?

CHU HỒI, TRỞ PHONG THÁN

Dưới đầu đề này 29, bản nôm có dẫn mấy lời làm « mũ »: « Năm giáp-ngọ (1834), cụ (Lý Văn-Phức) đi Hạ-châu, gặp gió bão, trở về, mới làm ra bài này. Bấy giờ cụ mới được mông ân phục chức cho làm Binh-bộ chủ-sự ».

Nay xét truyện Lý Văn-Phức trong Đại Nam liệt truyện, Chính biên, Nhị-tập, khi Văn-Phức được lên Binh-bộ chủ-sự, lại được phái đi Tân-gia-ba. Mà trong bài Chu hồi, trở phong thán có câu: « Số quan quân một trăm chín, kéo lá cờ, thông Tây-quốc 30 cho vời ». Vậy có thể nói: Đó là chuyến đi Tân-gia-ba, trở về, gặp bão.

Bài này cũng viết biền ngẫu (đối nhau), bắt đầu bằng câu: « Đương năm giáp-ngọ, ngồi chiếc Thanh-dương 31... »

Đến đoạn kết, tác-giả viết: Con cóc kêu lâu cũng thấu từng cao: xin soi xét ngõ cho lòng than thở. Ngọn gió thổi sớm được về đất cũ, thấy vẻ-vang cho bõ lúc trông mong.

Đã là thể « thán » 32, thì cả bài đều toàn một giọng than-vãn để tiết ra những nỗi đau khổ, lo phiền.

Chẳng hạn như tả lúc thuyền bị gió bão xô đi đẩy lại không sao tiến được: Buồm bát đi trở lại, được mấy tấc đường! Lèo bỏ xuống, kéo lên, kể năm bảy độ!

Và: Lĩnh 33 Côn-lôn há xa bao nả? thấy đó, còn đây! Thuyền Định-dương 34 hay gấp mấy trùng: đi lui, về trước.

Để tả tình hình trong thuyền, nhiều người say sóng, lại thiếu nước ngọt ăn uống, tác-giả viết ra những lời thành-thật mà thảm thê:

Đau-đớn thay, người dại sóng, say vời bữa cơm nhịn suốt thâu ngày, cầm chén cháo gắng dần cho lấy sống! Chua xót nhẽ, kẻ dầu sương, giãi nắng, liều nước đến chia từng giọt, gặp cơn mưa mừng vội ngỡ là tiêu!

*

Tóm lại, qua mất tác phẩm trên, ta nhận thấy tác-giả Lý Văn-Phức là người kính cẩn, giữ-gìn, trung hiếu, đáng làm tiêu biểu cho lớp người nho-học thuần-túy ở đương thời.

Bấy giờ mới là đầu thế-kỷ XIX, thế mà tác-giả đã biết yêu chuộng tiếng mẹ, để ý viết được nhiều thể văn: lục bát có, song thất có và biền ngẫu cũng có. Mà thể văn nào, tác-giả cũng đã thành công trong sự chải-chuốt và chặt-chẽ.

Muốn biết rõ hơn, chúng ta cùng nhau, từ chương sau trở đi, lần-lượt xét thêm về tư-tưởng, nghệ-thuật và Nhị thập tứ hiếu diễn âm của Lý Lân-chi, bấy giờ sẽ hạ mấy lời phê bình tổng quát.

Chú thích:

[13] Trong Đại-nam chính biên liệt truyện, Nhị tập, chép là: Tây hành kiến văn lục, Mân hành thi thảo và Chu-nguyên tạp vịnh.

[14] Tức là Bài châm dạy vợ con mà trước giờ vẫn lầm là của Nguyễn-Trãi. Bắt đầu bằng câu: « Đặt quyển sách vắt tay nằm nghĩ, Hễ làm người dạy kỹ thì nên... » (Về vấn đề này, sẽ nói kỹ ở cuốn Nguyễn-Trãi với Gia-huấn của H.B.)

[15] Viết bằng thể lục bát gồm có những chữ thường dùng.

[16] Bài Tự thuật này và hai bài sau (Bất phong-lưu truyện. Chu hồi, trở phong thán) tôi đều phiên âm theo bản chữ nôm do Hải-châu-tử chép trong Quốc văn tùng ký.

[17] Tục gọi làng Khuốc thuộc phủ Tiên-hưng tỉnh Thái-bình ngày nay

[18] Bản nôm chép lầm là « ất-mão ». Nay xin hiệu đính lại.

[19] Bản nôm chép lầm là « bính-thìn ». Xin hiệu đính lại.

[20] Ý nói không đỗ tấn-sĩ.

[21] Những đồ hình-cụ ngày xưa, tức là gông để xiềng cổ và cùm để khóa chân.

[22] Đồ ăn của tội nhân xưa, khi phải phát-phối đi làm lính thú hoặc giải đi lưu-đày.

[23] Được và mất.

[24] Giữ tâm được trong-sạch, ở chỗ vô hình, không hổ thẹn với thần-linh thiêng liêng

[25] Chỉ Trời ở cao và xanh thẳm.

[26] Ngõ hầu.

[27] Trả, tức là báo đáp.

[28] Bản chữ nôm chép là « nhà quê ».

[29] Bài than về việc thuyền sứ trở về, gặp bão.

[30] Chỉ xứ Tân-gia-ba do người Tây-phương (Anh-cát-lợi) cai trị.

[31] Tên một chiếc tàu đồng ở đời Minh-mệnh.

[32] Cũng như thể-tài Bần nữ thán, nhưng khác nhau về hình-thức văn-chương.

[33] Núi.

[34] Tên một chiếc tàu đồng ở đời Minh-mệnh. Bản nôm chép lầm là « Định-tường ». Nay hiệu đính lại.