CHƯƠNG IX: TỔNG KẾT
Lý Văn-Phức là một tác-giả ở đầu thế-kỷ XIX. Về Hán văn, ông có nhiều thi phẩm, hầu hết là những bài ngâm vịnh trong mấy chuyến đi sứ ngoại quốc. Nhưng, sách này chỉ riêng kể những tác phẩm bằng Việt văn, nên loại tác phẩm Hán văn của ông chỉ dùng làm tài liệu tham khảo, chứ không dùng làm đối tượng nghiên cứu.
Trong mấy tác phẩm tiếng Việc của Lý Văn-Phức có tập Nhị thập tứ hiếu diễn âm là đáng chú ý hơn hết. Tập sách đó, ông làm nhằm năm ất-mùi (1835) trong khi lưu trú ở Quảng-đông (Trung-hoa) vì có việc bang giao với nhà Thanh. Giúp việc « hợp đính » để thành sách ấy, có hai bạn ông là Đỗ Tuấn-Đại và Trần Tú-Dĩnh.
Tập Nhị thập tứ hiếu diễn âm ấy bắt đầu mở bằng tám câu:
Người tai mắt đứng trong thiên địa,
Ai là không bác mẹ sinh thành?
Gương treo đất nghĩa, giời kinh,
Ở sao cho xứng chút tình làm con.
Chữ « hiếu » niệm cho tròn một tiết,
Thì suy ra trăm nết đều nên.
Trải 85 xem thủa trước Thánh, Hiền:
Thảo 86 hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu...
Tiếp đó, soạn-giả trình-bày đủ « thảo hai mươi bốn » như ta đã thấy ở chương VII trong sách này.
Đến cuối sách, soạn-giả cũng viết 8 câu nửa trên (câu 1 – câu 4) để kết thúc hai mươi bốn truyện người hiếu-thảo:
Bấy nhiêu tích cổ nhân về trước,
Cách nghìn xưa như tạc một lòng:
Kể chi kẻ đạt, người cùng,
Lọt lòng 87, ai trốn khỏi vòng di luân ?
Còn nửa dưới (câu 5 – câu 8), Lý Văn-Phức nói đến tâm sự soạn-giả, động cơ biên tập (cảm thân giầy đội và thẹn bóng đèn), thời-gian (buổi công hạ), không-gian (xa hương quan) làm sách, và mục đích truyền Nhị thập tứ hiếu ra quốc âm (muốn lưu gia phạm).
Sau khi đọc hết Nhị thập tứ hiếu diễn âm ta được một vài nhận xét:
Lời tuy mộc-mạc, « thật thà », nhưng văn gọn gàng, sáng sủa và bình dị, tiện dùng để làm bài học luân lý trong một xã-hội nhất định và ở một thời-đại nhất định.
Còn giá trị từng cốt truyện có đứng vững hay không thì tùy ở bạn đọc phê phán. Nay, để giới-thiệu một nhận-định theo quan-điểm của một học-giả Trung-hoa, tôi xin dịch đúng nguyên văn (chữ Hán) mấy lời của Hồ Thích phê bình về chữ « hiếu » có dính-líu đến truyện Vương Tường:
« Trong ba thứ hiếu 88 mà Tăng-tử nói đó 89 người đời sau chỉ nhớ được điều thấp kém nhất (tức điều thứ ba), chỉ chăm dụng công vào một chữ « nuôi ». Rất đỗi một bà mẹ « trái chứng » đòi ăn cá tươi ở mùa đông 90, con trai bà ta bèn đi nằm trên băng lạnh, thế mà từ trong băng giá nhảy ra con cá chép tươi 91.
« Những truyện hoang đường là thế đó! Vậy mà có người vẫn tin là thật, cho rằng con hiếu phải nên như thế. Đủ biết ý nghĩa chân-chính của chữ « hiếu » đã bị chôn vùi từ lâu mất rồi! » [92]
Viết ngày 24-11 – 29-12-1952.
Chú thích:
[85] Nhiều bản quốc-ngữ lầm là « chẳng ».
[86] Hiếu thảo. « Thảo hai mươi bốn » tức là hăm bốn người hiếu thảo: Nhị thập tứ hiếu.
[87] Nhiều bản quốc-ngữ lầm là « vòng ».
[88] Hiếu lớn nhất là « tôn thân » (làm cho nhân cách của mình và nhân cách của cha mẹ được tăng cao lên, khiến mình và cha mẹ đều có tiếng tốt) ; hiếu thứ hai là « phất nhục » (đừng làm ô nhục cái nhân cách của chính mình mà cha mẹ đã truyền cho mình) ; hiếu thứ ba là « năng dưỡng » (biết nuôi cha mẹ).
[89] Chép ở thiên Tế-nghĩa trong sách Lễ-ký.
[90] Hồ Thích muốn nói về mùa đông ở xứ rét nước đông thành băng.
[91] Nguyên chú của Hồ Thích: Truyện Vương-Tường trong Tấn-thư. Còn Lý Văn-Phức thì tả thế này:
« Trên váng đóng quyết cầu cho thấy,
Cổi áo nằm, rét mấy cũng vui.
Bỗng không, váng lở làm hai,
Lý-ngư may được một đôi mang về. »
[92] Trung-quốc triết-học sử đại cương, quyển thượng, trang 127-128.
IN TẠI NHÀ IN LÊ CƯỜNG
XONG NGÀY 15-11-53