← Quay lại trang sách

PHẦN NHẤT - MẶC TỬ CHƯƠNG I THÂN THẾ

Mặc tử là một nhân vật kì dị nhất của Trung Hoa, kì dị từ tên họ, tới tư tưởng và đời sống, kì dị đến nỗi gần đây người Trung Hoa ngờ rằng ông có dòng máu Ấn Độ hoặc Ả Rập (!) chứ không thể là con cháu của Phục Hi, Thần Nông được.

Họ là Mặc, một họ mà trước ông và sau ông cơ hồ không có người thứ hai nào mang tên. Sinh trong giới bình dân, có thể là tiện dân nữa, ông dùng ngôn ngữ của bình dân, lối lí luận của bình dân, dựng lên một triết thuyết cho bình dân, bênh vực quyền lợi của bình dân; lập nên một chính đảng kỷ luật rất nghiêm – Có thể nói là một tôn giáo nữa - rất đông người theo, trên hai thế kỷ ảnh hưởng ngang với Khổng phái, nhưng rồi ảnh hưởng đấy chìm luôn trong non hai ngàn năm, mãi tới đời Thanh mới có người lục các sách cũ để tìm hiểu Mặc học. Kì dị nhất và đáng phục nhất là con người đó có lẽ không vợ không con, suốt đời lo việc thiên hạ, hễ nghe nói một nước nào tấn công nước khác thì dù xa xôi tới đâu cũng gấp rút đi tới – Có lần đi mười ngày đêm không nghỉ (!) từ Lỗ đến Sở - để tìm cách thuyết phục, ngăn cản, ngăn cản không được thì tìm cách bảo vệ giùm nước bị tấn công, bắt mấy trăm môn đệ của mình hi sinh giữ thành cho, chống với kẻ xâm lăng, và họ tuân lệnh ông răm rắp. Đọc lịch sử nhân loại, tôi chưa thấy một người thứ hai nào yêu hòa bình, bênh vực kẻ yếu như ông.

Một nhân vật có công với dân tộc Trung Hoa, làm vẻ vang cho dân tộc Trung Hoa như vậy mà sách vở chép rất ít, khiến cho tới nay, đời của ông còn rất nhiều nghi vấn.

Không ai hiểu tại sao. Tư Mã Thiên trong bộ Sử ký không chép truyện Mặc tử, chỉ viết vỏn vẹn hai mươi bốn chữ phụ vào thiên Tuân Khanh liệt truyện, nghĩa như sau:

“Mặc Địch, một đại phu nước Tống, giỏi chống giữ [thành], chủ trương tiết dụng. Có người bảo là sống một thời với Khổng tử”.

Có phải vì từ thời Hán Vũ Đế (đời Tư Mã Đàm và Tư Mã Thiên) học thuật đã bị nhà Nho lũng đoạn, Mặc học bị coi là tà thuyết, nên Tư Mã Thiên chỉ viết vắn tắt như vậy chăng?[1] Vắn tắt mà lại rất mơ hồ: Không cho biết sống ở thời nào, quê hương ở đâu, còn về học học thuyết thì chỉ nhắc đến chủ trương tiết dụng.

Một số sách thời Tiên Tần như Mạnh tử (thiên Đằng Văn công hạ), Tuân tử (thiên Phi thập nhi tử), Hàn Phi tử (thiên Hiển học) ghi, tuy có nhiều đoạn khen hoặc chê – Chê nhiều hơn khen - học thuyết Mặc tử, nhưng hoàn toàn không cho ta biết chút gì về đời của Mặc tử cả.

HỌ VÀ TÊN

Về họ và tên, các sách đều nhất trí ghi là Mặc Địch. Nhưng cái họ “Mặc” đó kì dị quá, cho nên Chu Lượng Công đời Thanh đưa ra thuyết Mặc là tên đạo, chứ không phải tên họ; sau Giang (Tuyên)[2] trong tập Độc tử chi ngôn, rồi Tiền Mục trong cuốn Mặc tử phụ họa vào.

Đại khái Giang bảo trong sách Mặc tử có nhiều chỗ gọi là Tử Mặc tử (thầy Mặc tử), mà thời đó chữ tử dùng để tôn xưng, chỉ đặt trước tên hiệu chứ không đặt trước tên họ, chẳng hạn không ai gọi là Tử Khổng Cấp mà gọi là Tử Tư (Tử Tư là tên hiệu của Khổng Cấp, cháu nội Không Tử). Lí do đó không vững? Trong sách Trang tử có năm chỗ gọi Tống Kiên là Tử Tống tử. Và ngay trong sách Mặc tử cũng có chỗ gọi Cầm Hoạt Li là Tử Cầm tử, không thể bảo Liệt, Tống, Cầm đều không phải tên họ.

Tiền Mục bảo chữ Mặc (nghĩa là mực, đen), chỉ một hình pháp ngày xưa: Tội nhân bị xâm đen vào tráng rồi đày làm nô dịch. Mặc tử chủ trương tiết dụng, để tang ngắn, không dùng âm nhạc, sống một đời cực kì khắc khổ, lao động cực nhọc nên người thời đó gọi ông và môn đệ của ông là Mặc, có ý nghĩa coi như bọn nô dịch. Một chứng cớ là thiên Quí Nghĩa sách Mặc tử chép rằng Mặc tử đem học thuyết của mình trình bày với Mục Hạ, bề tôi của Sở Huệ Vương, Mục Hạ mừng lắm, bảo: “Lời của thầy rất hay, nhưng vua chúng tôi là một đại vương trong thiên hạ, chắc sẽ bảo: “Đó là việc làm của người thấp hèn (tiểu nhân) mà không dùng lời của thầy chăng?”

Mặc tử là một tiện dân, điều đó có thể tin được; ông sống cực khổ như một tiện dân, điều này chắc chắn; còn việc người đương thời vì vậy mà gọi ông là Mặc thì chỉ là một giả thuyết tuy hữu lí (cho nên được Phùng Hữu Lan – trong bộ Trung Quốc triết học sử - chấp nhận) nhưng chưa có chứng cứ gì cả. Chưa biết sự thực ra sao thì chúng ta cứ tạm nhận Mặc là tên họ.

Còn Địch thì là tên tục, không nghi ngờ gì nữa, vì trong bộ Mặc tử, có rất nhiều chỗ Mặc tử tự xưng là “Địch tôi”.

NƠI SINH

Về quê quán của Mặc tử, Sử ký không ghi; người sau đưa ra nhiều thuyết. Chúng ta gạt bỏ thuyết gần đây nhất đăng trên một số Đông phương tạp chí năm 1929 của Thương vụ ấn thư quán bảo Mặc tử không phải là người Trung Hoa mà là người Ấn Độ vì Mặc tử có nghĩa là mọi đen mà thuyết kiêm ái của của Mặc cũng như thuyết đại bi của Phật. Thuyết đó chỉ là lập dị, đáng cho ta mỉm cười mà thôi.

(Nguồn: http://baochivn.com/images/imported/2011/01/226.jpg)

Còn lại ba thuyết Mặc tử sinh ở Sở, ở Tống, ở Lỗ.

- Thuyết sinh ở Sở do Tất Nguyên đời Thanh đưa ra. Thiên Lữ Gián trong bộ Lữ thị Xuân Thu bảo Mặc tử là người Lỗ, Tất Nguyên hiểu lầm là Lỗ Dương, một miền ở Sở, nên cho quê quán của Mặc tử ở Sở.

Nhưng trong Mặc tử có nhiều chỗ chép Mặc tử đi tới Sở, chẳng hạn:

Thiên Quí Nghĩa, bài 3: Tử Mặc tử nam du ư Sở.

Thiên Canh Trụ, bài 5: Tử Mặc tử du Kinh (tức Sở).

Nếu Mặc tử là người ở Lỗ Dương nước Sở thì không thể viết như vậy được, mà phải viết: Tử Mặc tử Dĩnh[3] (Thầy Mặc tử tới Dĩnh, kinh đô nước Sở) cũng như không thể nói một người Việt đi tới nước Việt mà phải nói tới Saigon hay Hà Nội. Vậy thuyết của Tất Nguyên cũng phải gạt bỏ.

- Thuyết sinh ở Tống có lẽ căn cứ vào bốn chữ “Tống chi đại phu” (đại phu của nước Tống) trong Sử kí.

Nhưng thiên Công Thân trong Mặc tử kể chuyện Công Thâu Ban chế tạo cho nước Sở một kiểu thang máy để đánh Tống. Mặc tử từ nước Lỗ đi mười đêm mười ngày không nghỉ để đến kinh đô Sở là Dĩnh, thuyết phục Công Thâu Ban và vua Sở đừng đánh Tống. Vua Sở nghe lời. Trên đường về, Mặc tử đi qua nước Tống, gặp trời mưa, vào một cổng làng để tránh mưa, người giữ cổng ngờ là gián điệp không cho vô. Việc đó đủ chứng tỏ rằng Mặc tử không phải là đại phu nước Tống, cũng không phải là người Tống[4].

- Rốt cuộc, còn lại thuyết sinh ở Lỗ. Thuyết này đáng tin hơn cả. Chứng cớ ở ngay trong sách Mặc tử.

Thiên Quí Nghĩa, bài 2, chép: “Tử Mặc tử tự Lỗ tức Tề” (Thầy Mặc tử từ Lỗ tới Tề).

Thiên Lỗ Vấn, bài 14, chép: vua Việt cho Công Thượng Quá một đoàn năm chục cỗ xe để qua Lỗ rước thầy Mặc tử (…dĩ nghinh Tử Mặc tử ư Lỗ).

Ngoài ra thiên Phi Công trung, có câu: “Phía đông có nước Cử”, thiên Quí Nghĩa bài 18 có câu: Thầy Mặc tử đi lên phía Bắc để tới nước Tề… tới sông Tri… phải về. Mà Cử đúng là ở phía Đông nước Lỗ, Tề đúng là ở phía Bắc nước Lỗ.

Vì những chứng cứ đó mà hầu hết các học giả Trung Hoa ngày nay đều nhận rằng Mặc tử là người nước Lỗ. Phùng Hữu Lan trong Trung Quốc triết học sử bảo thuyết Mặc tử là người Lỗ “cơ hồ có thể coi là định luận”; Đường Kính Cảo trong Mặc tử cũng bảo: “Những thuyết cho Mặc tử là người Tống, người Sở đều đã bị người trước bác, không đứng được; …thuyết người Lỗ đáng coi là đúng; Phương Thụ Sở trong Mặc học nguyên lưu còn quả quyết hơn: “thuyết Mặc tử là người Lỗ… vững như núi, không sao lay động nổi”.

SINH VÀ TỬ

Về năm sinh và năm tử, các học giả Trung hoa đưa ra nhiều thuyết, không thuyết nào đáng tin hẳn. Chúng ta hãy gạt bỏ hai thuyết cực đoan, sai nhiều đến hai trăm năm: tức thuyết Mặc tử đồng thời với Khổng tử[5] mà Tư Mã Thiên đã chép trong Sử kí nhưng còn coi là nghi vấn; và thuyết của Tất Nguyên nhà Thanh căn cứ vào câu (của Mặc tử): “Trung Sơn chư quốc vong ư Yên, Đại, Hồ, Mạch chi gian” cho là Mặc tử còn được trông thấy cuộc diệt vong của nước Trung Sơn và đoán rằng Mặc tử người đời Lục quốc, hồi cuối Chu[6] hãy còn” (Mặc tử của Ngô Tất Tố - in lần thứ nhì, Khai Trí 1959 – tr.13, 14).

Chúng tôi không hiểu Tất Nguyên trích câu “Trung Sơn chư quốc vong ư Yên, Đại, Hồ, Mạch chi gian” ở đâu, chứ trong Mặc tử, thiên Phi Công – trung, chúng tôi chỉ thấy câu: “Bắc giả, Tra, Bất Trứ Hà, kì sở dĩ vong ư Yên, Đại, Hồ, Mạch, chi gian giả, diệc dĩ công chiến dã” (Phương Bắc, các nước Tra, Bất Trứ Hà – tức Bất Đồ Hà, ở Phụng Thiên ngày nay – mất về Yên, Đại, Hồ, Mạch ở bên cũng là do chính sách đánh chiếm). Hai nước Tra, Bất Trứ Hà đó có phải là những nước mà Tất Nguyên gọi là nước Trung Sơn không? Nếu là Trung Sơn thì, theo Từ Hải, bị nước Triệu[7] – chứ không phải Yên, Đại, Hồ, Mạch – diệt năm 20 đời Chu Noản vương (-295).

Gạt bỏ hai thuyết trên đi rồi, còn lại bốn thuyết nữa xê xích nhau khoảng ba chục năm. Như vậy là chuyện thường, không có gì đáng ngạc nhiên.

a- Thuyết sớm nhất, do Uông Trung đưa ra, cũng căn cứ vào một vài câu trong các thiên Phi Công – trung, Phi Công – hạ, mà chúng tôi không chép lại, sợ rườm[8]. Hồ Thích theo thuyết đó và đoán định rằng Mặc tử sinh vào khoảng 500 -497, mất vào khoảng 425 -415.

b- Tôn Di Nhượng trong Mặc tử niên biểu căn cứ vào những cuộc đối đáp giữa Mặc tử và Công Thâu Ban, Lỗ Dương Văn Quân chép trong Mặc tử, cho rằng Mặc tử phải đồng thời với Tử Tư (cháu nội của Khổng tử) và sinh sau Tử Tư, vào khoảng 468, mất vào khoảng 376. Thuyết này trễ nhất.

Lương Khải Siêu sửa lại thuyết đó, Mặc tử niên đại khảo bảo Mặc tử sinh trong khoảng 468 -459, chết trong khoảng 390 -382.

c- Tiền Mục trong Mặc tử niên biểu cho Mặc tử sinh sớm hơn một chút, vào năm Khổng tử mất (479) và chết cùng năm với Ngô Khởi (381). Thuyết này ở giữa thuyết của Uông và thuyết của Tôn, Lương.

Vũ Đồng trong Trung Quốc triết học đại cương đại khái đồng ý về năm sinh của thuyết đó nhưng cho Mặc tử chết trước Ngô Khởi khá lâu, có thể từ 397. La Căn Trạch cho Mặc tử chết trong khoảng 329 -382.

d- Sau cùng, Phương Thụ Sở trong Mặc học nguyên lưu cho Công Thâu Ban với Lỗ Ban là một người (điều này Từ Hải bác bỏ), mà Lỗ Ban là con Lỗ Chiêu Công, có thể lớn hơn Mặc tử khoảng hai chục tuổi, để tới kết luận rằng Mặc tử sinh vào khoảng 490, mất khoảng 403. Tiêu Công Quyền trong Trung Quốc chính trị tư tưởng sử theo thuyết này.

Chúng tôi nhận thấy các học giả kể trên chỉ dùng những sự việc chép trong Mặc tử để suy đoán; cơ hồ trong bộ sử các nước chư hầu thời đó, như Lỗ, Trịnh, Sở, không có một tài liệu nào về Mặc tử cả, điều này cũng dễ hiểu: Mặc tử cũng như Liệt tử, Dương tử, Trang tử… không hề làm quan, nên sử không chép về ông.

Mà những sự việc chép trong Mặc tử đáng tin tới mức nào, hình như cũng chưa có nhà nào nghiên cứu kĩ lưỡng. Nội một việc này cũng làm cho ta phải thận trọng. Bộ Mặc tử không phải của Mặc tử viết, mà do nhiều môn đệ của ông ghi lại, kẻ trước người sau, vì vậy mà các thiên chính (Thượng hiền, Thượng đồng, Kiêm ái, Phi công v.v…) đều có ba bản khác nhau, biết tin hẳn bản nào.

Lại thêm, trong số hàng chục hàng trăm sự việc, mỗi học giả chỉ dùng dăm ba sự việc để suy luận, và khi hai nhà dùng hai sự việc khác nhau thì kết luận có thể khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau nữa. Do đó mà mỗi nhà đưa ra một thuyết, và nhà nào cũng nhận rằng may mắn là thuyết của mình không xa sự thực lắm, chỉ đáng coi là một giả định thôi. Chính vì vậy mà chúng tôi không muốn chép lại những suy luận của họ, chỉ tóm tắt rất sơ lược như trên thôi.

Viết cuốn này chúng tôi chỉ mong trình bày tư tưởng của Mặc tử chứ không có tham vọng nghiên cứu, và để kết thúc đoạn về năm sinh năm tử của Mặc tử này chúng tôi lập bảng dưới đây cho độc giả dễ thấy.

Chúng tôi không quyết định được thuyết nào đáng tin cậy hơn cả; chỉ lựa những niên đại trung bình được nhiều nhà đưa ra:

Sinh vào khoảng 490 tới 479, chết vào khoảng 403 –382. Và trong tập này cũng như trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc (Cảo Thơm), chúng tôi tạm dùng niên đại theo Vũ Đồng: 480 –397.

THỜI ĐẠI

Tóm lại ta có thể nói Mặc tử sinh ở Lỗ, có phần chắc là sau khi Khổng tử mất, như vậy là ngọn đuốc triết học của nước Lỗ truyền từ Khổng tử qua Mặc tử mặc dầu Mặc không thuộc về Khổng phái. Khổng sống ở cuối thời Xuân Thu, Mặc mở đầu cho thời kì Chiến Quốc[9], trước cả Dương Chu, Lão Đam, Liệt Ngự Khấu. Suốt hai thời Xuân Thu và Chiến Quốc xã hội Trung Hoa vẫn chuyển biến liên tục, không bị gián đoạn, nhưng xét chung thì thời Chiến Quốc xã hội loạn hơn, biến cố dồn dập hơn. Chỉ cần coi niên biểu các đại sự đời Chu ở cuốn bộ Từ Hải chúng ta thấy điều đó.

Trong đời Khổng tử 551–479, trên bảy chục năm, về việc các nước chư hầu đánh chiếm lẫn nhau, chỉ có ba vụ quan trọng Từ Hải ghi lại:

506: Ngô đánh Sở.

494: Ngô vương Phù Sai đánh bại Việt vương Câu Tiễn.

487: Tống diệt Tào.

Mà trong đời Mặc tử 480 -397 (niên đại theo Vũ Đồng), trên tám chục năm, có tới chín vụ:

478: Sở diệt Trần (sau khi Khổng mất được một năm).

473: Sở diệt Ngô.

461: Tần đánh Tây Nhung, diệt Đại Lộ.

453: Ba nhà Triệu, Hàn, Ngụy diệt Trí Bá, chia đất thành Tam Tấn.

447: Sở diệt Thái.

445: Sở diệt Kỉ.

432: Việt diệt Cử.

418: Việt diệt Đàm.

408: Tấn Ngụy Tư lấy Trung Sơn.

Rõ ràng là chiến tranh dồn dập; và nếu ta đọc tiếp niên biểu tới hết đời Chu, qua tới đời Tần thì thấy càng về sau chiến tranh càng nhiều và càng khốc liệt.

Nguyên nhân chính là do dân tộc Trung Hoa đã bước vào thời đại đồ sắt.

Thời Ân, người Trung Hoa dùng lưỡi cày bằng gỗ, thời Tây Chu đã có lưỡi cày bằng đồng đỏ, nhưng đồng đỏ mềm, cũng chỉ cào được mạt đất thôi, không đào sâu thành luống được. Cuối thời Xuân Thu, ở Ngô, Việt mới tìm ra được sắt, đúng hơn là phát sinh ra thuật luyện sắt trong những lò rất nhỏ, rất sơ sài. Sắt lúc đó gọi là “ác kim” (vàng, bạc, đồng là “mỹ kim”) và chỉ dùng chế tạo những đồ dùng tầm thường, nhưng lại có tác dụng lớn trong đời sống kinh tế, như lưỡi cuốc, lưỡi cày, lưỡi liềm, chiếc đục, chiếc thuổng, chiếc rìu… Vào khoảng đầu thế kỷ thứ VI trước T.L ở nước Ngô có xuất hiện những truyền thuyết về hai thanh gươm Can Tương và Mạc Da[10] bén hơn những thanh gươm thường nhiều, vì đúc bằng sắt, và từ đó sắt được dùng làm binh khí. Có xưởng đúc phải dùng tới ba trăm người kéo bễ cho lò đủ nóng mà làm chảy được sắt. Và qua thời Chiến Quốc thì sắt đã thông dụng, mà sách Mạnh tử (thiên Đằng Văn Công thượng - bài 4) chép một câu Mạnh tử hỏi Trần Tương: “Hứa tử - tức Hứa Hành, thầy của Trần Tương, và chủ trương người nào cũng phải cầy ruộng lấy mà ăn – có dùng nồi đồng, trách đất nấu ăn không, có dùng lưỡi cày bằng sắt mà cày không?”.

Nhờ có những công cụ bằng sắt, sức lao động giảm đi mà năng suất cao lên: người ta cày sâu hơn, lúa tốt hơn, đào kinh dễ dàng hơn, hệ thống tưới hoàn thiện hơn, phá rừng mau hơn, mở mang thêm được nhiều đất cày, do đó mà nông nghiệp phát triển đạt mạnh. Muốn mở mang thêm đất, phải bỏ chế độ tỉnh điền, và thay đổi chính sách thuế má. Địa chủ thì tài sản tăng lên, uy quyền lớn lên, mà nông dân thì bị bóc lột hơn.

Công nghiệp cũng phát đạt vì nhu cầu chế tạo dụng cụ mới (nhà nào cũng muốn có một lưỡi cày, một chiếc cuốc, một lưỡi rìu, một con dao… bằng sắt). Phương tiện giao thông vận tải được cải thiện. Do đó thương mại cũng phát đạt: nhiều con buôn hóa giàu hơn bọn quí tộc, mà hễ giàu thì có quyền. Đô thị mọc lên rất mau, đường sá phải đắp thêm. Người ta thấy biên giới các nước làm cản trở sự lưu thông, chính sách thuế quan bất tiện cho thương mại, cho nên muốn phá biên giới mà thống nhất Trung Quốc.

Công việc thống nhất này được dễ dàng nhờ khí giới bằng sắt. Những khí giới này sắc bén, công hiệu hơn nên chiến tranh tàn khốc hơn. Chiến thuật cũng tiến bộ: giữa thế kỉ thứ V, người ta biết dùng kị binh và Công Thâu Ban đã cải thiện thuật công thành. Quan niệm về chiến tranh cũng thay đổi với kĩ thuật chém giết, công phá. Thời Xuân Thu chiến tranh còn ít nhiều theo luật quân tử, qua thời Chiến Quốc, nó theo luật rừng rú. Kinh tởm nhất là năm -260, tướng Tần Bạch Khởi chôn sống bốn chục vạn quân Triệu đã đầu hàng. Ngay trước thời Mạnh tử, đã có cảnh thây người chất đầy đồng; quân lính chết nhiều thì phải bắt nhiều lính. Già nửa dân số phải đi lính, để có được những đạo quân hàng trăm ngàn người; và để nuôi số quân đó, những kẻ ở nhà (đàn bà và người già) có khi phải nộp cho nhà nước tới ba phần tư hoa lợi. Nhưng cũng nhờ vậy mà các nước nhỏ mau bị thôn tính mà việc thống nhất Trung Quốc mới hoàn thành được.

Tóm lại, tất cả những chuyển biến, hỗn loạn trong xã hội Trung Hoa thời Chiến Quốc, truy nguyên ra thì đều không trực tiếp cũng gián tiếp là hậu quả của sự phát minh kĩ thuật luyện sắt. Chẳng phải chỉ riêng Trung Hoa như vậy. Ở Tây Á và Âu Châu cũng vậy, nơi thì sớm hơn, nơi thì trễ hơn Trung Hoa, nhưng đều trong nửa thiên niên kỷ trước T.L. Ở Tây Á là thời kì bành trướng của đế quốc Ba Tư; ở vùng Balkan, Alexandre đại đế của Hy Lạp chinh phục cả một khu vực từ sông Nil tới sông Ấn, sau Hy Lạp, đến đế quốc La Mã ở Địa Trung Hải.

Người ta không còn ngạc nhiên rằng tại sao các đế quốc lớn, các nền văn minh cổ đại của nhân loại cơ hồ cùng xuất hiện vào một thời, ở Đông và ở Tây. Chỉ vì loài người thời đó mới biết luyện sắt. Sắt đã tạo ra nền văn minh nông nghiệp, cũng như điện lực đã tạo ra nền văn minh kĩ thuật ngày nay. Từ một văn minh này chuyển qua một nền văn minh khác, xã hội mất sự ổn định cố hữu, và phải trải qua một thời hỗn loạn trong nhiều thế kỷ. Nhân loại hiện nay cũng như Trung Hoa thời Chiến Quốc đương ước ao một sự thống nhất, đại đồng. Và chúng tôi có cảm tưởng rằng thế hệ chúng ta chưa thấy được sự ổn định đó đâu.

Chú thích:

[1] Có người lại nghi hai hàng đó không phải của Tư Mã Thiên mà của người sau thêm vào.

[2] Tra Từ Hải và Từ Nguyên chúng tôi không thấy chữ đó.

[3] Chắc sách in thiếu chữ “du”: Tử Mặc tử du Dĩnh. (Goldfish).

[4] Phương Thụ Sở trong cuốn Mặc học nguyên lưu còn dẫn câu đầu bài 16 thiên Lỗ Vấn: Tử Mặc tử cho (một môn đệ là) Tào Công tử ra nước ngoài (xuất) tới nước Tống (để làm quan), ba năm sau Tào Công tử trở về (phản), và bảo nếu Mặc tử là người Tống thì không dùng chữ xuất và chữ phản. Nhưng theo Đường Kính Cảo thì chữ xuất đó nên sửa là sĩ là làm quan.

[5] Khổng tử: 551-496

[6] Thế kỉ thứ 3 trước T.L.

[7] Năm thứ tư đời Triêu Huệ vương. (Goldfish).

[8] Độc giả có thể coi trong Mặc tử của Ngô Tất Tố.

[9] Các sử gia chia thời Đông Chu làm hai thời kì: thời Xuân Thu (722 –479) và thời Chiến Quốc (479 -221). Có nhà đã chia lại: Thời Xuân Thu: 770 –403, thời Chiến Quốc 403 –221, cho hợp lí hơn một chút; nhưng lối trên đã thành thông dụng rồi.

[10] Can Tương nổi tiếng về thuật rèn gươm ở nước Ngô, thời vua Hạp Lư lần đó nấu sắt mãi không chảy. Vợ là Mạc Da thấy vậy, ăn chay tắm gội rồi nhảy vào lò luyện kim sắt mới chảy. Nhờ vậy Can Tương rèn được hai cây kiếm báu, một cây dương đặt tên là Can Tương, một cây âm đặt tên là Mạc Da. Truyền thuyết đó tỏ rằng thuật luyện sắt thời đó tiến bộ nhất ở Ngô.