CHƯƠNG II HÀNH ĐỘNG
Ở đầu chương trên, chúng tôi đã nói Mục Hạ, một bề tôi của Sở Hiến Huệ vương khen thuyết của Mặc tử là hay nhưng ngại vua Sở không dùng vì Mặc tử là một tiện nhân. Đại khái xã hội Trung Hoa thời đó chia làm bốn hạng người từ trên xuống dưới: Sĩ, nông, công, thương. Hễ là dân thường, không phải là sĩ thì là tiện nhân hết... Cho nên Khổng tử tuy ở trong giai cấp quí tộc đã suy vi, mà thời chưa được làm quan, cũng tự cho mình là tiện nhân: “Ta hồi trẻ hèn (tiện) cho nên biết làm nhiều việc nhỏ nhen”.
Bài 13 thiên Quí Nghĩa, Mặc tử bảo Huyền Đường tử: “Địch tôi trên không có phận sự thờ vua, dưới không phải khó nhọc mà cày ruộng, cho nên đâu dám bỏ việc đọc sách”.
Hồi đó ông đã đi chu du khắp thiên hạ để truyền bá học thuyết của mình. Nhưng thời trai trẻ, chắc ông cũng phải có nghề. Căn cứ vào bài 22 thiên Lỗ Vấn:
“Công Thâu tử chẻ, vót tre để làm một con chim khách bay được ba ngày mà không rớt, tự cho mình là rất khéo, thầy Mặc tử bảo: “Chim khách của ông không bằng cái chốt xe của tôi, chỉ đẽo ba tấc gỗ một lát là thành mà nó đỡ được sức nặng năm mươi thạch” (mỗi thạch 120 cân).
Người ta đoán rằng Mặc tử có thời làm thợ đóng xe.
Truyện đó, Hàn Phi tử (thiên Ngoại từ thuyết tả thượng) chép khác: chính Mặc tử bỏ ra ba năm làm được con diều hâu bằng gỗ bay được một ngày. Môn đệ ông khen là khéo.
Mặc tử mãi lo cứu đời, chắc không nghĩ mà cũng không bỏ ra ba năm làm một con diều hâu bay được. Cho là Công Thâu Ban chế tạo được thì có lí hơn. Nhưng có điều này chắc chắn: Mặc tử giỏi về phòng ngự, giữ thành, nghĩa là ông giỏi về chiến thuật, về chế tạo binh khí, cơ khí. Sử ký đã chép vậy mà trong nhiều thiên trong Mặc tử (như Công Thâu, Bị thành môn v.v...) cũng chép vậy. Có thể bảo ông là một kĩ sư giỏi.
*
Khổng tử là người đầu tiên gây phong trào dạy tư, và ai ham học thì bất kì trong giai cấp nào, ông cũng thâu nhận. Trong số các môn đệ của ông có nhiều người nghèo mà có tài đức như Nhan Hồi, Nguyên Hiến, Nhiễm Ung... Khi ông mất rồi, môn sinh của ông noi gương ông mở trường truyền bá đạo của thầy. Lỗ vốn là đất vua nhà Chu phong cho Chu công mà Chu công là người đặt ra các lễ nghi, điển lệ của nhà Chu, cho nên Lỗ giữ được nhiều truyền thống tốt, nổi tiếng là văn minh. Phong trào học tư ở Lỗ thời đó chắc phát đạt nhất Trung Hoa, và hạng tiện nhân như Mặc tử muốn học thì không khó khăn gì lắm.
Mặc tử học ai? theo Lữ thị Xuân Thu (thiên Dương Nhiễm) thì ông học Sử Giác, một người do Chu Hoàn vương sai lại Lỗ, rồi bị vua Lỗ Huệ công giữ lại. Thuyết đó không tin được vì Chu Hoàn vương (719 - 696) không thể sống đồng thời với Lỗ Huệ Công được; mà Chu Hoàn vương sống ở thế kỷ thứ VII, còn Mặc tử ở thế kỷ thứ V.
Chúng ta chỉ có thể đoán Mặc học đạo Nho vì ông thường dẫn Thi, Thư, Xuân Thu.
Chắc chắn ông đã dạy học. Hồi nào và ở đâu, thì chúng ta không biết được. Môn đệ của ông rất đông: trong thiên Công Thâu ông bảo vua Sở rằng đệ tử của ông là Cầm Hoạt Li gồm ba trăm người giữ những khí giới ông chế tạo ra để bảo vệ thành trì của Tống, chống lại những thang mây của Công Thâu Ban. Trong bộ Mặc tử, chúng ta còn được thấy tên trên một chục học trò của ông: Trị Đồ Ngu, Huyền tử Thạc, Canh Trụ Sở, Cao Thạch tử, Quản Kiềm Ngao, Tào Công tử, Thắng Xước, Cao Tôn tử, Cầm Hoạt Li, v.v...
Ông không dạy lục nghệ (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu) như Khổng tử vì ông không ưa lễ, nhạc cho lễ là phiền toái, nhạc là xa xỉ, không có lợi gì cả, chỉ làm cho dân nghèo, nước suy. Có lẽ ông chỉ đem học thuyết của ông: kiêm ái, phi công, thượng đồng, thiên chí, tiết dụng... ra giảng cho môn sinh, nhất là bắt họ phải thi hành những điều đã học. Ông chủ trương rằng người trị nước thì miệng nói điều gì, thân phải thi hành (Chính giả, khẩu ngôn chi, thân tắc hành chi - Công Mạnh bài 24). Miệng nói mà thân không làm thì thân loạn, không trị nổi thân mình, để cho nó loạn thì làm sao trị được nước.
Ông dắt môn sinh đi chu du các nước để truyền bá đạo, giới thiệu cho một số ra làm quan, như Canh Trụ tử làm quan ở Sở (Canh Trụ 5), một người khác làm quan ở Vệ (Quí Nghĩa 13).
Chúng ta chỉ biết ông đã ở Lỗ, Tống, Vệ, Sở, Tề, có thể là Việt nữa, chứ không biết ông ở những nước đó vào những lúc nào.
Ở Lỗ, ông được vua Lỗ (có lẽ là Mục công) hỏi ý kiến hai lần. Một lần, Tề muốn đánh Lỗ, vua Lỗ không biết làm sao, ông khuyên: “Xin nhà vua trên thì kính Trời, thờ quỉ thần, dưới thì yêu và làm lợi cho trăm họ; tặng nhiều da và lụa, dùng ngôn ngữ nhúng nhường, mau mau giao hảo với các nước chư hầu bốn bên; rồi xua hết dân ra chiến đấu... Ngoài ra không có cách nào khác” (Lỗ vấn 1).
Một lần nữa vua Lỗ (không rõ là ai) có hai người con, một ngươi hiếu học, một người thích chia của cho người khác, không biết nên lựa người nào làm thái tử, hỏi ý kiến Mặc tử. Mặc tử bảo có thể hai người đó, mong được khen mà hành động như vậy, phải xét cả ý chí cùng công việc của họ thì mới biết được (Lỗ vấn 10).
Như vậy, ta thấy Mặc có thể được trọng ở Lỗ mà không dùng, mặc dù ông đã hai lần giúp nước bằng cách thuyết phục Hạng Tử Ngưu và Tề Thái vương đừng đánh Lỗ (Lỗ vấn 2, 3) - nhưng họ có lẽ không nghe.
Môn sinh của Mặc cũng không có ai làm quan ở Lỗ. Người Lỗ không ưa học thuyết của ông. Điều này cũng dễ hiểu. Vua Lỗ là hậu duệ của Chu Công, nước Lỗ là quê hương của Khổng tử. Mặc tử tuy học đạo Nho nhưng chống Nho về nhiều điểm (điều này chúng tôi sẽ xét kĩ ở sau), nên nhiều học giả ở Lỗ thường tranh biện với ông, như Vu Mã tử trong bài 4 và 6 thiên Canh Trụ (coi phần dịch), Công Mạnh tử - tức Công Minh tử, một môn đồ của Khổng tử - trong non mười bài ở đầu thiên Công Mạnh, và Trình tử, tức Trình Phiên cũng trong thiên Công Mạnh, bài 15. Ông bảo Trình Phiên rằng, đạo Nho có bốn chủ trương đủ để làm mất thiên hạ: Cho Trời là không sáng suốt, quỉ thần không thiêng; chôn cất tốn kém và để tang lâu; ham ca nhạc; tin có số mạng. Theo bốn chủ trương đó, thì người trên không trị nước, người dưới không làm ăn gì cả, nước tất phải mất.
Ông mạt sát đạo Nho như vậy, thì vua quan nước Lỗ không sao chịu được và ông phải qua nước khác để truyền bá tư tưởng.
Tống ở sát Lỗ về phía Nam, người Tống nổi tiếng là “ngu”. Chúng ta còn nhớ truyện một nông phu Tống ra ruộng nhớm mạ lên cho nó mau lớn (trong Mạnh tử); truyện một người Tống nữa thấy một con thỏ lỡ đâm đầu vào một gốc cây mà chết, lượm đem về, rồi từ đó ngày nào cũng lại ngồi ở gốc cậy đợi thỏ (trong Hàn Phi tử); truyện một người Tống mang mũ lễ qua bán ở nước Việt, mà người Việt thì cắt tóc xăm mình nên không dùng mũ đó; và truyện Tống Tương Công, đánh nhau với Sở ở Trác Cốc, không thừa dịp quân Sở đương qua sông mà tấn công, lại đợi cho họ qua sông xong rồi, dàn trận xong rồi mới thúc quân đánh; trận đó thua to, Tương Công bị thương mà còn bảo: “Bậc quân tử không đánh quân địch ở trong bước khốn cùng” (Hàn Phi tử), Tương Công lại không nỡ bắt những quân địch đã bị thương hoặc đã có hai thứ tóc. Có lẽ do đó mà có thuyết cho rằng, nước Tống có tinh thần kiêm ái và phi công (mạt sát chiến tranh xâm lăng).
Mặc tử cũng bị tác giả thiên Thiên hạ[1] trong Trang tử chê là dại dột, sống thì cần lao, chết thì chôn cất bạc bẽo; đạo khắc nghiệt quá, tự làm khổ tấm thân. Vậy thì tinh thần Mặc tử với tinh thần người Tống có chỗ hợp nhau, chắc ông có nhiều cảm tình với họ, cho nên mới đi mười đêm mười ngày từ Lỗ tới Sở để thuyết phục Công Thâu Ban và vua Sở đừng đánh Tống, lại sai một đám ba trăm môn đồ cùng với Cầm Hoạt Li giữ thành giùm cho Tống, sẵn sàng phá thuật tấn công bằng thang mây của Công Thâu Ban.
Lần đó có lẽ là lần đầu tiên Mặc tử lại kinh đô Dĩnh của Sở. Theo Phương Thụ Sở, thì vua Sở trong truyện đó là Sở Huệ vương và việc xảy ra vào khoảng - 445. Mặc tử thuyết Công Thâu Ban đừng dùng thang mây để đánh Tống vì như vậy bất nghĩa: làm cho nhiều người chết để mở mang bờ cõi cho Sở mà Sở thì đất đã dư rồi, dân lại thưa. Công Thâu Ban chịu, không cãi được, giới thiệu cho Mặc vào yết kiến Sở Huệ vương. Mặc cũng đem điều nghĩa ra giảng: Nước Sở đất rộng mà nhiều tài nguyên, nếu đánh chiếm nước Tống đã nhỏ lại ít tài nguyên, như vậy không khác gì người có cỗ xe trang hoàng đẹp đẽ mà còn muốn ăn trộm xe tồi tàn của hàng xóm; có quần áo bằng gấm thêu mà còn muốn ăn trộm chiếc áo vải thô của hàng xóm; có gạo thịt ngon mà còn muốn ăn trộm thức ăn xấu của hàng xóm.
Sở Huệ vương khen hay, nhưng lại để cho công Thâu Ban quyết định vì chính Công Thâu Ban có ý chiếm Tống nên mới làm chiếc thang mây.
Mặc tử lại phải thuyết phục Công Thâu Ban một lần nữa, vạch cho công Thâu Ban thấy rằng ông đã có khí giới để phá thang mây và đã cho ba trăm đệ tử tới Tống giữ thành cho Tống, chống lại sự tấn công của Sở. Lúc đó Công Thâu Ban mới chịu khuất phục. Vua Sở khen Mặc tử một lần nữa và thôi không đánh Tống (thiên Công Thâu).
Sau Công Thâu Ban nói với Mặc tử: “Khi chưa gặp được ông, tôi muốn chiếm nước Tống; từ khi gặp được ông rồi, dù người ta tặng tôi nước Tống mà tôi phải làm điều bất nghĩa thì tôi cũng không làm”. (Lỗ vấn 23).
Thiên Quí Nghĩa bài 3 chép một lần nữa, năm sáu năm sau (-439) Mặc tử xin yết kiến Sở Huệ vương. Theo Phương Thụ Sở (sách đã dẫn – trang 28) thì lần này Mặc tử dâng thư lên Sở Huệ vương. Huệ vương nhận, đọc rồi bảo: “Thư hay. Quả nhân tuy không làm chủ thiên hạ, nhưng thích nuôi người hiền”. Mặc tử từ chối bảo: “Địch tôi nghe nói rằng người hiền mà ra giúp đời[2] nếu đạo của mình không được thi hành thì không nhận thưởng, lời “nghĩa” của mình không được nghe thì không ngồi ở triều đình. Nay lời của tôi chưa được dùng, tôi xin đi”; rồi từ tạ vua Sở mà về[3]. Vua Sở sai Mục Hạ lấy cớ mình già mà từ chối. Mục Hạ lại thăm Mặc tử. Mặc tử thuyết phục Mục Hạ, Mục Hạ rất mừng bảo: “Lời của thầy thật hay, nhưng vua chúng tôi là một đại vương trong thiên hạ, sẽ bảo: “Đó là việc làm của hạng người thấp hèn mà không dùng lời của thầy chăng?”.
Mặc tử phải giải thích rằng hễ cái gì có ích thì dùng, điều gì phải thì theo, đừng nên chê là thấp hèn (coi thêm bài 3 Quí Nghĩa ở phần dịch).
Đoạn Mặc tử dâng thư lên Huệ vương đó chắc là sai, vì Huệ vương khen hay, muốn tặng Mặc tử một chức tước, nghĩa là có ý muốn dùng ít nhất thì cũng làm cố vấn, sao Mặc tử đã vội cho là không được dùng mà bỏ đi? Mặc tử bỏ đi rồi, vua Sở sao lại còn sai Mục Hạ lấy cớ mình già mà từ chối? Từ chối cái gì? Từ chối dùng Mặc tử? Nhưng chính Mặc tử đã từ chối không muốn nhận chức tước, bổng lộc vua Sở định tặng kia mà!
Đường Kính Cảo bỏ cả đoạn dâng thư đó là phải.
Mặc tử không nhận chức tước của Sở, nhưng cho môn sinh là Canh Trụ làm quan ở Sở. Nhờ bổng lộc của Sở mà Canh Trụ có được mười dật (240 lượng) vàng tặng Mặc tử để “thầy chi dùng”. Dĩ nhiên, Mặc tử không chỉ dùng cho bản thân ông (ông sống rất thanh đạm, khắc khổ, điều đó ngay những người mạt sát đạo ông cũng phải nhận như vậy) mà cho đảng của ông - các đảng chính trị thời nào, mà chẳng cần dùng nhiều tiền. Nếu truyện đó đúng thì quả là nước Sở giàu có và vua Sở biết “nuôi người hiền” thật.
Miền Bắc nước Sở giáp ranh với Hàn, có một huyện gọi là Lỗ Dương, hồi đó thuộc Sở. Văn Quân làm chúa miền đó, có lẽ được tự trị, như một chư hầu của Sở. Mặc tử thân thiện với Văn Quân. Thiên Lỗ vấn chép một lần Văn Quân hỏi ông thế nào là bề tôi trung, ông đáp bề tôi trung là người biết can vua khi vua lầm lẫn và mình có mưu gì hay thì trình bày với vua, chứ không phải là người vua bảo gì nghe nấy (bài 9): bốn lần nữa, ông khuyên Văn Quân đừng hiếu chiến, đánh chiếm nước láng giềng. (bài 4,5,6,7). Đáng ghi nhận nhất là bài 4 chép cuộc đối đáp giữa ông và Văn Quân khi Văn Quân muốn đánh Trịnh, mà chúng tôi sẽ phân tích trong chương Phi Công phần II.
Tề ở sát Lỗ mà lại muốn xâm chiếm Lỗ nên Mặc tử thường qua Tề. Thiên Lỗ vấn, bài 2, ông thuyết phục Hạng tử Ngưu, một tướng của Tề Thái Công, đừng đánh Lỗ vì chiến tranh luôn luôn hại cả cho nước lớn lẫn nước nhỏ; bài 3, ông thuyết Tề Thái Công, bảo thôn tính nước người lợi thì lợi thật, nhưng sẽ phải chịu điều bất tường (bị họa); Thái Công nhận là phải nhưng vẫn đánh Lỗ tiếm vương vị để làm bá chủ.
Chắc Mặc ở Tề khá lâu, nên có bạn cũ ở Tề (Quí Nghĩa 2) và một môn đệ là Cao Thạch tử có lần ở Vệ lại Tề để kiếm ông. (Canh Trụ 13).
Vệ ở gần Lỗ về phía Tây, nhưng ông ít tới, chỉ một lần khuyên Công Lương Hoàn tử, một đại phu của Vệ nên bớt xa xỉ, bớt nuôi ngựa tốt và đàn bà đẹp đi để có tiền nuôi lính giữ nước (Quí Nghĩa 14). Một môn đệ của ông làm quan ở Vệ nhưng không lâu (Quí Nghĩa 15).
Việc Mặc tử có qua Việt hay không còn là một nghi vấn. Nguyên văn bài Lỗ vấn 15 mở đầu như sau:
“Tử Mặc tử du Ngụy Việt. Viết: Kí đắc kiến tứ phương chi quân tử, tắc tương tiên ngữ?”[4].
Tôn Di Nhượng rồi Đường Kính Cảo cho Ngụy Việt là một môn đệ của Mặc tử, như vậy hai câu trên phải dịch là:
“Thấy Mặc tử sai Ngụy Việt đi du thuyết các nước. Ngụy Việt hỏi: “Gặp các bậc quân tử bốn phương thì lời nào nên đem ra nói trước (tức thuyết điều gì trước)?”.
Phương Thụ Sở cho Ngụy Việt là nước Ngụy và nước Việt và hai câu đó phải hiểu khác:
“Thầy Mặc tử muốn đi du thuyết ở nước Ngụy (ở phía Tây) và nước Việt (ở phía Nam). Có người nói: “Gặp các bậc quân tử bốn phương thì lời nào thầy sẽ đem ra nói trước?”.
Chính Phương cũng nhận rằng ông chỉ đoán vậy thôi chứ cái việc Mặc tử có đi nước Ngụy, nước Việt không thì trong sách Mặc tử và khảo thêm các sách khác đều không thấy chép; nhưng đại khái thì Mặc tử đã từng qua những nước đó, cho nên người ta mới bảo ông là vội vội vàng vàng, ngồi không nóng chiếu, ống khói bếp không bao giờ đen (ý nói ít khi ở nhà lâu) – (sách đã dẫn, trang 34).
Chúng tôi cho[5] thuyết của Tôn Di Như và Đường Kính Cảo vì bài Lỗ vấn 14 chép rằng vua Việt nhờ Công Thượng Quá (Một môn đệ của Mặc sai đi du thuyết ở Việt) cùng với năm chục cỗ xe lên nước Lỗ đón Mặc tử xuống Việt làm quân sư cho vua Việt, vua Việt xin cắt năm trăm dặm phong cho; Mặc tử không nhận lời bảo:
“Nếu vua Việt nghe lời ta, dùng đạo của ta thì ta sẽ tới, rồi xin được đủ ăn, đủ mặc, tự coi ta cũng như các bề tôi khác, chứ cầu được đất phong làm gì? Nếu nhà vua không nghe lời ta, không dùng đạo của ta mà ta tới thì chỉ là vì lúa (vì bổng lộc). Ở đâu thì cũng được lúa, mà ở đâu thì cũng là Trung Quốc cả, hà tất phải tới nước Việt?”.
Nếu truyện đó đúng thì Mặc tử không muốn tới nước Việt, có lẽ vì biết rằng vua Việt không theo nổi đạo của mình.
Chú thích:
[1] Chủ trương rằng thiên này không phải của Trang tử viết mà của ngươi đời sau (coi Trang tử).
[Nhà Văn hóa, 1994 xuất bản (BT)].
[2] Nguyên văn là tiến, tức chữ tiến trong “tiến vi quan, thoái vi sư”. Nghĩa là làm quan.
[3] Trang 15, Phương Thụ Sở cũng chép truyện này mà bỏ những hàng in ngã này – Phương không cho biết tại sao. [Trong bản nguồn, không có hàng nào in ngã. (Goldfish)].
[4]子墨子游,魏越曰:“既得見四方之君子,則將先語?” Câu này tôi chép lại từ Phần Chữ Hán ở cuối sách. Trang http://ctext.org/mozi/lus-question/zh cũng chép như vậy, nghĩa là chấm câu hơi khác, và dịch là: Thầy Mặc tử xuất ngoại du lịch, Nguỵ Việt hỏi: “Như gặp các vua chư hầu, thầy thuyết đều gì?” (Goldfish).
[5] Có lẽ là chữ “theo” chép lầm thành chữ “cho”. (Goldfish).