← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VIII: TRÍCH GIẢNG-ĐÁNH HỔ CỨU CHA

(Truyện Dương Hương)

Tấn, Dương Hương, mới mười bốn tuổi.

Cha bước ra hằng ruổi theo cha,

Phải khi thăm lúa đồng xa,

Chút thân tuổi tác thoắt sa miệng hùm!

Đau con mắt hầm hầm nổi giận,

Nắm tay không, vơ-vẩn giữa đường...

Hai tay dằn dọc, đè ngang,

Ra tay chống với hổ lang một mình.

Hùm mạnh phải nhăn nanh, lánh gót.

Hai cha con lại một đoàn về.

Cho hay « hiếu » mạnh hơn « uy »:

Biết cha, thôi lại biết chi có mình.

Xuất xứ. – Đấy là truyện thứ mười chín trong Nhị thập tứ hiếu diễn âm của Lý Văn-Phức.

Truyện Dương Hương này, do Lý Văn-Phức dựa trong nguyên thư Nhị thập tứ hiếu bằng Hán văn, của Quách Cư-Nghiệp, người đời Nguyên (1280-1367), mà soạn ra.

Cốt truyện Dương Hương ấy bắt gốc từ sách Dị uyển của Lưu Kính-Thúc (?-468?), người Bành-thành, cuối đời Tấn, đầu đời Tống.

Nguyên truyện ấy chép trong Dị-uyển đại khái thế này: Dương Phong, người Nam-hương thuộc Thuận-dương đời Tấn, cùng con tên là Hương, ra đồng gặt lúa (chứ không phải đi « thăm lúa »), bị cọp vồ.

Dương Hương bấy giờ mới 14 tuổi, trong tay không có lấy một mũi dao con (tức là « tay không »), nhưng cứ thẳng xông chẹn cổ con cọp, cứu cha được thoát...

Thể tài. – Truyện Dương Hương của Cư-Nghiệp đó được Lý Văn-Phức diễn ra quốc âm theo thể lục bát gián thất hoặc song thất lục bát, cũng như thể tài của Chinh phụ ngâm (bản dịch nôm) và Cung oán ngâm khúc.

Đau con mắt hầm hầm nổi giận ;

Nắm tay không, vơ vẩn giữa đường.

(Mỗi câu bẩy chữ: song thất)

Hai tay dằn dọc, đè ngang,

Ra tay chống với hổ lang một mình.

(Câu trên sáu, câu dưới tám chữ: lục bát)

Cốt truyện. – Một chàng thiếu niên, con nhà nông dân, mới 14 tuổi, hằng ngày thường giúp cha trong việc làm đồng, góp sức vào công cuộc sản xuất nông nghiệp.

Một bữa, cha không may bị nạn cọp vồ. Trước cơn nguy biến ấy, hắn chân tay không, suốt người không có lấy một thanh sắt để làm khí giới, nhưng vì lòng thương cha, nên cứ mạo hiểm chống hổ để cứu cha thoát khỏi nanh vuốt của cọp dữ. Chàng thiếu niên ấy tên là Dương Hương.

Bố cuộc. – Lý Văn-Phức, viết truyện này, cũng như nhiều truyện khác trong Nhị thập tứ hiếu diễn âm, theo lối trực khởi, nghĩa là bắt đầu « vào bài » ngay, chứ không dùng câu « lung » hoặc câu « mở ». Cuối bài đặt hai câu làm lời kết (cũng theo chung một lối như hầu hết các truyện khác 76 trong Nhị thập tứ hiếu diễn âm).

Vậy, có thể chia truyện ấy làm hai phần: Phần thứ nhất, nói về người con hiếu chống cọp cứu cha (câu 1 – câu 10). Phần thứ hai, là lời kết và là lời bình của soạn-giả Lý Văn-Phức (câu 11 – câu 12).

Chú giải. – Như ta đã thấy ở trên, Dương Hương, là một thiếu niên 14 tuổi, ở đời Tấn, tức là nhà Đông-Tấn bên Trung-quốc, từ năm 317 đến năm 419. Sở dĩ gọi « Tấn Dương Hương », là theo ngữ-pháp Hán-văn, cũng như nói « Trần Chu An » hoặc « Lê Nguyễn Xí ». Nếu theo ngữ-pháp Việt-văn, thì phải: « Dương Hương đời Tấn » và « Chu An đời Trần », hoặc « Nguyễn Xí đời Lê ».

Hùm, hầm, cọp, khái, kễnh, hoặc « ba mươi » đều là tiếng Việt chỉ con hổ (chữ nho).

Tuổi tác: có tuổi, nhiều tuổi 77. Ví dụ: « Thương người tuổi tác già nua bần hàn » (Gia huấn ca).

Hổ lang: Hổ, một giống mãnh thú: ta gọi là hùm, hầm v.v... Lang: một loài dã thú, tính dữ và ác, ta gọi sói hoặc chó sói. Nghĩa bóng: trong văn chương thường dùng « hổ lang » để tượng-trưng cho những cái gì là hung bạo, tàn ác và tham lam. Có điều nên chú ý: theo lối quen dùng thì nói « hổ lang » (toàn Hán văn), hoặc « hùm lang » (nửa Việt, nửa Hán), hoặc « cọp sói » (toàn tiếng Việt), chứ không nói « hổ sói » hoặc « cọp lang ». Nhưng đó thuộc về vấn đề ngữ học, ta không nên đi quá phạm vi sách này.

Uy (hiếu mạnh hơn uy), là đọc theo âm chữ Hán ; chuyển sang âm ta và nghĩa ta, là oai. Từ-nguyên của Trung-hoa chỉ cắt nghĩa là « tôn nghiêm », như vậy còn thiếu. « Uy » đây (theo nghĩa trong truyện Dương Hương) phải giảng là « oai mạnh », nghĩa là cái sức mạnh tợn, dữ dội như oai cọp.

Hiệu đính. – Riêng truyện Dương Hương này, nhiều bản quốc-ngữ đã làm sai lầm mấy chỗ như: « hùm » (câu 4) chứ không phải « hầm ». Hai chữ này tuy cùng nghĩa, nhưng phải để là « hùm » cho ăn vần với « hầm-hầm » ở câu dưới.

« ...Hầm-hầm » (câu 5), chứ không phải « ầm-ầm ». Hầm hầm có nghĩa là căm hờn hiện ra vẻ mặt, nhưng lặng lẽ hành động để đối phó, chứ không nói năng, không kêu than 78.

« …Dằn dọc, đè ngang » (câu 7), chứ không phải « trằn trọc đè ngang ». Vì câu ấy có nghĩa rằng Dương Hương, với hai tay tung hoành (dọc ngang), vật xuống, ấn xuống (dằn) và đè xuống khiến cho con cọp phải buông Dương Phong là cha ra.

Đây là công việc hiệu đính cổ văn để mong khỏi làm sai lạc nguyên ý của Lý Văn-Phức, chứ không phải là sự so sánh để tìm những điểm dị đồng giữa các bản sách nữa.

Phê bình. – Truyện này, cả cốt truyện lẫn lời bình, chỉ gói ghém trong 12 câu, nhưng soạn-giả Lý Văn-Phức đã trình bày một cách sáng sủa và gọn ghẽ. Về lời, soạn-giả đã cố gắng, chọn được nhiều tiếng dễ hiểu, không phải dùng lắm chữ nho. Đó một phần cũng vì truyện ấy có tính-chất cụ-thể, không phải cần đến ý thức trừu-tượng, nên phần nhiều những tiếng hữu-hình cũng đủ biểu thị được ý nghĩa (chẳng hạn như: lúa, đương xa, miệng hùm, đau con mắt, nắm tay không, hai cha con...)

Về ý, soạn giả nêu: Một bên « hiếu », một bên « uy », rồi nói ngay rằng « hiếu mạnh hơn » để cho đồng cân nặng trúc về bên « hiếu », khiến độc-giả thoạt nhìn đã thấy ngay rằng một khi bên « hiếu » đã choán cả tâm hồn người con thì dù cái « uy » mạnh tợn, dữ-dội, ghê-gớm như oai cọp, cũng không đáng kể vào đâu, vì con hiếu đó chỉ một niềm biết có cha, chỉ hăng-hái can-đảm cứu nạn cho cha, chứ không quản ngại đến tính-mạng mình, nên không thấy cọp dữ là đáng sợ nữa. Chỉ gọn-ghẽ trong hai câu (11 và 12), thế mà soạn-giả đã nói được nhiều ý nghĩa...

ĐỘI GẠO, NUÔI CHA MẸ

(Truyện Tử-Lộ)

Thày Tử lộ, cũng người nước Lỗ,

Thờ hai thân từng bữa canh lê.

Thường khi đội gạo đi về,

Xa xôi trăm dặm, nặng nề hai vai.

Đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc,

Gót nam du nhẹ bước tang bồng :

Xe trăm cỗ, mạch 79 muôn chung,

Ngồi chồng đệm 80 kép, ăn chồng vạc cao.

Thân phú quí, ngẫm vào thêm tủi,

Đức cù lao nghĩ tới càng đau:

Nào khi đội gạo, canh rau,

Muốn còn như cũ dễ hầu được ru?

Lòng thắc-mắc nghìn thu vẫn để,

Biết bao giờ cam chỉ đền công?

Cho hay dạ hiếu khôn cùng.

Dẫu tam công chẳng đổi lòng thần hôn.

Xuất xứ. – Đó là truyện thứ năm trong Nhị thập tứ hiếu diễn âm. Truyện Trọng Do, tên tự là Tử-lộ này, nếu truy nguyên ra, thì gốc từ thiện Trí tư trong sách Gia-ngữ 81. Vì trong đó chép: «...Xưa kia, Trọng Do (tên của Tử-lộ) khi phụng dưỡng cha mẹ, thường ăn những món rau lê, rau hoắc, đi đường xa hàng trăm dặm, đội gạo cho song-thân. »

Do tài-liệu ấy, Quách Cư-Nghiệp dùng làm cốt truyện mà chép bằng Hán-văn vào trong nguyên-thư Nhị thập tứ hiếu ; rồi Lý Văn-Phức lại dựa vào đó mà soạn thành truyện Tử-lộ trong Nhị thập tứ hiếu diễn âm bằng Việt-văn.

Thể tài. – Cũng như truyện Dương Hương, truyện Đội gạo nuôi cha mẹ này viết theo thể song thất lục bát:

Thân phú quí, ngẫm vào thêm tủi,

Đức cù lao nghĩ tới càng đau:

Nào khi đội gạo, canh rau,

Muốn còn như cũ dễ hầu được ru?

Cốt truyện. – Một nhà hiền-giả đời Xuân thu (722-481 tr. C.n.) lúc còn hàn-vi, không có của ngon vật lạ để phụng-dưỡng cha mẹ, nhưng vẫn hết lòng hiếu-thảo: kiếm từng nắm rau lê, hoắc 82 để nấu canh và lễ-mễ đội gạo hàng trăm dặm đường để làm cơm cháo. Đến khi cha mẹ mất cả rồi, ông ấy mới nhẹ bước lên đường, làm quan với nước Vệ. Bấy giờ thật phú quí: đi lại thì có hàng trăm cỗ xe, ăn lộc thì được hàng muôn chung lúa mạch ; khi trời rét thì ngồi hàng mấy lần đệm ấm ; khi bữa ăn thì nấu bằng nhiều cái vạc to 83. Thấy mình đương sống trong cảnh giàu sang, chạnh lòng nhớ thương cha mẹ đã chết, không cho mình được phụng thờ báo đáp thì phú quí cũng bằng thừa, ông ấy đau buồn tủi cực, muốn trở lại cái cảnh bần-hàn xưa mà canh rau đội gạo để phụng dưỡng cha mẹ cũng không được nào. Hận ấy kéo dài mãi, vì còn cơ-hội đâu nữa mà dâng miếng ngọt bùi (cam chỉ) để báo đền công ơn cha mẹ!

Nhà hiền-giả ấy tên là Trọng Do, tự là Tử-lộ, người ấp Biện nước Lỗ, đời Xuân-thu (722-418 tr. C.n.), học trò của Khổng-tử, trội về khoa chính-sự.

Bố cuộc. – Cũng như nhiều truyện khác trong Nhị thập tứ hiếu diễn âm, soạn-giả Lý Văn-Phức nhập-đề ngay, không dùng câu phá để mở đầu gì cả. Đối-tượng kỷ-thuật là Tử-lộ, một trong 72 vị hiền-triết được thờ ở Văn-miếu Hà-nội.

Câu 1 – câu 4: Tả tử-lộ, dù ở trong cảnh bần-hàn, vẫn hết lòng hiếu dưỡng cha mẹ.

Câu 5 – câu 8: Tả Tử-lộ, sau khi cha mẹ chết, làm nên phú quí, hưởng cảnh rất sung-sướng về phần vật-chất.

Câu 9 – câu 14: Tả trạng-thái tâm-lý Tử-lộ: Dù được giàu sang, nhưng tinh-thần vẫn rất đau buồn vì cha mẹ chết cả, còn biết dâng ngọt hiến bùi cho ai được nữa!

Ông muốn trở lại cảnh bần-hàn như xưa để cứ được đi đường xa, đội gạo nặng mà phụng dưỡng song thân, nhưng nào có được! Bởi thế tâm trạng ông thường băn-khoăn thắc-mắc, dằng-dặc hàng nghìn thu!

Câu 15 – câu 16: Kết-luận. Soạn-giả Lý Văn-Phức cho rằng lòng hiếu thảo của người con thảo thật là mông-mênh vô cùng: dù tam công là những chức lớn cũng không quí bằng cái cảnh sớm hôm được gần-gụi để phụng-dưỡng cha mẹ.

Chú giải. – Lê (bữa canh lê): Tên một thứ cây thuộc loài « thảo », thân cây khá cao, khi già, có thể dùng làm gậy, lá như hình quả trứng mà có răng cưa, trong lòng lá thì màu đỏ ; khi lá còn non, có thể hái làm rau ăn. Hoa nhỏ mà vàng xanh. « Lê » với « hoắc » 84 (lê hoắc hoặc hoắc lê) đều là những rau dùng làm món ăn của người nghèo. Cung oán ngâm khúc có câu: « Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon », chính là rau lê này.

Hoa biểu: Lấy điển trong Xưu thần hậu ký: Đinh Lệnh-Uy là người Liêu-đông đời Hán, học đạo ở núi Linh-hư, sau hóa hạc bay về Liêu-đông, đậu trên cột hoa biểu, kêu rằng: « Con chim, con chim, Đinh Lệnh-Uy, lìa nhà nghìn năm, nay mới về: thành quách như xưa, nhân dân khác cũ! Người đời sao chẳng có tu tiên? Mả lớn, mồ con, hàng đống, hàng lũ! », « Đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc », ý nói từ khi cha mẹ khuất bóng, hóa hạc xa bay, đậu trên ngọn (đỉnh) cột hoa biểu, tức là chết rồi.

Tang bồng: Cũng như bồng tang. Do chữ tang hồ (cung gỗ dâu), bồng thỉ (tên cỏ bồng). Tục xưa, khi sinh con trai, người ta lấy cung dâu và tên bồng bắn sáu phát lên trời, xuống đất và bốn phương để đặt hi-vọng vào con đó, khi lớn, sẽ vẫy vùng ngang dọc. Cho nên « tang bồng » là thành-ngữ chỉ về chí khí nam-nhi dọc ngang bốn phương trời đất.

Ngồi chồng đệm kép, ăn chồng vạc cao: Do câu chữ Hán trong sách Gia-ngữ: « Lũy nhân nhi tọa, liệt đỉnh nhi thực », chồng mấy lần đệm mà ngồi, bày nhiều cái vạc mà ăn. Ý nói chỗ ngồi êm và bữa ăn sang của kẻ phú quí.

Cù lao: Chữ trong thiên Lục-nga ở kinh Thi của Trung-hoa. Ý nói công lao cha mẹ thai nghén, sinh đẻ và nuôi con rất khó nhọc.

Cam chỉ: Miếng ngọt, miếng bùi, mùi ngon, vị ngọt.

Dẫu tam công, chẳng đổi lòng thần hôn. Do câu « cổ nhân nhất nhật dưỡng, bất dĩ tam công hoán », người xưa cho rằng nếu một ngày được phụng-dưỡng cha mẹ thì dù ai có « các » cho làm chức tam công (thái-sư, thái-phó và thái-bảo) cũng không chịu đổi. Ý nói: coi sự được phụng-dưỡng cha mẹ quí hơn chức-vị tam công.

Phê bình. – Trong bài có nhiều chỗ « tiểu đối » rất khéo léo như: « xa xôi trăm dặm » với « nặng nề hai vai », « xe trăm cỗ » với « mạch muôn chung »... Ấy là chưa kể những vế đối trọi như « Thân phú quí ngẫm vào thêm tủi! Đức cù lao nghĩ tới càng đau! » Có điều đáng chú ý: theo sách Gia-ngữ, thì Tử-lộ thường ăn rau lê, rau hoắc, vì cha mẹ mà đội gạo đi hàng trăm dặm, chứ không phải Tử-lộ phụng-dưỡng cha mẹ « từng bữa canh lê ». Có lẽ soạn-giả Lý Văn-Phức vì chỉ căn cứ vào nguyên thư của Quách Cư-Nghiệp mà chưa tìm được xuất-xứ từ sách Gia-ngữ, nên mới lầm theo nguyên tác chăng?

Chú thích:

[76] Tựu trung thỉnh thoảng cũng có truyện kết bằng 4 câu như: « Tuổi bé mà gan chẳng bé, Dạ ái thân đến thế thì thôi. Cho hay phú tính bởi giời, Những đau trong ruột dám nài ngoài da. » (Truyện Ngô Mãnh).

[77] Việt-Nam tự điển của ban Văn-học hội K.T.T.Đ. cắt nghĩa « tuổi tác » là « nói chung về tuổi » (trang 538) e chưa ổn, vì « tuổi tác » thường hay dùng cho người già, chứ không mấy khi nói về tuổi người trẻ.

[78] Việt Nam tự điển của K.T.T.Đ. (tr. 232) thiếu tiếng « hầm-hầm ».

[79] Lúa mạch, xưa dùng để phát lương cho các quan liêu. Nhiều bản quốc-ngữ in lầm là « mệnh ».

[80] Cái đệm để ngồi cho êm (xem thêm mục chú giải). Nhiều bản quốc-ngữ in lầm là « chăn »

[81] Sách do Vương Túc đời Ngụy lượm-lặt sách nọ sách kia mà dựa-dẫm làm thành: chép những dật sự của Khổng-tử.

[82] Xem cắt nghĩa ở mục « Chú giải » và lời bác ở mục « Phê bình ».

[83] Người chép truyện chỉ có ý nói Tử-lộ bấy giờ cực kỳ giàu có sang trọng, chứ thực ra, không phải đúng hẳn số-lượng như thế.

[84] Lá một thứ đậu.